MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ VỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tập 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
(Chủ biên)
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ VỀ
LỊCH SỬ
VIỆT NAM
Tập 1
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ VỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tập 1
NGUYỄN VĂN HIỆP (Chủ biên)
HUỲNH NGỌC ĐÁNG – HÀ MINH HỒNG –
VƯƠNG QUỐC KHANH – HUỲNH THỊ LIÊM –
PHAN THỊ LÝ – TRẦN HẠNH MINH PHƯƠNG –
NGUYỄN THỊ THU THỦY – TRẦN VĂN TRUNG
Mã số sách chuẩn quốc tế (ISBN)
978–604–73–1761–5
Liên kết xuất bản
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Số 6 Trần Văn Ơn, P. Phú Hòa, TP. Thủ Dầu Một, Bình Dương
Điện thoại: (0650) 3.844.226; Fax: (0650) 3.837.150
Email: ; Website: www.tdmu.edu.vn
Xuất bản năm 2013
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Nguyễn Văn Hiệp ............................................................................ 07
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÀNG XÃ VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ
Huỳnh Thị Liêm – Trần Hạnh Minh Phương ............................ 09
MẤY VẤN ĐỀ VỀ LỊCH SỬ TRIỀU NGUYỄN THỜI KỲ ĐỘC
LẬP, TỰ CHỦ (1802–1884)
Phan Thị Lý .................................................................................... 41
NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
Huỳnh Ngọc Đáng .......................................................................... 87
TÔN GIÁO HỌC VÀ CÁC TÔN GIÁO LỚN Ở VIỆT NAM
Nguyễn Thị Thu Thuỷ ................................................................. 124
LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAM
Trần Văn Trung – Trần Hạnh Minh Phương .......................... 171
MẤY VẤN ĐỀ VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Vương Quốc Khanh....................................................................... 216
ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG VIỆT NAM
(1945 - 1975)
Hà Minh Hồng .............................................................................. 260
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẦU TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
Nguyễn Văn Hiệp .......................................................................... 296
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỊCH SỬ TỈNH BÌNH DƯƠNG
Nguyễn Văn Hiệp .......................................................................... 333
BIỂN ĐẢO VIỆT NAM – LỊCH SỬ VÀ HIỆN TẠI
Hà Minh Hoàng .............................................................................. 372
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện mục tiêu và sứ mệnh đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho tỉnh Bình Dương và khu
vực kinh tế trọng điểm phía Nam, Trường Đại học Thủ Dầu Một
đã có bước chuyển biến tích cực cả về quy mô đào tạo, đội ngũ cán
bộ giảng viên và công tác quản lý; mục tiêu, nội dung chương
trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ được hoàn thiện, công tác
tuyển sinh, đào tạo, quản lý đi dần vào nề nếp. Những kết quả đạt
được dự báo hướng phát triển của trường trong thời gian tới khả
quan và phù hợp với kế hoạch chiến lược đề ra.
Để đảm bảo cho công tác đào tạo ở Trường Đại học Thủ Dầu
Một theo kịp yêu cầu phát triển giáo dục đại học của nước ta, nhà
trường đã và đang tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp cụ thể như:
tăng nhanh quy mô đào tạo và xây dựng đội ngũ giảng viên, tăng
cường công tác quản lý đào tạo theo hệ thống tín chỉ, cập nhật và
hoàn thiện chương trình đào tạo, thường xuyên đổi mới phương
pháp giảng dạy. Một trong những việc làm cụ thể và thiết thực để
thực hiện các giải pháp trên là đẩy mạnh công tác biên soạn giáo
trình riêng của trường, xây dựng nguồn tài nguyên học tập phong
phú bao gồm cả giáo trình, sách tham khảo và tài liệu điện tử trực
tuyến.
Quyển sách Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam (tập 1)
được xuất bản là một trong những thành quả đầu tiên trong việc
thực hiện kế hoạch biên soạn giáo trình riêng của Trường Đại học
Thủ Dầu Một. Sách gồm mười chuyên đề nghiên cứu về lịch sử
Việt Nam, trong đó phần lớn là các chuyên đề đã và đang được
giảng dạy cho sinh viên ngành lịch sử ở Trường Đại học Thủ Dầu
Một. Đây là những chủ đề khoa học cơ bản thuộc một số lónh vực
sử học, liên quan đến những vấn đề lịch sử đương đại của cả nước,
khu vực và địa phương. Các chuyên đề trong tập này (và các tập
sau) là kết quả nghiên cứu bước đầu của các tác giả, được thể hiện
7
dưới dạng đề cương chi tiết, gợi mở những vấn đề cụ thể trong
giảng dạy, nghiên cứu và tham khảo, học tập. Một số chuyên đề có
sự phối hợp và giúp đỡ của các nhà khoa học, giảng viên các
trường đại học lớn ở thành phố Hồ Chí Minh, nhất là Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh. Một số chuyên đề khác do các giảng viên Trường
Đại học Thủ Dầu Một, cán bộ nghiên cứu tỉnh Bình Dương đảm
nhiệm với tinh thần mạnh dạn học hỏi.
Việc biên soạn các chuyên đề phục vụ giảng dạy sao cho
khoa học và hợp lý là công việc khó khăn, nhất là đối với Trường
Đại học Thủ Dầu Một, khi mà đội ngũ giảng viên ít và chưa có
nhiều kinh nghiệm trong xây dựng các chuyên đề giảng dạy ở bậc
đại học, do vậy quyển sách này không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Song với mong muốn đáp ứng yêu cầu phục vụ đông
đảo cán bộ, giảng viên và sinh viên trong tình hình giáo trình và
tài liệu tham khảo còn thiếu như hiện nay, Trường Đại học Thủ
Dầu Một mạnh dạn cho xuất bản. Nhà trường rất mong nhận được
ý kiến đóng góp của cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu trong,
ngoài trường và bạn đọc để công tác biên soạn các chuyên đề tiếp
theo cũng như trong công tác biên soạn giáo trình của trường được
tốt hơn.
Chủ biên
TS. Nguyễn Văn Hiệp
8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÀNG XÃ VIỆT NAM
TRONG LỊCH SỬ
Huỳnh Thị Liêm(1), Trần Hạnh Minh Phương(2)
Có một vị bộ trưởng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
nói “Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải
tìm hiểu cộng đồng làng xã và muốn xây dựng lại đất nước Việt
Nam thì cũng bắt đầu từ xây dựng lại cộng đồng làng xã, vì không
3
có làng xã Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam” . Làng của
các tộc người phía Bắc (Tày, Thái) gọi là bản, làng của các tộc người
ở Trường Sơn – Tây Nguyên gọi là buôn, làng của người Chăm gọi
là plei, làng của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long gọi là
sóc... Tất cả chung quy đều là đơn vị cư trú, đồng thời là đơn vị xã
hội cơ sở duy nhất của cộng đồng tộc người, trong đó tiêu biểu nhất
là làng của người Việt. Làng Việt (gồm cả làng Việt ở Nam Bộ) từ
cổ truyền đến đương đại đều là một cấu trúc kinh tế, xã hội, văn
hóa của người Việt (người Kinh) ở làng xã – đơn vị hành chính cơ
sở của xã hội Việt Nam. Làng xã Việt Nam trong lịch sử như thế,
nên là một trong những học phần rất cần quan tâm trong nghiên
cứu và học tập của sinh viên ngành lịch sử.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu về làng xã
Nguồn tư liệu là các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nưước Việt Nam về nông thôn, nông nghiệp, nông dân, về phong
1. Tiến sĩ, Trường Đại học Thủ Dầu Một.
2. Thạc sĩ, Trường Đại học Thủ Dầu Một.
3. Vũ Đình Hịe (bộ trưởng Bộ Tư pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), dẫn theo: Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2006), Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr. 4.
