Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

BIẾN đổi văn HOÁ VIỆT NAM TRONG GIAO lưu TIẾP BIẾN với văn HOÁ TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 54 trang )

TIỂU LUẬN
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG GIAO
LƯU TIẾP BIẾN VỚI VĂN HOÁ TRUNG QUỐC


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................2
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu........................................................2
5. Kết cấu đề tài............................................................................................... 3
NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN................................................ 4
1.1. Khái niệm giao lưu tiếp biến văn hóa.................................................4
1.2. Khái quát sơ lược về văn hóa Trung Quốc.........................................6
1.3. Cách thức giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa
Trung Quốc.......................................................................................................... 8
CHƯƠNG 2: BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG GIAO LƯU
TIẾP BIẾN VỚI VĂN HOÁ TRUNG QUỐC...................................................... 9
2.1. Văn hóa tổ chức cộng đồng..................................................................9
2.2. Văn hóa nhận thức............................................................................. 11
2.2.1. Nhận thức về con người................................................................ 11
2.2.2. Nhận thức về vũ trụ.......................................................................13
2.3. Văn hóa sản xuất – tiêu dùng............................................................16
2.3.1. Trang phục.....................................................................................16


2.3.2. Ẩm thực.........................................................................................17


2.3.3. Kiến trúc và sản xuất.....................................................................19
2.4. Văn hóa tư duy – nhận thức.............................................................. 21
2.4.1. Tôn giáo.........................................................................................21
2.4.2. Chữ viết......................................................................................... 25
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIAO LƯU TIẾP
BIẾN VỚI VĂN HOÁ TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...................27
3.1. Tiếp nhận và cải biến những giá trị văn hóa phù hợp với văn hóa
Việt Nam.............................................................................................................27
3.2. Hạn chế của giao lưu tiếp biến văn hóa Trung Quốc về vấn đề bản
quyền

29

3.3. Nâng cao, phát triển giao lưu tiếp biến văn hóa Việt Nam trong bối
cảnh mới một cách tích cực.............................................................................. 31
KẾT LUẬN.................................................................................................... 35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................37


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, người ta càng nhận
thấy văn hoá là một lĩnh vực hết sức quan trọng và nghiên cứu văn hoá là việc làm
cần thiết để chúng ta có thể nhìn về q khứ và hướng tới tương lai một cách hài
hoà. Nhiều quốc gia đã khẳng định vị trí nền tảng, động lực của văn hoá đối với sự
tiến bộ và phát triển xã hội. Ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao... đều thấy xuất hiện của văn hóa.
Giao lưu tiếp biến chính là động lực thúc đẩy văn hóa phát triển, trong q
trình đó những yếu tố riêng biệt luôn được bổ sung bằng những yếu tố khu vực và
nhân loại, văn hóa nội sinh luôn được làm giàu thêm bởi những yếu tố văn hóa

ngoại sinh đã được bản địa hóa. Kế thừa cái sẵn có của bản thân, tiếp thu cái mới
từ bên ngồi, đó là một quy luật tất yếu của bất kỳ nền văn hóa nào ở bất kỳ thời
đại nào.
Nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa mở, ln tiếp thu, chắt lọc tinh hoa
văn hóa nhân loại đế làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Trong xu thế tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ln xác định văn hóa là nền tảng tinh thần
và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, kế thừa truyền thống vãn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại để khơng ngừng làm phong phú bản sắc văn hóa dân
tộc. Vì vậy, phát huy giá trị tích cực trong q trình giao lưu và tiếp biến văn hóa
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng.
Với mong muốn được hiểu rõ hơn về quá trình giao lưu tiếp biến với văn hóa
Trung Quốc cùng với những biển đổi, cơ hội và khó khăn cịn tồn tại. Từ đó rút ra
1


những bài học kinh nghiệm trong giao lưu tiếp biến văn hóa với Trung Quốc nói
riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung hiện nay, đồng thời học hỏi, trau dồi


