NHẬN BIẾT TÊN CÁC TƯỢNG TRONG CHÙA BẮC TƠNG
(Thanh Hồng)
PHẦN 1: TƯỢNG PHẬT
1. Phật A Di Đà:
Phật A Di Đà theo quan niệm của Phật Giáo Bắc Tông, đây là vị Phật nằm ở cõi trời Tịnh
Độ, hay còn gọi là cõi Tây Phương Cực Lạc, cho nên người tín đồ Phật Giáo khi niệm
hồng danh A Di Đà, hay niệm rằng “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Tiếp Dẫn Đạo Sư A
Di Đà Như Lai”. Đức Phật này còn có một số tên khác là Vơ Lượng Quang Phật là từ
được dịch ra từ chính từ nguyên là A Di Đà Phật của tiếng Phạn.
Cách nhận biết: Tượng A Di Đà hay được trình bày ở Việt Nam dưới 2 dạng là dạng
đứng và dạng ngồi, đối với dạng đứng, thường được trình bày là đứng 1 mình hoặc là
đứng chung với Quan Âm và Thế Chí, đối với tượng ngồi, thường ngồi một mình trong
ban thờ Ngũ Phật hay ngồi chung với 2 vị Phật là Đương Lai Phật - Hiện Tại Phật và Quá
Khứ Phật.
Bước vào chùa, ta thấy Tượng đứng đằng trước chùa, để thế Thanh Tịnh Ấn (Bàn tay trái
để ngang ngực, ngón cái chạm hờ vào ngón giữa, bàn tay phải bng thẳng q gối), hoặc
tay trái giơ lên trước ngực, lòng bàn tay hướng về phía trước, tay phải bng (Từ Bi Ấn)
thì đó là tượng Phật A Di Đà.
Khi nhìn thấy tượng này, chúng ta có thể đốn được rằng đi từ tượng A Di Đà vào đến hết
sân chùa, tượng tiếp theo ta sẽ gặp là tượng Thích Ca ngồi dưới cội Bồ Đề, vào nữa ta
mới gặp tượng Di Lặc, 2 bên hông sẽ gặp hoặc là Quan Âm và thế Chí, hoặc là Văn Thù
và Phổ Hiền. Cho nên, chúng ta có thể thuyết minh vì sao tượng A Di Đà đặt trước chùa,
rồi gặp Thích Ca, sau nữa là Di Lặc.
Như vậy có nghĩa là: Vào chùa mà thấy tượng Phật Đứng, tay trái để ngang ngực,
ngón cái và ngón giữa chạm hờ vào nhau, tay phải bng thẳng quá gối, hoặc tay
trái giơ lên trước ngực, tay phải bng hờ, thì tượng ấy là tượng ADi Đà, chúng ta
có thể thuyết minh về A Di Đà như thế nào thì tùy vào mỗi guide. (điển hình như chùa
Vĩnh Tràng)
Tượng A Di Đà trước chùa Vĩnh Tràng
A Di Đà Từ Bi Ấn
Ngồi ra, nếu nhìn thấy trong tranh ảnh phật giáo mà thấy có 1 vị phật đứng, tay trái cầm
hoa sen, tay phải buông xuống biểu thị hành động cho đi, mặt cuối xuống nhìn, đấy là thế
A Di Đà Phóng Quang.