9
trào hợp tác hóa nông nghiệp… được lưu trữ tại các kho lưu trữ trung
ương và các địa phương.
Nguồn tư liệu thư tịch đương đại: sổ sách, công văn, giấy tờ,
biên bản, văn bằng, chỉ thị, nghị quyết, hóa đơn, chứng từ, số liệu
thống kê...
Nguồn tư liệu điều tra thực địa gồm: thư tịch thực địa (thần
tích, ngọc phả, sắc phong, văn bia, đại tự, câu đối, địa bạ, hương
ước, gia phả, chúc thư, văn tế, văn bia hay những ghi chép của các
gia đình, dòng họ), tư liệu vật chất (di tích, di vật: đình, chùa, đền,
miếu, văn chỉ, am quán, nhà thờ, nhà cửa, đường sá, cầu cống, công
cụ sản xuất, nghề nghiệp, chợ búa, đồ gia bảo và đồ dùng hàng
ngày từ xưa cho đến nay), tài liệu truyền miệng (các truyền thuyết
dân gian, ca dao, hò vè, địa danh…).
1.2. Khái niệm “làng”, “xã”, “làng xã”, “thôn”, “hương”
Làng là điểm dân cư tự nhiên, một hình thức của cộng cư nông
thôn” . Hay “làng là một đơn vị hành chính truyền thống thuộc cấp
2
cơ sở” . Một định nghóa khác chi tiết hơn “làng là đơn vị tụ cư truyền
thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở
hạ tầng, các tục lệ (về cheo cưới, tang ma, khao vọng) thờ cúng riêng,
tâm lý tính cách riêng và cả “thổ ngữ” (tiếng làng) riêng, hoàn chỉnh
3
và tương đối ổn định trong quá trình lịch sử” .
1
4
Xã là đơn vị hành chính của nhà nước phong kiến . Xã là
cộng đồng dân cư theo tổ chức hành chính. Quá trình can thiệp của
nhà nước vào làng, dần dần biến làng trở thành đơn vị hành chính
cấp cơ sở. Vào thế kỷ VII, Việt Nam đã có đơn vị xã từ 60 hộ trở
5
xuống . Tuy nhiên, vai trò của cấp xã thời kỳ này cũng chưa thật
rõ. Thời kỳ đầu, một xã chỉ có một làng, nhưng dần dần trong quá
1. Phan Đại Doãn (2010), Làng xã Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế văn hóa xã hội, NXB Chính trị
Quốc gia, tr. 39.
2. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt đồng bằng Bắc Bộ, NXB Khoa học Xã hội, tr.406.
3. Bùi Xuân Đính (1998), “Bàn thêm về mối quan hệ giữa làng và xã qua qui mô cấp xã thời phong
kiến”, trong Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (chủ biên): Nghiên cứu Việt Nam - một số vấn đề
lịch sử kinh tế, xã hội, văn hóa, NXB Thế Giới, tr. 97.
4. Phan Đại Doãn (2010), sđd, tr.39.
5. Phan Đại Doãn (2010), sđd, tr.39.
10
trình phát triển, một xã có khi bao gồm vài ba làng, thậm chí
nhiều hơn nữa. Khi ấy xã và làng khác nhau về quy mô.
Khái niệm “làng xã” chỉ xuất hiện sớm nhất là từ thế kỷ VII,
nhưng đến thế kỷ X, sau khi cấp xã chính thức xuất hiện, khái
niệm này mới trở thành phổ biến trong xã hội. Theo GS. Từ Chi,
làng xã là “một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và
1
sinh hoạt cộng đồng” .
Đến đầu thế kỷ XIX, thống kê theo sách Tên làng xã Việt
Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tónh trở ra) thì có
đến 70% số lượng làng xã trên tổng số 6.394 đơn vị, làng và xã là
một, nên người ta thường gọi chung là làng xã. Ngoài ra còn
2
khoảng 30% làng chỉ là bộ phận của xã .
Thôn xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ X. Cấp thôn ra đời do
nhu cầu quản lý hành chính của cấp xã. Thôn là đầu mối giáp nối,
gắn kết và điều hoà hai hệ thống quản lý hành chính và tự trị, luật
pháp và tục lệ, chính trị và xã hội.
Ở Việt Nam, xã và thôn xuất hiện đồng thời, song hành và hỗ
trợ cho nhau trong quản lý nông thôn. Xã là quản lý hành chính
bằng luật pháp của Nhà nước; còn thôn là nửa hành chính, nửa tự
trị, thôn có chức năng tham gia giải quyết các công việc hành chính
dưới luật và nhất là việc xử lý các vụ việc xảy ra mang tính nội bộ
của cộng đồng làng. Trưởng thôn vừa chịu sự lãnh đạo của xã
trưởng vừa phải thực hiện các nhiệm vụ của Hội đồng làng (Hội
đồng kỳ mục) giao phó. “Cấp thôn ra đời chính là do nhu cầu quản
lý hành chính của bản thân cấp xã. Nhà nước thông qua xã để quản
lý dân làng, nhưng xã khó có thể làm tốt chức năng quản lý hành
chính của mình nếu như không thông qua một cấp trung gian khác
là thôn. Thôn vì thế đã trở thành đầu mối giáp nối, gắn kết và điều
hoà hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, luật pháp và tục lệ,
3
chính trị và xã hội” .
1. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, NXB Khoa học Xã hội.
2. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2006), Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 26.
3. Nguyễn Quang Ngọc (2012), Quan hệ nhà nước – Làng xã: Quá trình lịch sử và bài học kinh
nghiệm, , truy cập ngày 27-2-2013, tr.3.
11
Hương là đơn vị hành chính địa phương cuối cùng của nhà
nước phong kiến. Hương tồn tại đến đầu thế kỷ XV và có phạm vị
rộng lớn hơn làng. Có hương tương đương với tổng của thế kỷ XIX
1
hoặc vài ba xã ngày nay. Chức xã quan quản lý hương .