2


chia sẻ kiến thức nên em đã chọn đề tài: “BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ VIỆT NAM
TRONG GIAO LƯU TIẾP BIẾN VỚI VĂN HỐ TRUNG QUỐC”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, tiểu luận trình bày một số nét khái quát về văn hóa Trung Quốc và
những phương thức giao lưu tiếp biến văn hóa Việt Nam – Trung Quốc.
Đồng thời, tiểu luận góp phần hệ thống hóa và tổng kết những biến đổi văn

hóa Việt Nam thơng qua q trình giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Quốc
xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước đến thời điểm hiện tại, rút ra những kinh
nghiệm cần tiếp tục vận dụng vào việc giao lưu, phát triển, tiếp biến văn hóa trong
những năm tiếp theo.
Cuối cùng, tiểu luận góp phần tăng cường tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức
giữ gìn nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của mọi người trong thời kì mở cửa
hội nhập hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu sự biến đổi của văn hóa Việt Nam trong giao lưu, tiếp
biến với văn hóa Trung Quốc.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, đề tài tập trung phân tích những biến đổi văn hóa từ khi bắt đầu
quá trình giao lưu tiếp biến giữa hai nền văn hóa Việt Nam và Trung Quốc.
Về khơng gian, tiểu luận nghiên cứu sự biến đổi về mặt văn hóa Việt Nam qua
q trình giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Quốc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp luận: đề tài lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Minh làm
cơ sở lý luận và phương pháp luận. Dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp quy nạp và diễn giải, phương pháp lịch sử và logic.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm
có 3 chương và 10 tiết.


NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm giao lưu tiếp biến văn hóa
Lịch sử vận động và phát triển của văn hóa là lịch sử của q trình giao lưu và
tiếp biến văn hóa, khơng một nền văn hóa nào có thể tự mình đóng cửa, cơ lập với
thế giới bên ngồi. Bản thân mỗi nền văn hóa đều có xu hướng hướng ngoại và
quan hệ với các nền văn hóa khác.
Giao lưu tiếp biến văn hố là quy luật có tính phổ biến trong tiến trình lịch sử
và văn hố của nhân loại, sự tồn tại, phát triển của các cộng đồng, dân tộc dù ở
bình diện nào cũng gắn với kế thừa, giao lưu, tiếp xúc, tiếp biến văn hố. Trong
q trình đó, bản sắc văn hóa dân tộc ln phát huy giá trị và khắc chế những
khuyết điểm, thách thức nảy sinh do giao lưu và tiếp biến văn hóa mang lại. Duy trì
ban sắc khơng có nghĩa là đóng cửa, mà phải thích ứng với sự giao lưu, hội nhập
với các nền văn hóa bên ngồi, nhất là trong bối cảnh tồn cầu hóa về văn hóa và
kinh tế đang trở thành dòng chảy chủ đạo của lịch sử.
Giao lưu tiếp biến văn hố là khái niệm có liên quan tới nhiều khái niệm khác
như tiếp xúc văn hoá, giao tiếp văn hoá; giao thoa văn hoá; trao đổi văn hoá; tiếp
biến văn hố... Do đó, để đưa ra được định nghĩa giao lưu tiếp biến văn hóa phải
được cắt nghĩa dựa trên nhiều cụm từ và nhiều góc nhìn khác nhau.
Trước tiên, theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “giao lưu văn hóa là
sự tiếp xúc văn hóa, trao đổi ảnh hưởng và tác động qua lại giữa các nền văn hóa
của các dân tộc khác nhau. Sự giao lưu văn hố trong trường hợp tích cực thường
đem đến sự tiếp biến văn hố. Nhờ đó nền văn hố của dân tộc được tiếp thu thêm
các yếu tố văn hố tích cực khác và được làm giàu thêm, mà vẫn giữ dc bản sắc


văn hố của mình. Mặt khác, nếu trong q trình giao lưu văn hố mà khơng giữ
được bản