(hình tượng A Di Đà Phóng Quang)
Về tượng Phật A Di Đà ngồi (A Di Đà Tọa Liên Đài): Phật Giáo Bắc Tông tạc tượng A Di
Đà Ngồi rất giống với Thích Ca, thậm chí có khi khơng thể nhận biết chính xác được, nếu
ngồi 1 mình thì có khi chúng ta chẳng dám khẳng định là Thích Ca hay Di Đà đâu
(trường hợp này hiếm gặp lắm, vì đã ngồi thì hay ngồi bộ ba, mà đã ngồi bộ ba thì ta
nhận diện 2 tượng 2 bên và suy ra tượng chính giữa được) nhưng chúng ta có thể đốn
được thơng qua trang phục của tượng. Phật A Di Đà mặc áo trùm kín hai vai cân đối, chỉ
để lộ một phần ngực vuông vức, trên cổ đeo trang sức hoặc là giữa ngực có để chữ vạn,
( khác với Thích Ca ở chổ Thích Ca đắp y, hoặc kín cổ, hoặc để 1 vai trần) đó là tượng A
Di Đà Tọa Thiền
Một số thế phật A Di Đà Tịa Liên Đài
2. Phật Thích Ca:
Thích Ca có 3 thế là Đứng – Ngồi và Nằm
Đứng có 1 thế gọi là Thích Ca Cửu Long hay Thích Ca Đản Sanh, Ngồi có Thích Ca
Tuyết Sơn, Thích Ca Thuyết Pháp, Thích Ca Tọa Thiền, và Thích Ca Niêm Hoa, Nằm có
Thích Ca nhập diệt niết bàn. Các thế tượng này kể theo thứ tự cuộc đời của Đức Phật
Thích Ca. Ở một số ngơi chùa, ngồi vườn kiểng cũng để lịch sử Thích Ca từ khi cịn là
thái tử Tất Đạt Đa, chúng ta thấy tượng 1 chàng trai dùng kiếm cắt tóc, hoặc đang cưỡi
ngựa trắng, có một chú hầu kéo đi ngựa trắng thì: Người cắt tóc hay cưỡi ngựa đó là
Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia, ngựa đó gọi là Kiền Trắc, người hầu đó gọi là Sa Nặc.
a. Tượng Thích Ca Cửu Long (Thích Ca Đản Sanh) được thờ trong ban thờ của Đại
Hùng Bửu Điện, kể về việc ngày Tất Đạt Đa được mẹ là Maya sanh ra, một tay chỉ
trời, một tay chỉ đất.
Nhận biết: Tượng chú bé đang đi, tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất (hoặc chắp
tay lại có rồng phun nước xung quanh) , chú bé để tóc 3 vá, hoặc tóc xoăn ốc, hoặc đầu
trọc là tùy vào văn hóa vùng, có thể chú bé được quấn vải từ rốn đến đùi, cũng có thể
được quấn thêm mảnh vải trên vai và trên tay phải. (Nói chung là chú bé được để trong
Đại Hùng Bửu Điện) – anh em thuyết minh về đời Phật Thích Ca hoặc ý nghĩa tượng…
Một số thế Thích Ca Đản Sanh (Thích Ca Cửu Long)
b. Thích Ca Tuyết Sơn:
Thích Ca Tuyết Sơn kể về câu chuyện Thái Tử Tất Đạt Đa sau khi xuống tóc tụ hành 6
năm rịng rã trên núi Tuyết Sơn (Hy Mã Lạp Sơn) mỗi ngày chỉ ăn 1 hạt kê và uống 1 giọt
sương, cầu khổ hạnh mong đạt đạo giống như phép tu phổ biến của các thầy tu đạo Kỳ
Na ở Ấn Độ lúc bấy giờ, vì phép tu khổ hạnh hành xác mù quáng quá nên thân thể của
Tất Đạt Đa hao gầy trơ xương mà vẫn chưa đến bờ giác ngộ rốt ráo, sau đó ngài ngất đi
thì có một mục đồng dâng cho ngài bát sữa và ngài đã nhận ra rằng không thể tu hành
thái quá như vậy và ngài quyết định tu theo phép tu trung đạo.
Cách nhận biết Thích Ca Tuyết Sơn: Hình tượng một nhà sư đầu trơn ốc, hoặc đầu
trần, hai tay bắt vào nhau để trên đùi, người gầy trơ xương, hở cả xương sườn xương
sống, có thể có râu hoặc khơng có râu, đó là tượng Thích Ca Tuyết Sơn.
Một số thế Thích Ca Tuyết Sơn
c. Thích Ca Thuyết Pháp:
Hay cịn được gọi là Thích Ca Thành Đạo, tích kể rằng, sau khi được mục đồng cho
sữa, Thái tử Tất Đạt Đa đã chuyển sang tu phép tu trung đạo, tọa thiền 49 ngày thì
ngài thánh chánh quả, ngài thu nhận đồ đệ, 5 người bạn đồng tu với ngài ngày xưa
trong phép tu khổ hạnh tại Khổ Hạnh Lâm là 5 anh em Kiều Trần Như được ngài thu
nạp và thuyết bài pháp Chuyển Pháp Luân.