1.3. Tên làng xã
Làng xã thường có hai tên gọi. Tên Hán Việt (tên chữ) là tên
chính thức trong hệ thống quản lý nhà nước. Tên Nôm (tên tục)
phổ biến trong dân gian. Hai tên gọi này còn tồn tại và duy trì cho
đến ngày nay. Tên Nôm phản ánh cảnh quan địa hình, địa vật (Kẻ
Lẫm – Thái Bình, nơi có kho thóc), Kẻ Chằm (Hải Dương, nơi có
địa hình trũng thấp thường bị ngập úng); phản ánh nghề nghiệp
(Nủa Chàng hay Chàng Thôn (Hà Tây) có nghề mộc); phản ánh
điều kiện tự nhiên, đặc sản địa phương (Côi Đàm – nước, Tam
Điệp, Ninh Bình; Diêm Điền (muối) ở Thái Bình).
Theo GS. Phan Đại Doãn, những làng có tên Nôm thường hình
thành vào thời Lý – Trần. Làng xã thuộc huyện Tiền Hải, Thái Bình
được thành lập vào đầu thế kỷ XIX không có tên Nôm. Tên Hán –
Việt trong các văn bản quản lý hành chính thường xuất hiện sau.
Nhiều tên làng Việt từ Quảng Bình trở ra Bắc còn có âm Xá,
nghóa là nơi cư ngụ, chữ Xá đứng phía sau tên của một dòng họ nào
có nghóa là xã do dòng họ đó khai phá. Theo sách “Tên làng xã Việt
Nam đầu thế kỷ 19”) riêng các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ có tới
36 địa danh thôn, làng, xã, tổng mang tên Nguyễn Xá, 35 địa danh
Hoàng Xá, 19 địa danh mang tên Ngô Xá, 21 địa danh mang tên Lê
Xá, 13 đến 19 địa danh mang tên Đào Xá, 13 địa danh Bùi Xá, 6 địa
danh Trần Xá, 10 địa danh Dương Xá 16 địa danh mang tên Đỗ Xá,
11 địa danh Phạm Xá, 7 địa danh Phan Xá, 23 địa danh mang tên
2
Đặng Xá, 18 địa danh mang tên Vũ Xá .
Tuy nhiên, có nhiều tên làng còn lưu lại đến ngày nay vẫn
không rõ nghóa: làng Diềm, làng Mèn, làng Nành (Bắc Ninh), làng
Kênh, làng Khuốc (Thái Bình), làng Sốm (Hà Tây)…
1. Dỗn Phan Đại Dỗn (2010), sđd, tr. 39.
2. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ
Nghệ Tĩnh trở ra), NXB Khoa học Xã hội, tr. 125-643.
12
2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG VIỆT
Hiện nay vẫn còn hai ý kiến về nguồn gốc hình thành làng
xã Việt:
Ý kiến thứ nhất cho rằng cũng như công xã nông thôn ở các
nước khác, làng Việt ra đời từ sự tan rã của công xã nguyên thủy.
Sự tư hữu về tư liệu sản xuất đã đưa đến sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội, tạo sự phân ly trong công xã nguyên thủy. Một bộ
phận dân cư từ bỏ thị tộc của mình đi nơi khác kiếm sống. Những
người rời bỏ thị tộc mình tập hợp lại ở địa điểm mới, tạo nên một
công xã nông thôn mới. Quan hệ láng giềng được xác lập bên cạnh
quan hệ huyết thống – đó là làng xã.
Ý kiến khác cho rằng làng xã Việt Nam không phải là kết quả
sự phân hóa thị tộc mà làng Việt được hình thành trong quá trình
liên hiệp tự nguyện giữa những người nông dân lao động trong quá
trình chinh phục những vùng đất mới để canh tác. Ở những vùng
đất mới, con người phải chung lưng đấu cật để chinh phục thiên
nhiên, chống chọi thú dữ. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu,
cuối thời kỳ Hùng Vương, loại hình định cư công xã nông thôn đã
hình thành. Việc trồng lúa nước dẫn đến sự hình thành làng vì các
thành viên trong công xã cần hợp sức nhau đắp bờ giữ nước, làm
các công trình thủy lợi. Ruộng lúa trở thành cơ sở sản xuất của xóm
làng. Làng xã lúc này là đơn vị dân cư, chưa phải là đơn vị hành
chính. Mối quan hệ giữa các thành viên công xã dựa trên những tục
lệ bình đẳng, dân chủ và trên cơ sở kinh tế “ruộng Lạc” – ruộng
công xã chia đều cho “dân Lạc”. Đứng đầu công xã là Bồ Chính (già
làng), và bên cạnh Bồ Chính là Hội đồng công xã gồm những người
do các thành viên công xã bầu chọn để đảm nhận chức năng tổ chức
và giải quyết những vấn đề có liên quan đến sinh hoạt cộng đồng.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, đến thế kỷ VII, Khâu Hòa Giao
Châu (Đại tổng quản của nhà Đường) thi hành chính sách khuôn
làng Việt vào mô hình thống trị của Trung Hoa. Đặt các đơn vị
hành chính như hương, xã, huyện, châu dưới sự cai quản trực tiếp
của An Nam đô hộ phủ. Theo An Nam chí nguyên lúc này tổ chức
hương có tiểu hương (từ 70 đến 150 hộ) và đại hương (từ 40 đến 60
hộ). Như vậy, Khâu Hòa đã lấy làng Việt truyền thống làm đơn vị
13
xã. Sau khi lật đổ chính quyền đô hộ, họ Khúc tổ chức bộ máy hành
chính từ trung ương đến lộ – phủ – châu – giáp và cuối cùng là xã.
Xã trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở với chức chánh lệnh
trưởng và tá lệnh trưởng.
Nhà nước phong kiến Ngô, Đinh, Tiền Lê chấp nhận việc lấy
làng truyền thống làm đơn vị hành chính cấp cơ sở.
Theo Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư, dưới thời Lý, lần
đầu tiên xuất hiện các tên thôn với tư cách như những đơn vị tụ cư
dưới hương, ấp (làng).
Đầu thời nhà Trần, vua Trần Thái Tông (1242) tiến hành
điều chỉnh đơn vị làng – xã thành các xã nhỏ và đặt chức Đại tư xã
và Tiểu tư xã để quản lý làng xã, ruộng đất và dân đinh. Nhưng
không rõ vì sao năm Quang Thái 10 (1397), vua Trần Thuận Tông
bãi nhiệm hai chức trên.
Thế kỷ XV, sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh chia cắt
địa bàn nông thôn ra từng lý. Mỗi lý gồm 110 hộ, đứng đầu lý là lý
trưởng. Nhưng sau khi giành được độc lập, vua Lê Thái Tổ tổ chức
lại làng xã, đặt chức quan xã và phân ra ba loại theo số đinh: loại
nhỏ: từ 10 đến 49 đinh, loại trung bình: từ 50 đến 99 đinh, loại lớn:
100 đinh trở lên.