sắc văn hố, thì sẽ bị nền văn hố khác đồng hoá, dù là đồng hoá cưỡng bức hay là
đồng hoá tự nhiên”1.
Giao lưu là sự gặp gỡ của các dịng chảy văn hóa, cịn tiếp biến là sự tiếp nhận
và biến đổi, là kết quả của sự gặp gỡ trên, dẫn đến những thay đổi cơ bản trong cấu
trúc văn hóa của những nền văn hóa trong thế đối thoại. Tiếp biến văn hóa hàm
chứa chỉ những sự thay đổi trong cấu trúc văn hóa ở mỗi nền văn hóa của mỗi
nhóm dân tộc, mỗi dân tộc, mỗi khu vực văn hóa trong giao lưu. Giao lưu văn hóa
là quá trình tiếp xúc, trao đổi, lựa chọn các giá trị văn hóa khác nhau, dẫn đến sự
biến đổi văn hóa của mỗi chủ thể. Giao lưu văn hóa là hình thức quan hệ trao đổi
văn hóa, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, học hỏi lẫn nhau, từ đó nảy sinh những
nhu cầu mới thúc đẩy mỗi nền văn hóa phát triển.
Tiếp biến văn hóa là một hiện tượng, một q trình có hai nền văn hóa tiếp
xúc với nhau rồi dẫn đến biến đổi theo xu hướng khác nhau: có nền văn hóa phát
triển phong phú hơn nhờ quá trình giao lưu, gặp gỡ, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa từ bên ngồi, cũng có nền văn hóa bị lụi tàn, bị đồng hóa và mất đi trong q
trình giao lưu, tiếp xúc với những nền văn hóa khác. Định nghĩa về “tiếp biến văn
hoá" được đưa ra ở cuộc họp UNESCO châu Á tại Téhéran năm 1978: Tiếp biến
văn hố đó là sự tiếp xúc giữa những nhóm người khác nhau về văn hóa, do đó
sinh ra những sự thay đổi về văn hoá (ứng xử, giao tiếp, tư duy..) ở trong mỗi
nhóm. Tiếp biến văn hố là q trình một nhóm người hay một cá nhân qua tiếp
xúc trực tiếp và liên tục với một nhóm khác, tiếp thụ (tự nguyện hay bắt buộc, toàn
bộ hay từng bộ phận) nền văn hố của nhóm này. Hay khái niệm tiếp biến văn hố
có thể được hiểu là quá trình một cá nhân khi tiếp xúc trực tiếp và liên tục với một
cộng đồng hay một cá nhân khác hấp thụ nhiều hay ít nền văn hóa của cộng đồng
hay các cá nhân này.


1

Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 2



Như vậy, có thể khái quát được “Giao lưu tiếp biến văn hóa chính là sự gặp
gỡ, đổi thoại, thâm nhập và học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa khác biệt nhau,
kết quả là các nền văn hố ấy thay đổi bổ sung, làm giàu cho nhau để cùng hướng
tới phát triển bền vững. Giao lưu tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên
của xã hội, của văn hóa, gắn bó với tiến hóa xã hội và cũng gắn bó với sự phát triển
của văn hóa. Giao lưu văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hóa.
Trên phương diện văn hố, bản sắc dân tộc có vai trị rất quan trọng trong giao lưu
tiếp biến”.
1.2. Khái quát sơ lược về văn hóa Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hóa lớn ở phương Đơng, có
nền văn hóa lâu đời và phát triển rực rỡ. Do nằm trên ngã ba đường của các luồng
giao lưu kinh tế - văn hóa Đơng - Tây, Nam - Bắc trong đại lục châu Ávà miền
bình ngun Âu - Á, văn hóa Trung Quốc vừa mang những đặc điểm văn hóa du
mục của các cư dân phương Bắc, vừa thâu hóa tinh hoa văn hóa nơng nghiệp của
các cư dân phương Nam.
Người Trung Quốc khá khắt khe trong vấn đề giao tiếp. Trong khi chào hỏi
không nên bắt tay chặt, mà thả lỏng tay hoặc nhẹ nhàng. Chào hỏi người có chức
quyền cao nhất trước chứ không chào hỏi phụ nữ trước. Khi giới thiệu người khác
với ai đó thì khơng bao giờ được phép dùng ngón tay trỏ chỉ về người đó.
Người ta thường nói “ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”. Điều đó để thấy
rằng ẩm thực Trung Quốc có một vị trí đặc biệt trên trường quốc tế. Ẩm thực cũng
là một trong những chủ đề hấp dẫn nhất cho bất kỳ du khách nào đến Trung Quốc.
Tuy nhiên, khơng chỉ có những phong cách đa dạng. Ẩm thực Trung Quốc cịn là
có những triết lý nghệ thuật và những tập quán ăn uống độc đáo. Ẩm thực Trung