Hình tượng là ngài ngồi dưới cội bồ đề, có 5 thầy tu quỳ nghe ngài giảng pháp, chúng
ta có thể kể về sự tích này. Cũng có thể có tranh Đức Phật Thuyết Ca thuyết pháp cho
rất nhiều thầy tu, tích kể về 500 vị đồ đệ của ngài
Tượng Phật Thích Ca dễ nhận biết khi ngài ngồi, thông thường ngài hay ngồi dưới cộ
bồ đề, mặc áo kiểu đắp y của Phật Giáo Nguyên Thủy, hoặc ngài chỉ để một vai, nếu
ngài ngồi dưới cộ bồ đề (hoặc đằng sau là rắn Nagar 5-7 đầu), hai mắt khép hờ, hai
tay để trên đùi, đó là tường ngài đang ngồi thiền. Nếu gặp tượng Thích Ca Tọa thiền,
thì kể câu chuyện lũ sông Hằng (google )
d. Thích Ca Niêm Hoa:
Thích Ca Niêm Hoa là bộ tượng Niêm Hoa Vi Tiếu được thờ nhiều trong các Thiền Viện
của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.
Niêm hoa vi tiếu nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉm cười đây là một giai thoại thiền, ghi lại
sự kiện Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhan
mỉm cười.
Hôm nọ, trên núi Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa) trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn
không tuyên thuyết pháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Đại
chúng ngơ ngác chẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão Ma-ha Cadiếp (Mahākāśyapa) mỉm cười. Đức Phật liền tuyên bố với các thầy tì kheo: "Ta có chính
pháp vơ thượng trao cho Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy tì
kheo, cũng như Như Lai là chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh". Từ câu nói này, chư vị
Thiền sư tiền bối đã diễn đạt thành: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm, thật
tướng vô tướng, pháp mơn vi diệu, bất lập văn tự, truyền ngồi giáo pháp, nay trao cho
Ca-diếp". Điều này có ý nghĩa gì?
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời
người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội, tự thực
hành thể nghiệm hay tự chứng cảnh giới và hằng sống với cảnh giới ấy bằng nhận thức
trực tiếp về chân lý mà không thể chia sẻ cho người khác bằng lí luận. Trạng thái giác
ngộ vượt ra ngoài nhận thức phân biệt của con người. Điều đó làm sao diễn tả bằng lời?
Sự thật thì trong giáo lí giác ngộ giải thốt của Đức Thế Tơn cũng có một sự hiểu biết có
thể với tới được bằng cách tư duy, học hỏi giáo lý, diễn đạt bằng ngơn ngữ; nhưng cũng
có một sự hiểu biết vượt trên lý luận, tư duy và không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ.
Thế nhưng, nếu không diễn đạt bằng ngôn ngữ, khơng nói gì cả, thì làm sao để hiểu
được? Phải mượn hình ảnh để ví dụ, để diễn đạt những điều không thể diễn đạt bằng lời.
‘Niêm hoa’ là cách khai mở kho tàng tuệ giác vượt lên trên lý luận, tư duy, phân biệt bằng
lời đó. Mọi tư duy phân biệt một khi đã bị cắt đứt thì tuệ giác vắng lặng uyên nguyên
bình đẳng trong tâm thức của mỗi chúng sinh vốn vượt ngoài giới hạn của mọi hình thức
tư duy khái niệm sẽ được khai mở.
Do đó, khi Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca-diếp mỉm cười (vi tiếu) là
biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, một pháp môn siêu ngơn ngữ, siêu văn tự.
Trong pháp mơn này chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và
hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.