Trên cơ sở phân loại này, vua Lê đặt ra các chức xã quan với
chức vụ và trách nhiệm theo từng loại lớn, nhỏ.
Mặt khác, do hậu quả của chiến tranh dân phiêu tán, ruộng
đất bỏ hoàng, vua Lê Thái Tổ cho phép những đơn vị tụ cư dù chỉ
mười đinh cũng cho lập một xã. Nên trong thời kỳ này, ở một số
nơi, xã thực tế chỉ là một thôn và thậm chí là thôn rất nhỏ.
Giữa năm 1490, vua Lê Thánh Tông ban hành thể lệ tách xã
cũ lập xã mới, lập tiểu xã, trung xã và đại xã. Cả nước có 6851 xã.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, làng xã Việt có ít nhất ba lần
biến cách:
Lần đầu tiên vào thế kỷ XV khi chế độ quân điền được thực
hiện. Theo GS. Trương Hữu Quýnh, chính sách quân điền thời Lê
Sơ đã biến làng xã tương đối tự trị trước đó trở thành một đơn vị
14
kinh tế phụ thuộc nhà nước phong kiến. Thành viên công xã nông
thôn trở thành những tá điền phụ thuộc nhà nước phong kiến.
Từ thế kỷ XVI – XVIII, nhà nước trung ương tập quyền suy
yếu, đất nước bị chia cắt, nhà nước phong kiến không thể kiểm soát
làng xã như trước, quyền tự trị của làng xã phát triển. Cũng trong
thời gian này, người ở miền Trung đến khai phá những vùng đất
mới ở phía Nam, lập nên những làng mới nhưng ngay từ đầu các
chúa Nguyễn, sau này nhà Nguyễn đã can thiệp trực tiếp vào việc
thành lập và tổ chức làng. Vua Gia Long (1804) chỉnh đốn lại
phong tục ở hương thôn. Thời Minh Mạng cải tổ bộ máy hành
chính xã thôn và “khép chặt lại tính tự trị của làng xã” để nâng cao
sức mạnh tập quyền của nhà nước phong kiến.
Sau khi chiếm Việt Nam, trong thời gian đầu, chính quyền
thuộc địa Pháp đã chọn phương án không những không thủ tiêu tổ
chức xã thôn cổ truyền mà còn tìm mọi cách duy trì làng xã thông
qua địa chủ phong kiến và hội đồng kỳ mục, biến hội đồng kỳ mục
thành công cụ hữu hiệu cho chính sách thống trị và khai thác thuộc
địa. Nhưng sự thực lại diễn ra hoàn toàn trái ngược, thôn làng cổ
truyền chính là nơi nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia
dân tộc, nhiều làng xã đã trở thành những pháo đài, những căn cứ
chống Pháp mà Pháp không thể đàn áp nổi. Sau đó, thực dân Pháp
buộc phải tiến hành “cải lương hương chính” cải tổ lại tổ chức xã
thôn cổ truyền, bắt đầu được thử nghiệm ở Nam Kỳ vào năm 1904, ở
Trung Kỳ năm 1942, ở Bắc Kỳ năm 1921, 1941. Hướng hoạt động
của bộ máy này nhằm phục vụ ngày một đắc lực cho chính sách đô
hộ của thực dân Pháp. Người Pháp khôn khéo đưa luật pháp của nhà
nước bảo hộ vào lệ làng, lệ làng hoá phép nước, khuôn tất cả các
hương ước vào một khuôn mẫu chung có lợi cho chính quyền thuộc
địa Pháp và buộc các làng phải nghiêm luật thực hiện. Đây được là
1
biến cách lần thứ hai của làng xã cổ truyền Việt Nam .
Biến cách lần thứ ba, sau Cách mạng tháng Tám 1945, cuộc
cải cách ruộng đất đã làm thay đổi hẳn cơ chế làng xã, tác động
mạnh vào tổ chức làng xã cổ truyền.
1. Phan Đại Doãn (2010), sđd, tr. 17.
15
Cách mạng tháng Tám thành công (1945) và chính quyền
dân chủ nhân dân ra đời, các Uỷ ban nhân dân lâm thời ở cơ sở
được thành lập dựa theo các đơn vị xã thôn của thời kỳ trước
cách mạng. Sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã vào tháng 4–
1946, nhiều thôn làng cũ bắt đầu được sáp nhập lại thành những
xã tương đối lớn. Cơ sở để sáp nhập các thôn làng này lại với
nhau thường là những thôn làng có quan hệ về nguồn gốc lịch
sử, văn hoá, có sự gần gũi về địa vực cư trú, sự gắn bó tự nhiên
về kinh tế, xã hội...
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, do nhu cầu của
việc thành lập các làng chiến đấu, nhiều xã cũ được sáp nhập thành
một xã lớn. Cấp xã được xây dựng thành cấp cơ sở của hệ thống
chính quyền, nhưng bên cạnh đó cấp thôn cũng vẫn tồn tại cho đến
những năm cuối của cuộc kháng chiến. Trái lại ở vùng thực dân
Pháp tạm thời chiếm đóng, Pháp chủ trương lập bộ máy hội tề để
quản lý làng xã, lập ra các làng tề trên cơ sở vẫn dựa theo quy mô
các làng xã truyền thống.
Sau giải phóng, thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp tuy
thôn làng không còn là đối tượng quản lý nữa, nhưng thôn làng hòa
vào hợp tác xã (vì hợp tác xã lúc này chủ yếu được xây dựng theo quy
mô thôn) và thôn cũng vẫn còn giữ được các nét truyền thống riêng.
Chỉ từ khi hợp tác xã chuyển lên bậc cao với quy mô toàn xã thì thôn
làng truyền thống mới hầu như bị giải thể. Việc chia tách hay quy
gọn các xã chỉ thuần tuý theo quy mô diện tích và dân số mà hầu
như không tính đến cơ sở truyền thống của làng xã.
3. ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG VIỆT CỔ TRUYỀN (LÀNG BẮC BỘ)
3.1. Kết cấu kinh tế
3.1.1. Kinh tế nông nghiệp và chế độ sở hữu ruộng đất
Kinh tế nông nghiệp: Gia đình tiểu nông là đơn vị của làng
xã. Nền sản xuất tiểu nông là thành phần kinh tế quan trọng của
làng Việt từ xưa đến nay với những đặc điểm:
– Tái sản xuất ra tư liệu và vật chất (để sản xuất và tiêu
dùng). Việc mở rộng diện tích canh tác là điều kiện rất quan trọng
16
của kinh tế tiểu nông để tái sản xuất mở rộng. Nông dân cũng như
các triều đại phong kiến luôn chú trọng công cuộc khai hoang lập
làng. Nông dân Việt Nam có ý thức rất cao vai trò con người trong
việc chinh phục môi trường sống: đắp đê ngăn lũ, lấn biển mở rộng
diện tích canh tác, thường rút kinh nghiệm về vấn đề trị thủy và
thủy lợi, chọn giống, làm đất gieo trồng, thâm canh nông nghiệp.