Quốc lấy đạo Khổng làm trung tâm. Nghĩa là dù là món ăn nào đi nữa cũng phải
tuân theo



thuyết qn bình âm dương, các món ăn hài hịa sẽ tốt hơn cho cơ thể. Trong đó,
các món ăn đều được kết hợp khéo léo kết hợp với các loại gia vị, để khơng chỉ tạo
ra những món ăn hấp dẫn mà còn phải tốt cho sức khỏe. Tuy theo từng khu vực mà
có những trường phái thức ăn khác nhau như: Sơn Đông, Tứ Xuyên, Giang Tô,
Quảng Đông, Phúc Kiến, Hồ Nam, An Huy.
Kinh kịch đi liền với nền văn hóa Trung Hoa theo chiều dài 5000 năm. Kinh
kịch chính là sự kết tụ của tinh hoa văn hóa, cũng có thể nói rằng đây chính là nền
móng, gốc rễ của văn hóa Trung Hoa. Hình thành và phát triển mạnh tại Bắc Kinh
vào thời vua Càn Long của vương triều nhà Thanh. Bắt nguồn là những màn diễn
tuồng sân khấu của Trung Hoa cổ. Được gọi là ca kịch hay hý kịch là một thể loại
diễn tuồng bao gồm ca múa (ngâm khúc kèm theo nghệ thuật vũ đạo). Thậm chí có
cả các loại tạp kỹ pha trộn như kể chuyện, các màn nhào lộn, xiếc, diễn hoạt kê
(tiếu lâm khôi hài), đối thoại trào lộng và võ thuật.
Kiến trúc Trung Hoa thời cổ là hình thức nghệ thuật độc đáo, tiện dụng, trong
đó thể hiện đầy đủ sự kết hợp hài hòa các yếu tố địa lý, biến đổi khí hậu, tơn giáo
và cả phong tục tập qn chỉ trong một cơng trình duy nhất. Rất nhiều cơng trình
đã vang danh khắp thế giới xun suốt dịng chảy lịch sử như Hồng Cung, Vạn Lý
Trường Thành, Di Hịa Viên,…
Nhắc đến Trung Quốc khơng thể bỏ qua kỹ thuật chế tác đồ sứ. Trung Quốc
chính là quê hương của đồ gốm sứ. Chính vì vậy mà tên quốc gia Trung Quốc
trong tiếng anh là “China” và chính từ “China” cịn có ý nghĩa là gốm sứ. Khơng
những thế, kỹ thuật chế tạo đồ sứ của Trung Hoa cịn được phát triển và lan rộng
đến trên tồn thế giới. Kỹ thuật chế tác gốm sứ được lan truyền đến khắc các quốc
gia trên thế giới. Và chính sự thành cơng này cũng mang lại những đóng góp to lớn
cho nền


văn hóa Trung Hoa. Và từ phát minh này, Trung quốc còn được biết đến vơi tên gọi

“ đất nước đồ sứ”.
Người Trung Quốc rất kỵ màu trắng vì màu trắng là sự tang thương, chia ly.
Màu đỏ được xem là màu may mắn, thường xuất hiện trong các ngày lễ tết, đám
cưới, mừng thọ... Rồng là con vật đứng đầu trong tứ linh, là thần vật được sùng bái
nhất trong văn hóa tín ngưỡng của người dân. Đối với người dân Trung Quốc,
những gì vĩ đại nhất, lớn lao nhất thường được gắn với rồng, nó là biểu tượng của
thần quyền.
Có thể thấy, với bề dày lịch sử hàng nghìn năm và hơn 55 dân tộc anh em,
Trung Quốc hình thành nên nền văn hóa phong phú đặc sắc, đa dạng về tập quán từ
ứng xử giao tiếp hàng ngày, ẩm thực cho đến nghệ thuật thơ ca, kịch, kiến trúc, thủ
cơng mỹ nghệ,… Những nét đẹp văn hóa đó đã được lưu truyền, tồn tại và góp
phần làm rực rỡ thêm nền văn hóa nhân loại.
1.3. Cách thức giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa
Trung Quốc
Có hai hình thức tiếp biến văn hóa phổ biến. Thứ nhất là sự tiếp biến một cách
hòa bình tự nguyện, hình thức này thường xảy ra thơng qua giao lưu bn bán trao
đổi sản phẩm, cũng có thể thông qua hoạt động cưới xin, hội hè giữa hai cộng đồng
dân cư, nhất là với các cộng đồng dân cư ở cạnh nhau. Thứ hai là hình thức tiếp
biến cưỡng bức, áp đặt thường gặp trong các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm
cướp nước và đồng hóa văn hóa. Trên thực tế, hai tính chất này khơng hồn tồn
thuần nhất. Ví dụ, đằng sau vẻ tự nguyện lại có những u tố mang tính cưỡng bức
hoặc ngược lại.