Hình Tượng là: Phật Thích Ca đắp y kín cổ, hoặc hở 1 vai, tay phải cầm hoa sen, tay
trái để trên đùi, miệng mỉm cười, mắt nhắm hờ - đó là Niêm Hoa Vi Tiếu
e. Thích Ca Nhập Niết Bàn:
Tượng kể về ngày cuối cùng trụ thế của Đức Phật Thích sau 80 năm tại thế gian, vào một
đêm trăng tròn, ngài đã nhập diệt niết bàn, pháp thân của ngài được đặt dưới hai tán cây
sala (cây ngọc kỳ lân hay cây đầu lân) trong sự khóc thương của tăng đồ Phật Giáo.
Hình tượng đức Phật Nằm nghiêng, tay trái để trên đùi, tay phải kê làm gối nằm, mắt
nhìn hướng tây, lưng quay hướng đông, đầu nằm hướng bắc, chân nằm hướng Nam.
3. Phật Di Lặc
Theo truyền thuyết và kinh điển Phật giáo, Di Lặc là vị Bồ tát sẽ xuất hiện trên Trái Đất,
đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ
thành Phật. Phật Di Lặc sẽ là vị Phật kế thừa Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Cõi giáo
hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất (sa. tuṣita). Bồ Tát Di-lặc được tiên tri sẽ giáng
sinh trong kiếp giảm của tiểu kiếp kế tiếp, khi nhân thọ là 80.000 năm, tức khoảng 9 triệu
năm nữa theo năm Trái Đất, khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên cõi Diêm phù đề. Sự tích
về Phật Di Lặc được tìm thấy trong các tài liệu kinh điển của tất cả các tông phái Phật
giáo (Nguyên thủy, Đại thừa, Kim cương thừa), và được chấp nhận bởi hầu hết các Phật
tử như là một sự kiện sẽ diễn ra khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên Trái Đất, và Bồ Tát
Di-lặc sẽ là bậc giác ngộ Pháp và thuyết lại cho chúng sinh, tương tự như những vị Phật
lịch sử đã làm trong quá khứ.
Phật Di Lặc ở Việt Nam được miêu tả là người có cặp ngực to lớn, xệ xuống, bụng phệ,
mặc áo rông tay, tai to, miệng rộng, mặt tròn, và được biểu thị bằng hai thế là đang đứng
hoặc đang ngơi, nồi thì ngài cười rộng miệng, đơi khi có 6 đứa con nít đu lên người ngài
và phá, tượng ấy gọi là Di Lặc lục tặc, cịn đi thì tay cầm trượng, tay phải vác bao bố, bên
trong bao bố đựng tiền bạc cho nhân gian, và lấy đi của nhân gian sự muộn sầu, ý nghĩa
vì sao Phật Di Lặc bụng bự là “Bụng ngài bự để chứa đựng những điều thế gian muộn
sầu mà khơng thể xả bỏ - Lịng từ thường xả, xả những điều bất xả của thế gian) còn Phật
Di Lặc kéo bao bố gọi là Bố Cái Đại Vương Phật (một tiền kiếp của Phật Di Lặc,) ngồi
ra cịn có tượng Phật Di Lặc đang nhảy múa vui tươi.
4. Phật Dược Sư
Trong Phật Giáo Bắc Tông, Phật Dược Sư về mặt hình tượng rất giống với Phật A Di Đà,
trang phục và thế ngồi tòa sen, cho nên có vài lần vào chùa thuyết minh, mình thấy có
một số anh em cũng nhầm, dấu hiệu nhận biết rất dễ dàng, trong Đại Hùng Bửu Điện,
ngài được đặt ở ban thờ thấp nhất trong các ban, tuy nhiên không bao giờ thờ 1 tượng mà
thờ tới 7 tượng nhỏ, mỗi tượng về mặt trang phục rất giống Phật Di Đà nhưng tư thế tọa
liên hoa, tay trái có cầm viên dạ minh châu.
Phật Dược Sư trong quan niệm Phật Giáo Bắc Tông là vị Phật Tiêu Tai giải nạn, được gọi
là Lưu Ly Quang Dược Sư Như Lai và nằm ở cõi trời phương Đông.
(Còn nữa, Phần 2 là Bồ Tát, phần 3 là La Hán, Phàn 4 là Tổ Sư, Phần 5 là Nhân Thần,
phần 6 là các tượng dân gian trong chùa)