– Thường xuyên tăng cường độ lao động: một nền kinh tế tiểu
nông, công cụ thô sơ, diện tích canh tác cố định, độ phì của đất chỉ
được nâng cao ở mức độ nhất định nên muốn làm ra sản phẩm
năng suất cao, người nông dân phải bỏ nhiều công sức và dùng
nhiều nhân lực với các khâu làm đất, gieo mạ, cấy, bón phân, chăm
sóc cây lúa, thu hoạch.
Chế độ sở hữu ruộng đất: Nông thôn Việt Nam trước năm 1945
và cải cách ruộng đất có hai hình thức sở hữu ruộng đất chính: đất
công làng xã và ruộng đất tư nhân. Ngoài ra còn có bộ phận ruộng
đất của các cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo, các tổ chức xã hội.
– Ruộng công: Do điều kiện canh tác nông nghiệp lúa nước
đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ của cộng đồng dân cư, nên Đông Nam Á
nói chung và Việt Nam nói riêng, chế độ sở hữu công xã sớm hình
thành. Đến cuối thời Hùng Vương chưa xuất hiện chế độ tư hữu
ruộng đất, toàn bộ ruộng đất đều là công điền, công thổ. Dân Lạc
chia đất công để cày cấy. Đến thời Bắc thuộc ruộng đất tư xuất hiện
nhưng vẫn chưa lấn át quan hệ sở hữu ruộng đất làng xã. Từ thế kỷ
X, do yêu cầu tuyển quân, lấy phu, các triều đại đầu tiên đã cho lập
sổ đinh, báo cáo đinh số. Đến thời Lý, Trần, việc kiểm soát các xã
thôn và dân đinh được gia tăng, nhà nước từng bước tăng cường
thực lực đối với ruộng công làng xã. Nhưng cho đến buổi đầu thời
Lê Sơ, nguyên tắc “ruộng đất công ở xã nào, dân xã ấy hưởng” vẫn
được nhà nước tôn trọng, xã vẫn quản lý đất công bằng nhiều hình
thức từ phong hộ đến phong đất. Việc chia ruộng đất làng xã theo
định kỳ lần đầu tiên được quy định thành luật lệ dưới triều Lê
Thánh Tông (năm Hồng Đức thứ 12– 1481) với chế độ quân điền,
định kỳ sáu năm, thời Nguyễn đến giữa thế kỷ XX là ba năm. Chế
độ quân điền được thực hiện là một biến cách lớn trong làng xã.
Nguyên tắc quân điền của nhà nước phong kiến sản sinh nhieàu
17
quan hệ mới và củng cố thêm chức năng phục vụ tích cực cho chính
quyền thống trị, nhà nước đã “công xã hóa” làng thôn. Ruộng công
và chế độ quân điền đã ràng buộc người nông dân vào làng xã. Khi
mất mùa đói kém, họ có thể đi nơi khác, nhưng trước sau vẫn trở
về làng cũ vì làng cũ vẫn chia ruộng đất cho họ.
Làng nào do nhà nước tổ chức thành lập, ruộng đất do nhà
nước tổ chức khai hoang thì làng ấy có nhiều ruộng công: các làng
vùng Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Trong chừng mực nhất định, nhiều làng xã có ý thức giữ gìn
ruộng đất công. Ví dụ: Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi Doanh
điền sứ Đỗ Tông Phát lập tổng Quế Hai (Hải Hậu, Nam Định) phải
lấy 1/3 diện tích khẩn hoang làm công điền. Làng Nam Hưng, tổng
Ninh Nhất (thuộc Hải Hậu) mới được tách riêng thành lập vào
khoảng năm 1904 – 1905 bỏ tư điền (chỉ để lại một mẫu làm tư điền
để ghi nhận công lao người khai hoang lập ấp) còn hoàn toàn là công
điền chia cho các nhân đinh. Đầu thế kỷ XX, làng Đình Bảng khai
phá hơn 1000 mẫu ruộng chia cho mỗi dân đinh thêm 5 sào. Theo số
liệu của P. Guru và Y. Henry, ở đồng bằng Bắc Bộ cho đến những
năm 1930 ruộng công vẫn chiếm 30 – 35% diện đất canh tác, Nam
1
Định còn đến 39% .
Ruộng đất công có ba tầng thứ: quyền sở hữu tối cao thuộc
nhà nước (nhà vua); quyền có ruộng – chiếm hữu là của cộng đồng
2
làng xã; quyền sử dụng đất – tư nhân là nông dân .
Ruộng đất công và chế độ quân điền được coi là cơ sở kinh tế
tạo ra tính cộng đồng và tính tự trị của làng xã, duy trì nền kinh tế
tự cấp tự túc. Nói cách khác sản xuất tiểu nông là thành phần kinh
tế cơ bản của kết cấu kinh tế làng Việt cổ truyền.
Ruộng đất tư hữu: Vào thời Lý, ruộng đất công đã phát triển
do ban cấp, do mua bán và do chấp chiếm. Năm 1092, nhà nước cho
tiến hành đo đạc ruộng đất, lập sổ điền bạ để đóng thuế là mốc
quan trọng đánh dấu sự ra đời chế độ tư hữu ruộng đất. Năm 1254,
nhà Trần bán một số ruộng công. Năm 1266, triều đình cho phép các
1. Phan Đại Dỗn (2010), sđd, tr.43.
2. Phan Đại Doãn (2010), sđd, tr.43.
18
vương hầu khai hoang, lập điền trang tư hữu. Nhưng cuối thời Trần,
chế độ hạn điền của Hồ Quý Ly buộc sung công ruộng tư của các chủ
sở hữu có trên 10 mẫu, nên phần ruộng tư trở thành ruộng công. Đến
thời kỳ thuộc Minh (1407 – 1427), quan lại nhà Minh, những quan
lại người Việt làm việc cho nhà Minh cướp đất công biến thành
ruộng tư, sở hữu tư nhân lại tăng lên. Đến thời Lê Sơ, đất đai của bộ
máy quan lại nhà Minh bị sung công, ruộng tư nhân giảm, ruộng tư
chỉ còn một bộ phận trong tay nhà Lê và quan lại, nên đầu thời Lê,
ruộng tư được miễn thuế. Trong thời Lê, quá trình ruộng tư được lập
lại và ngày càng ảnh hưởng xấu đến công quỹ, nên cuối thời Lê,
chính quyền trở lại đánh thuế ruộng tư. Đến thời Lê Trung hưng, đất
đai của phe cánh nhà Mạc được sung công, đất tư giảm, nhà nước lại
miễn thuế cho đất tư. Đến năm 1772, nền kinh tế hàng hóa phát
triển hơn trước, ruộng tư phát triển, nhà nước lại đánh thế ruộng tư.