Đối với trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc, q trình giao lưu tiếp biến
văn hóa diễn ra với cả hai tính chất: giao lưu tự nguyện và giao lưu cưỡng bức.


Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến
thế kỷ X và từ 1407 đến 1427. Suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên, các để

chế phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hố về phương diện văn hoá
nhằm biến nước ta trở thành một quận, huyện của Trung Quốc. Từ 1407 đến 1427
là giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt. Binh lính vào nước Nam, trừ sách vở và
bản in đạo Phật, đạo Lão thì khơng thiêu hủy, ngồi ra hết thảy mọi sách vở khác,
văn tự cho đến ca lý dân gian hay sách dạy trẻ nhỏ ... đều đốt hết.
Về phần giao lưu tiếp biến mang tính chất tự nguyện giữa quan hệ văn hóa
Việt Nam và Trung Quốc đã diễn ra từ trước thời kỳ Bắc thuộc. Đó là sự giao lưu
tiếp biến hai chiều giữa tộc người Hán với dân cư Bách Việt. Quá trình giao lưu
tiếp biến xảy ra và kéo dài xuyên suốt qua các thời kỳ lịch sử cho tới tận bây giờ.
Thơng qua đó, văn hóa Việt Nam và Trung Quốc đã học hỏi, tiếp thu, biến đổi
những nét tinh hoa trong văn hóa của đối phương sao cho phù hợp với thuần phong
mỹ tục của dân tộc mình.

CHƯƠNG 2: BIẾN ĐỔI VĂN HỐ VIỆT NAM TRONG
GIAO LƯU TIẾP BIẾN VỚI VĂN HOÁ TRUNG QUỐC
2.1. Văn hóa tổ chức cộng đồng
Trước tiên, tổ chức cộng đồng xã hội, quốc gia của Trung Quốc là cơ sở để
Việt Nam mô phỏng tiếp nhận. Nếu như thời Hùng Vương, tổ chức xã hội mang
tính tự phát thì đến cuối năm 938 (chiến thắng Bạch Đằng), Ngô Quyền sau khi
giành được độc lập đã xưng vương. Ông đã học tập cơ cấu bộ máy của Trung
Quốc, đứng đầu là vua, dưới vua là hai ban văn võ, quy dịnh các nghi lễ trong triều
và màu sắc lễ phục của quan lại các cấp. Đây là những ảnh hưởng đầu tiên trong tổ
chức xã hội của Trung Quốc tới Việt Nam qua việc coi vua là trung tâm, có quyền


lực tối cao, mặc áo màu vàng, còn các chức quan thì mặc trang phục theo quy định
riêng.