Sang thời Nguyễn, từ Quảng Bình trở vào Nam, ruộng tư vẫn được
đánh thuế bằng ruộng công. Đến giữa thế kỷ XIX, diện tích ruộng tư
đã vượt diện tích công trên toàn quốc. Năm 1875, vua Tự Đức đã
đánh thuế mức ruộng tư miền Bắc ngang mức ruộng công ở miền
Nam.
Sự biến chuyển hữu cơ giữa ruộng công và ruộng tư và tỷ lệ
thuế ruộng tư so với ruộng công qua các triều đại cho thấy ruộng tư
đã xuất hiện từ lâu đời, tuy luôn có xu hướng phát triển nhưng đã
phải đấu tranh liên tục và gay gắt với ruộng công cho đến giữa thế
kỷ XIX mới vượt hẳn ruộng công.
Khác với nông thôn tiền tư bản ở phương Tây, ở Việt Nam
trên nguyên tắc người dân dễ dàng có quyền sở hữu ruộng đất
nhưng đồng thời cũng dễ mất quyền đó. Nhà nước có thể trưng thu,
tước bỏ quyền sở hữu tư nhân về ruộng nếu cá nhân đó phản nghịch
triều đình, không nộp thuế hoặc bỏ hoang ruộng đất.
3.1.2. Thương nghiệp nông thôn
– Chợ địa phương (chợ phiên và phố nhỏ): Kinh tế làng Việt
không phải chỉ có nông nghiệp (dù nông nghiệp là quan trọng
1
nhất). Chợ làng là điểm kinh tế cơ bản để làng tồn tại . Theo GS.
1. Phan Đại Doãn (2010), sđd, tr. 19.
19
Nguyễn Đức Nghinh và Trần Thị Hòa, trước năm 1945, ở Bắc Bộ
(trong phạm vi các tỉnh Hà Nam – Thái Bình) cứ từ 3 đến 6 làng
(xấp xỉ khoảng 7 km2) có một chợ. Riêng ở Bình Lục khoảng 3,2
làng có một chợ. Đó là biểu hiện của nền kinh tế hàng hóa mở
rộng. Chợ làng còn gọi là chợ phiên có nhiều tầng bậc khác nhau.
Có chợ hôm (và chợ mai) họp chợ hàng ngày hoặc vài ngày một lần
vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối. Chợ tổng, chợ huyện lớn hơn các
loại chợ hôm, mai thì họïp thưa ngày, người đông hơn và có nhiều
hàng đặc sản hơn.
Thương nghiệp chợ làng truyền thống thường bao gồm:
– Một số người buôn bán chuyên nghiệp, có lều quán như
hàng xén, hàng vải, hàng thịt, hàng cá, hàng lương thực;
– Một số nông dân chạy chợ “đòn gánh đè vai, lấy công làm
lời” vào dịp nông nhàn, hoặc từ những nhà đông người “thừa
nhân lực”;
– Những người tiểu nông đem sản phẩm trồng trọt, chăn
nuôi, thủ công trao đổi.
Cơ cấu hàng hóa của chợ chủ yếu là nông sản, phần nhiều là
tự sản tự tiêu. Ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ có nhiều chợ
chuyên bán một số hàng thủ công nghiệp của một số làng nghề: chợ
Thổ Hê, chợ Bát Tràng chuyên bán hàng sành, gốm, chợ Nho Lâm
chuyên bán hàng rèn sắt.
Sự phát triển của chợ tạo ra một “vùng liên làng” theo chu kỳ
phiên chợ trong từng tháng. Một số làng gần nhau được phân chia
họp chợ trước sau theo một thời gian tuần tự, tạo ra một sự lưu
thông hàng hóa, một vòng khép kín. Cứ như vậy lần lượt suốt
tháng quanh năm, ngày nào người nông dân cũng có điều kiện trao
đổi hàng hóa trong chợ làng. Một vùng liên làng đã tạo ra sắc thái
phong phú khác nhau trong một địa phương, vừa biểu hiện sự phân
biệt kinh tế hàng hóa, vừa biểu hiện sự phân biệt sinh thái trong
khu vực.
Như vậy mạng lưới chợ nông thôn là sản phẩm của quá trình
mở rộng của kinh tế hàng hóa nhỏ đã tồn tại hàng nghìn năm qua.
Chợ làng là nơi người tiểu nông bán những sản phẩm chưa dùng
đến; là nơi họ mua những sản phẩm thiếu. Hình thức trao đổi ở
20
chợ, xét cho cùng cũng là vật đổi vật, bán vật này để mua vật kia,
vai trò của tiền tệ không lớn lắm. Mạng lưới chợ vừa là biểu hiện
của sự bế tắc trong kinh tế tiểu nông, vừa là biện pháp giải quyết
bế tắc đó. Chợ làng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất hàng hóa
trong kinh tế tiểu nông. Hai mặt khác biệt này cùng tồn tại, cùng
phát huy tác dụng tạo nên tính ổn định của chợ và cấu trúc hàng
hóa chợ. Do đó, chợ không những làm giải thể kinh tế tiểu nông
làng xã mà còn góp phần củng cố cấu trúc kinh tế truyền thống lấy
nông nghiệp làm cơ sở.
– Thị trấn: Ở đồng bằng và ven biển, hầu như nơi nào cũng có
thị trấn, phần lớn là huyện lỵ, phủ lỵ. Quy mô của thị trấn không
đồng đều, ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ thường lớn hơn miền Bắc. Thị
trấn lớn có 1.200 hộ gia đình, nhỏ thì vài trăm hộ. Thị trấn là nơi
buôn bán chủ yếu hàng tiêu dùng gia đình, hàng lương thực, thực
phẩm nhằm giải quyết nhu cầu sinh hoạt của cư dân địa phương.
– Làng buôn: Vào thế kỷ XVIII, XIX, ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ xuất hiện một loạt làng lấy việc buôn bán làm nghiệp chính, là
nguồn sống của họ. Họ có quyền lợi và nghóa vụ đối với làng xã.
Chẳng hạn: các làng Đan Loan (Hải Dương), Đa Ngưu (Hưng
Yên), Bào Đáp (Nam Định), Phù Lưu (Tiên Sơn – Bắc Ninh) là
những làng buôn tiêu biểu nhất. Tuy nhiên, các làng buôn này
chưa bao giờ là một trung tâm buôn bán tự do tách biệt như là
một thành thị. Vào thời gian nghề buôn phát triển cao, dân làng
vẫn duy trì thành phần kinh tế nông nghiệp ở mức độ đáng kể.
Cấu trúc của làng buôn vẫn không vượt ra khỏi cấu trúc truyền
thống của làng nông thôn. Bộ máy hành chính, tự trị của làng về
cơ bản cũng không khác các làng Việt truyền thống khác. Kết cấu
kinh tế – xã hội làng buôn thực chất chỉ là một dạng kết cấu
truyền thống đang trong quá trình chuyển biến dưới tác động của
kinh tế hàng hóa và nghề buôn. GS. Phan Đại Doãn nhận định
“làng buôn ở Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX mặc dù có một số chức
năng kinh tế của thành thị, có một bộ phận nửa thị dân nhưng về
1
cơ bản vẫn chỉ là một làng nông thôn” .
1. Phan Đại Doãn (2010), sđd, tr. 63.
21
3.2. Thủ công nghiệp làng quê
Làng nghề: Sự hình thành các làng nghề là biểu hiện của
trình độ phân công lao động xã hội, thủ công nghiệp từng bước tách
rời nông nghiệp. Đồng thời, ngay trong những làng trên lại xuất
hiện lớp người buôn bán những sản phẩm do gia đình hay phường
hội của họ sản xuất, nên cũng là một kiểu tự sản tự tiêu. Các làng
thủ công vẫn là loại làng công – nông – thương nghiệp, có nhiều ưu
thế hơn làng nông nghiệp thuần túy: tận dụng được nhân lực và kỹ
thuật sẵn có nên cuộc sống khá ổn định.
Làng nghề dệt có phạm vi phân bố rộng khắp ở hầu hết các
vùng nông thôn, nhất là vùng xung quanh Thăng Long – Hà Nội:
làng nghề gốm Bát Tràng, Phù Lãng, Thổ Hà, Hương Canh, Lò
Chum, làng đúc đồng Cầu Nôm, Đại Bái, làng rèn sắt Vân Chàng,
Kiên Lao, Đa Só, làng mộc Tứ Xá (Phú Thọ), Yên Thái (Hà Tónh).
– Phường hội: Phường hội của thợ thủ công ở Việt Nam xuất
hiện ở nông thôn và thành thị. Có làng có đến hàng chục phường,
như Quần Anh (Nam Định) đầu thế kỷ XX có 10 phường.
Về không gian, phường thường nằm gọn trong một làng, cũng
có một ít phường rải ra vài ba làng như phường mộc, nề, may mặc.
Về thời gian, có phường tồn tại có thời hạn: theo mùa, theo
năm. Sự mở rộng của phường còn lan ra cả nông nghiệp, một số nơi
nông dân còn lập ra phường gặt, phường cấy, có cả những phường
phi sản xuất: phường chèo, phường bát âm.
Phường là hình thức hợp tác của những người sản xuất nhỏ,
tư hữu nhỏ, là đơn vị kinh tế – xã hội dựa trên lợi ích nghề nghiệp
có tính chất tự nguyện và bình đẳng. Chức năng, tổ chức và phân
bố của phường ở Việt Nam không giống phường hội ở châu Âu –
thường tồn tại ở thành thị, phường tách biệt nông thôn. Phần lớn
phường ở Việt Nam là tổ chức của những thợ thủ công và thương
nhân còn gắn liền với nông nghiệp, có nơi phường cũng mua ruộng
đất để tạo một cơ sở kinh tế riêng hoặc dùng để xây dựng cơ sở tín
ngưỡng như phường sắt Vân Chàng (Nam Định), phường rèn Nho
Lâm (Nghệ An). Phường hội ở Việt Nam còn phân tán, tổ chức lỏng
lẻo, thành viên chưa thoát ly nông nghiệp cũng chính là những
mảng thành thị hòa lẫn trong làng quê.
22
Như vậy, kết cấu kinh tế làng Việt cổ truyển là kết cấu kinh
tế mở nhưng rất vững chắc. Làng Việt không chỉ có hoạt động kinh
tế nông nghiệp mà có sự đan xen, kết hợp chặt chẽ với thương
nghiệp và thủ công nghiệp, nên tự thân làng xã đã điều tiết hoạt
động kinh tế của làng. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế ba
thành phần nông – công – thương nghiệp cùng tồn tại song hành
này đã tạo nên sức ỳ, kéo dài sự trì trệ, lạc hậu của sức sản xuất
nông thôn. Với kết cấu kinh tế này đã tạo nên tư tưởng kinh tế
truyền thống là: trọng ruộng đất, trọng nông nghiệp, lấy nông
nghiệp làm gốc, coi thường công thương nghiệp, quý nghóa, khinh
lợi, bình quân chủ nghóa, đề cao tằn tiện.
3.3. Kết cấu xã hội
Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên và trong
hoàn cảnh ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội,
người Việt đã phải dựa vào nhau, liên kết với nhau mà sống. Nên,
làng Việt mang tính cộng đồng đa chức năng và liên kết chặt.
3.3.1.Thành phần dân cư
Làng xã Việt Nam có ba tầng lớp xã hội: địa chủ, nông dân tá
điền và trung nông:
– Tầng lớp địa chủ chiếm hữu nhiều ruộng đất thuộc sở hữu tư
nhân, họ là chủ nhân của xã hội nông thôn
– Tầng lớp nông dân tá điền là những người bị bần cùng hóa,
mất hết ruộng đất canh tác buộc phải đi làm thuê cho địa chủ và bị
ràng buộc vào địa chủ.
– Tầng lớp trung nông: đại đa số dân cư làng xã, canh tác
trên chính ruộng đất thuộc quyền tư hữu của mình
3.2.2. Các tổ chức trong làng
Tập hợp người theo địa vực ngõ, xóm
Trong làng xã Việt Nam, quan hệ láng giềng lấn át quan hệ
huyết thống. Nếu như K. Marx nhận xét một cách dí dỏm rằng
nông thôn phương Tây là cái bao tải khoai tây (trong đó mỗi gia
đình là một củ khoai tây), quan hệ làng giềng lỏng lẻo thì làng xã
Việt Nam liên kết chặt “bán anh em xa, mua láng giềng gần”.
Những người cư trú cùng địa vực liên kết với nhau thành xóm, ngõ,
23
họ cùng thờ chung thổ thần của xóm, của ngõ. Xóm, ngõ chỉ thuần
túy về mặt tụ cư, hoàn toàn không thể là một đơn vị kinh tế –
chính trị – một tế bào của xã hội Việt Nam thời phong kiến.
Cách tổ chức nông thôn dựa trên địa bàn cư trú, dựa trên
quan hệ hàng ngang – theo không gian được gọi là nguồn gốc của
tính dân chủ, bởi lẽ trong cộng đồng ngõ xóm muốn có quan hệ tốt
đẹp lâu dài, muốn giúp đỡ nhau phải tôn trọng, bình đẳng. Đó là
loại hình dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc.