Cho tới các đời vua tiếp theo, việc sắp xếp cơ cấu bộ máy chính quyền ngày

càng mang nhiều đặc điểm ảnh hưởng từ Trung Quốc. Điển hình là thời Lê Nghi
Dân (1459), các ban văn, võ được tổ chức theo lối Trung Hoa thành các bộ (đứng
đầu là quan thượng thư): bộ Lại, bộ Lễ, bộ Hộ, bộ Hình, bộ Công hay thời Lý, cơ
cấu tổ chức bộ máy chính quyền của Việt Nam mang nhiều đặc điểm ảnh hưởng
của Trung Quốc: đứng đầu là vua, dưới là nhóm cận thần gồm các chức tam thái và
tam thiếu lo việc văn; các chức thái úy và thiếu úy lo về việc võ.
Trong xã hội Trung Hoa, kẻ sĩ được coi là quan trọng nhất, với tư tưởng sĩ,
nông, công, thương. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng tới Đại Việt, vị trí các nghề
cũng được sắp xếp như trên. Tuy nhiên, với truyền thống trọng nông, xã hội Đại
Việt cũng có nhiều nét khác với Trung Quốc nên đã có sự cải biến cho phù hợp:
Văn sĩ vẫn giữ vai trị quan trọng nhất, những võ sĩ thuần túy ít được để ý, thương
nghiệp đặc biệt bị coi rẻ. Trong khi ở Trung Hoa bên cạnh văn sĩ thì võ sĩ cũng
được coi trọng, nghề bn cũng khơng bị ít được coi trọng như ở Đại Việt.
Thứ hai, về tổ chức cộng đồng tại nơng thơn theo hệ gia đình và dòng tộc. Ở
Trung Quốc, với đặc điểm “trọng nam khinh nữ" cũng ảnh hưởng rất lớn tới những
mối quan hệ trong gia đình người Việt. Tính gia trưởng cũng bắt nguồn từ đây.
Cũng do ảnh hưởng đó của Trung Hoa, đình làng từ chỗ là nơi tập trung của mọi
người dần dần chỉ còn là chốn lui tới của đàn ơng, cịn phụ nữ lại quần tụ tại nơi
giếng nước. Như vậy, tư tưởng trọng nam khinh nữ của Trung Quốc đã ảnh hưởng
tới tổ chức cộng đồng ở nơng thơn Việt Nam tuy nhiên nó khơng sâu sắc, nặng nề.
Phong tục tập quán ở Trung Quốc cũng thâm nhập vào mỗi gia đình Việt Nam như:
mừng thọ, mừng tuổi vào mỗi dịp lễ tết.
Như vậy, văn hóa tổ chức cộng đồng: tổ chức nông thôn hay tổ chức quốc gia
của Trung Quốc đã ảnh hưởng lớn tới Đại Việt. Tuy nhiên, Đại Việt có nhiều đặc
điểm riêng khác Trung Hoa nên người Việt đã biết cách khéo léo cải biến cho phù


hợp với đặc điểm nước mình. Bên cạnh đó, văn hóa Việt Nam cũng có sự ảnh
hưởng ngược trở lại với văn hóa Trung Hoa.
2.2. Văn hóa nhận thức

Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng dân tộc Việt Nam đã tích lũy
được một kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và con người.
Trong đó, một phần là do được bồi đắp xuyên suốt quá trình sinh sống và một phần
được hình thành sau này. Những nhận thức mới được hình thành trong lớp văn hóa
giao lưu với Trung Hoa và trong khu vực, đặc biệt là ảnh hưởng của văn hóa Trung
Quốc.
2.2.1. Nhận thức về con người
Việt Nam bị ảnh hưởng bởi quan niệm “Nhân thân tiểu vũ trụ” (con người là
một vũ trụ thu nhỏ) của người Trung Quốc. Trong vũ trụ có âm – dương thì con
người cũng có quan hệ trên dưới, tức là: từ ngực trở lên là phần dương, từ bụng trở
xuống là phần âm. Vũ trụ cấu trúc theo ngũ hành thì con người cũng vậy với: năm
tạng, năm phủ, năm giác quan, năm chất tạo nên cơ thể đều hoạt động theo nguyên
lý ngũ hành. Có thể dựa vào đây để chuẩn đốn chữa bệnh đông y theo quan niệm
của người Việt Nam và Trung Quốc.


Bên cạnh đó, hệ can chi ngũ hành cịn là thuật để xem tử vi. Tử vi, hay Tử Vi
Đẩu Số, là một hình thức bói tốn vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở
triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, Can Chi… bằng cách lập lá
số tử vi với Thiên bàn, địa bàn và các cung sao; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm
sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người.


Thuật tử vi do đạo sĩ Trần Đoàn đời Tống soạn ra. Đạo sĩ Trần Đoàn đã cố gắng
bày ra cách xếp vận mệnh con người vào một lá số, ghi trên một mảnh giấy vỏn
vẹn chỉ có một trang, nhưng tổng kê hết cá tính và đời người vào 12 cung và hơn
100 vì sao, được gán cho nhiều ý nghĩa và ngũ hành khác nhau, ngõ hầu giúp con
người suy diễn những chi tiết về kiếp số của mình. Tóm tắt cuộc đời phức tạp của
con người vào một mảnh giấy một cách hệ thống hóa, đồ biểu hóa một cách khúc
chiết. Mặc dù cơng trình này khơng tránh được vài sơ khống cố hữu nhưng nó vẫn

khơng mất đi giá trị khai sáng cho một bộ môn bói tốn hãy cịn được tơn sùng
ngay trong thế kỷ khoa học không gian này.