Tổ chức dòng họ
Làng Việt là một phức hợp của nhiều tổ chức xã hội mà trước
hết là dòng họ. Đây là mối liên kết bền vững nhất trong tổ chức
cộng đồng làng xã Việt Nam. Tổ chức dòng họ ở Việt Nam không
phải là sự liên kết của các đại gia đình phụ quyền như ở Trung
Quốc. Người Việt vẫn lấy gia đình hạt nhân làm cơ sở. Cây lúa
nước mở rộng từ miền núi xuống đồng bằng đến ven biển, chia nhỏ
họ hàng thành kiểu gia đình hạt nhân, nhưng quan hệ họ hàng vẫn
tồn tại khá chặt. GS. Phan Đại Doãn nhận xét “quá trình hình
thành và phát triển của một làng ở đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long, từ khởi đầu cho đến ngày nay là sự chuyển
đổi và phát triển liên kết hộ gia đình, tiến lên là liên kết họ hàng
1
và các dòng họ với nhau” . Sự liên kết dòng họ được thể hiện qua
việc đặt ruộng họ, ruộng hậu họ, xây nhà thờ họ, lập gia phả, tộc
phả, tộc ước, diễn ca tộc phả. Tộc ước họ Nguyễn Văn ở làng Phù
Lưu (Tiên Sơn, Bắc Ninh) có 22 điều quy định về cách đối xử nhau,
về cúng tế tổ tiên, về hôn nhân và gia đình và đặc biệt là mối đoàn
kết trong gia đình và họ hàng “sao cho thành một khối thuận hòa
trên dưới”. Họ Nguyễn Thạc ở làng Đình Bảng (Tiên Sơn, Bắc
2
Ninh) có tộc ước được ghi chép vào năm 1905 với 10 điều quy định .
Ở nhiều làng, dòng họ còn tồn tại như một đơn vị, một thành phần
quản lý làng xã.
Nhà nước phong kiến dựa vào tông tộc để thống trị, lợi dụng
tông tộc làm chỗ dựa cho vương quyền. Luật Gia Long quy định
1. Phan Đại Dỗn (2010), sđd, tr. 88.
2. Phan Đại Doãn (2010), sđd, tr. 89.
24
trong họ hàng phải chịu trách nhiệm quản lý dòng họ, bố mẹ phải
cùng chịu tội lỗi của cả con và cháu. Họ hàng căn bản không đối lập
với làng xã, có khác biệt nhưng vẫn thống nhất với làng xã. Họ
hàng liên quan với làng thông qua tổ chức giáp. Tổ chức họ có vị trí
khá quan trọng đã góp phần củng cố thêm quan hệ làng xã và hỗ
trợ cho kinh tế tiểu nông, giúp cho kinh tế tiểu nông khắc phục
được những trở ngại, khó khăn trong sản xuất và sinh hoạt.
Tập hợp người theo tổ chức phường hội
Ở phương Tây, phường là tổ chức nghề nghiệp của cư dân
thành thị trung đại, còn nông thôn là địa bàn cư trú của nông dân
và lãnh chúa phong kiến. Chính vì vậy nên làng quê thường được
gọi là công xã nông nghiệp hay công xã nông thôn, còn thành thị là
những công xã thành thị.
Ở Việt Nam, phường là tổ chức nghề nghiệp của những người
làm nghề thủ công và buôn bán. Phường thủ công hay buôn bán đều
có những quy định cụ thể gọi là phường lệ để ràng buộc người cùng
nghề, ổn định sản xuất, chống cạnh tranh. Nội dung quy định của
phường chủ yếu là tương trợ những điều kiện làm ăn (cho vay vốn
chịu lãi thấp), về giá cả mua bán nguyên liệu và thành phẩm để
bảo đảm mối đoàn kết của những người cùng nghề nghiệp.
Làng Việt còn có các hội, tổ chức theo giới tính, theo chức
nghiệp và theo lứa tuổi như hội Tư văn, Tư võ, hội làng binh của
những người có học, của những người đi lính và của các quan văn,
quan võ về làng, hội theo giới tinh, hội theo lứa tuổi có hội mục
đồng, hội lão. Sự ràng buộc của những hội này không chặt chẽ bằng
phường và hội, nhưng nó cũng góp phần ràng buộc cư dân theo một
định hướng tương thân, tương ái về luân lý và đạo đức.
Tập hợp người theo giáp
Trong làng xã cổ truyền, ngõ xóm và tổ chức họ là biểu thị
quan hệ láng giềng và huyết thống, tổ chức giáp mới có chức năng
quản lý con người.
Giáp chỉ có ở làng Bắc Bộ và một số tỉnh miền Trung. Giáp là
cơ cấu tổ chức để sắp xếp các mối quan hệ láng giềng và dòng họ, là
tổ chức của đàn ông, được phần biệt theo ba lớp tuổi: ty ấu, đinh,
25
lão. Thành viên của giáp có nghóa vụ đóng sưu thuế, đi lính, đi phu
cho nhà nước, đồng thời còn phải tham gia vào những hoạt động lao
động công ích hay phục vụ trong các lễ hội, đình đám của làng.
Những người ở tuổi đinh cũng được hưởng những quyền lợi về vật
chất và tinh thần. Đó là một khẩu phần ruộng đất công làng xã để
cày cấy, vị trí ngồi trên chiếu ở đình làng (ban đầu chiếu dưới, sau
theo tuổi tác mà chuyển dần lên chiếu trên) trong các kỳ tế lễ, họp
hành, ăn uống. Vinh dự cao nhất của các thành viên trong giáp là
lên lão (thường 60 tuổi). Lên lão được ngồi chiếu trên, là độ tuổi được
giáp, làng trọng vọng. Khi làng xã có việc cần bàn, các cụ già tùy
theo tuổi tác, bất luận thành phần nào được ngồi ngang hàng thậm
chí cao hơn so với các quan viên chức sắc trong chiếu đình làng
nhưng không còn được chia ruộng đất công của làng xã.
3.2.3. Bộ máy tổ chức làng
Quản lý làng xã truyền thống trước năm 1945 gọi là quan
viên xã. Quan viên làng xã được tuyển theo tập quán: vương tước và
thiên tước. Vương tước bao gồm những người có phẩm hàm, có chức
vụ trong quan trường hoặc có bằng cấp ở chốn khoa trường. Thiên
tước là tiêu chuẩn về tuổi tác, người nào cao tuổi hơn thì ở vị trí cao
hơn.
Quan viên làng xã có hai bộ phận:
– Nhóm kỳ dịch: bộ phận hành chính của làng xã, có ý nghóa
là nhà nước địa phương gồm: Lý trưởng hay Xã trưởng và các Phó
lý, Trương tuần, Hương mục, trong đó Lý trưởng là người có quyền
thế cao nhất, có con dấu tượng trưng cho thế lực nhà nước đến tận
làng xã.
– Nhóm kỳ mục (Hội đồng kỳ mục): do Tiên chỉ đứng đầu. Ở
miền Nam nhóm này được gọi là Hội Tề, do Hương cả đứng đầu.
Đây là tổ chức tự quản của làng xã.
Một số làng còn có nhóm kỳ lão, gồm những người cao tuổi
nhất, đóng vai trò tư vấn cho hai nhóm trên.
Hai nhóm kỳ dịch và kỳ mục cùng tồn tại khiến cho chính
quyền làng xã là kiểu dạng “chính quyền kép”. Một hệ thống chính
quyền điều khiển làng xã mà đồng thời có hai tổ chức cùng quản lý.
26