Cho đến tận ngày nay, thuật xem tử vi vẫn được nhiều người áp dụng để xem
xét mối quan hệ bạn bè, hôn nhân, làm ăn hay gọi chung theo ngơn ngữ dân gian là
xem bói. Khi du nhập vào Việt Nam, nó trở thành mơn học được ưa chuộng nhất.
Có rất nhiều học giả Việt nam đã cống hiến thêm cho mơn này, trong đó có Nguyễn
Bỉnh Khiêm và Lê Q Đơn. Dần dần, Tử vi Việt Nam có thêm những dị biệt so
với Tử vi nguyên thủy của Trung Quốc. Những dị biệt giữa Tử vi Việt Nam và
Trung Quốc bao gồm: Cách an mệnh của Tử vi Việt Nam bắt đầu từ cung Dần,
trong khi Trung quốc bắt đầu từ cung Sửu. Cách tính tuế hạn của Tử Vi Việt Nam
tùy thuộc vào chi của tuổi người xem. Trong khi tuế hạn của Trung quốc cố định.
2.2.2. Nhận thức về vũ trụ
Cả Trung Quốc và Việt Nam đều gắn liền với nền văn minh lúa nước. Ở
Trung Quốc là nền văn minh sơng Hồng Hà với biểu tượng cái vạc, cịn Việt Nam
là nền văn minh sơng Hồng với biểu tượng là trống đồng Đơng Sơn. Chính vì sản xuất
nơng nghiệp mà người nơng dân rất quan tâm đến sự sinh tồn nảy nở của hoa màu
và con người mà ở Việt Nam và Trung Quốc vai trò của người mai mối rất quan
trọng, sự quan trọng của người làm mối được nâng lên. Do ảnh hưởng của văn hóa
bản địa (triết lí âm dương ngũ hành) mà từ những khái niệm vay mượn đơn độc của
Trung Quốc khi vào Việt Nam cũng được nhân đôi thành cặp. Ví dụ, ở Trung Quốc
có thần mai mối là ông Tơ Hồng, khi vào Việt Nam thì được biến thành cặp “ông
Tơ – bà Nguyệt", “ông Mai – bà Mối". Lối tư duy âm dương khiến người Việt nói
đến đất, núi liền nghĩ ngay đến nước, nói đến cha liền nghĩ ngay tới mẹ: Công cha
như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.


Biểu tượng âm dương được dùng ở
Việt Nam hiện nay là biểu tượng âm dương

được hình thành trong Đạo giáo của Trung
Quốc vào đầu Cơng ngun. Trong khi đó
thì người Việt vẫn giữ được một biểu tượng
âm
– dương có truyền thống lâu đời hơn biểu
tượng vng – trịn. Có vng có trịn, tức

có âm có dương; nói “vng trịn” là nói đến sự hồn thiện. Thành ngữ có câu: Mẹ
trịn con vng, Ba vng bảy trịn… Ca dao thì có: Ba vng sánh với bảy trịn,
Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu…; Lạy trời cho đặng vng trịn, Trăm năm
cho trọn lòng son với chàng! Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Trăm năm tính
cuộc vng trịn, Phải dị cho đến ngọn nguồn lạch song; Nghĩ mình phận mỏng cánh
chuồn, Khn xanh biết có vng trịn mà hay?
Cũng xuất phát từ nguyên lí âm dương, người xưa đã ngả theo hai hướng đối
lập nhau.
 Thứ nhất: Trong Kinh dịch của Trung Quốc, ngun lí hình thành vũ trụ thể
hiện dưới dạng: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ
tượng sinh bát qi, bát qi biển hóa vơ cùng". Có lẽ vì thế mà người Trung
Quốc rất thích những cách nói khái quát với những số chẵn là 4, 6,8 như:
trong Nho giáo có “Tứ đức" (tứ đức của người phụ nữ là công, dung, ngôn,
hạnh); “Tứ hải" (4 biển: “Tứ hải giai huynh đệ"); "Tứ mã" (xe bốn ngựa:
“Tứ mã nan truy"); "Tứ phối" (4 người được thờ chung với Khổng Tử); “Tứ
thanh" (4 thanh trong tiếng Hán là các thanh bình, thượng, khứ, nhập); “Lục


nghệ" (6 môn học: Lễ, nhạc, xạ, ngự, thr, số); “Lục súc" (6 lồi vật ni:
ngựa, bị, dê, gà, chó, lợn); “Bát âm" (âm thanh của 8 loại nhạc cụ)…



×