Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

MỐI QUAN hệ GIỮA PHẬT GIÁO và ấn độ GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.54 KB, 5 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẬT GIÁO VÀ ẤN ĐỘ GIÁO
(Định Chơn – Thanh Hồng)
Ấn Độ Giáo là tơn giáo dân tộc chiếm hơn 80% dân số Ấn Độ và có tầm ảnh
hưởng khá sâu sắc đến đời sống tinh thần của nhiều cư dân ở Nam Á và Đông Nam
Á.
Tuy nhiên, sự phát triển để có được một tơn giáo hồn thiện ngày hơm nay - Ấn Độ
Giáo thì bản thân tôn giáo này đã trải qua khá nhiều thăng trầm, từ thời kỳ Vệ Đà
đến thời kỳ Bàlamôn đến thời kỳ ngày nay là Hindu.
Tại Việt Nam, Tiền Hindu là Bà La Mơn có ảnh hưởng đến nhiều dân tộc đó là
Chăm và Khmer.
Ấn Độ cũng là cái nơi thân sinh của một tôn giáo chiếm hơn 7 triệu tín đồ tại Việt
Nam ta, theo tính quy luật, Ấn Độ Giáo và Phật Giáo có mối quan hệ khá nhiều với
nhau, và vay mượn với nhau nhiều điểm giáo lý.
Vậy tôn giáo nào là chủ nhân của những điểm giáo lý cụ thể?
Trong nội dung này, bần đạo dùng 2 thuật ngữ Ấn Độ Giáo và Bà La Môn để chỉ
hai thời kỳ lịch sử khác nhau của một tôn giáo, xin quý vị đừng nhầm lẫn rằng Bà
La Môn và Ấn Độ Giáo là 2 thực thể khác nhau.
1. Giáo lý Bà La Môn trong Phật Giáo:
a. “Cái Ta” – Hán Việt gọi là “Ngã”:
Truyền thuyết kể rằng ngay sau khi Thái tử Shiharta Gautama (Tất Đạt Đa
Cồ Đàm) được đản sanh thì ngài một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và nói rằng
“Thiên thượng thiên hạ duy Ngã độc tôn” tạm dịch nôm na rằng “Trên trời dưới đất
chỉ có cái Ta là độc nhất”. Xin quý vị chớ dịch rằng “Trên trời dưới đất chỉ có mình
ta là độc tơn”, là sai quan niệm của Phật Giáo và có cảm giác Phật tự cao quá mức,
thực ra cần phải dịch rằng cái Ta, tức là cái tôi cá nhân, tức là sự tự cao, tự đại, tự
đắc, ỷ lại… (cái Ta này rất đa nghĩa). Quay lại với cái Ta, ngay khi Tất Đạt Đa ra
đời, ông vẫn chưa lập Phật Giáo, nhưng khái niệm cái Ta đã xuất hiện, như vậy
khái niệm Cái Ta vốn có trước Phật Giáo và thuộc về Bà La Môn Giáo.


Giáo lý Bà La Mơn nói rõ rẳng Cai Ta hay cái Tiểu Ngã Atman được chiết thân từ


cái Đại Ngã mà ra và nó thể hiện bản tánh con người, như vậy khái niệm “cái Ta” –
Ngã Kiến ….. là của Bà La Môn.
b. Khái niệm Luân Hồi – Nhân Quả:
Nhiều người nhầm lẫn rằng Luân Hồi – Nhân quả là của Đạo Phật, nhưng
thực chất điều này đã được nhắc không dưới 1000 lần trong bộ Rig Veda của Vệ
Đà Giáo - một tôn giáo tiền thân của Bà La Mơn, qua đến thời kỳ của Thích Ca, hệ
thống quan niệm Luân Hồi – Nhân Quả này đã được hiện thực hố và hồn thiện
hố, cho nên Phật Giáo ứng dụng quan niệm này rất triệt để và dần dần làm con
người ta nhầm lẫn về nguồn gốc xuất xứ của Học thuyết này.
c. Niết Bàn:
Niết Bàn là cảnh giới tối cao của Đạo Phật, xin đừng nhầm tưởng rằng Tây
Phương Cực Lạc là chốn tôn quý dành cho người giác ngộ hoàn toàn trong Đạo
Phật, mà Tây Phương Cực Lạc chỉ là một cõi dành cho người siêu linh, Kinh A Di
Đà cuả Phật Giáo Bắc Truyền nhìn nhận rằng sau khi người ta niệm phật A Di Đà
chân thành (Phật Giáo gọi là Nhiếp Tâm Bất Loạn) thì sẽ được Đức Phật A Di Đà
cùng chư Bồ Tát cứu vớt để đm về cõi trời phương Tây, nơi A Di Đà làm giáo chủ
và ở đó, linh hồn sẽ được nghe Di Đà thuyết pháp và tu tập để tiến hoá. (Xem thêm
kinh A Di Đà, Đại Bát Niết Bàn và Vikipedia), do vậy, cõi Tây Phương thực sự
chưa phải chốn “bất cấu, bất tịnh” vẫn cịn vướng phải chữ “lạc” – vui, trong Thất
Tình (hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục) và thực sự thì Niết Bàn mới là chốn quan trọng hàng
đầu mà tu sĩ xuất gia, tu sĩ tại gia của Phật Giáo cần hướng đến, nhưng Niết Bàn
vốn là khái niệm của tất cả các tôn giáo xuất phát từ vùng Ấn Độ năm xưa, gồm cả
Kỳ Na Giáo, Đạo Sít, Đạo Jain, và những tơn giáo này đều được hình thành dựa
trên nền tảng tư tưởng của Vệ Đà – Bà La Mơn, sau khi Phật Giáo được hình
thành, Phât Giáo cũng lai mượn khái niệm Niết Bàn để chỉ đến một trạng thái trong
tâm hồn, một thế giới siêu thực vô cùng tốt đẹp mà con người cần hướng tới.
d. Phương pháp tu hành khất:
Sau khi Đức Phật giác ngộ, 49 năm thuyết pháp cũng là 49 năm Ngài hành
khất, và quan niệm hành khất của Phật Giáo là để mở rộng cơ hội kết tập duyên
lành cúng dường cho Tu sĩ của chúng sanh, nhưng trước đó, cũng quan niệm này,



cũng cách thức bê bát đi khắp các vùng đất của Ấn Độ, cũng để kết tập duyên lành
cho chúng sanh, Bà La Môn giáo đã áp dụng hàng trăm năm trước khi Phật Giáo ra
đời, hiện nay, pháp môn hành khất của Phật Giáo ở Việt Nam chỉ còn Phật Giáo
Nam Truyền và Phật Giáo Khất Sĩ là còn áp dụng, còn Phật Giáo Bắc Truyền đã
chuyến sang “Trú xứ” tức là tu hành ổn định trong các ngôi chùa và khơng cịn đi
hành khất nữa.
Theo quan niệm của Bà La Mơn, một người tín đồ Bà La Mơn sẽ trãi qua 5 giai
đoạn, từ khi con bé thơ, đến làm Chủ gia đình, đến giai đoạn quán tưởng sầu bi,
đến giai đoạn hiểu được vô thường, và cuối cùng sẽ là tu sĩ hành khất, cho nên đa
phần giai cấp tăng lữ Bà La Môn đều rất lớn tuổi, và họ đã lập gia đình trước khi đi
tu, và ngày nay, Hinđu vẫn giữ được truyền thống này.
2. Giáo lý Phật Giáo trong Ấn Độ Giáo:
a. Hình tượng Phật Thích Ca.
Sau khi bị đánh bại trong cuộc thánh chiến của Hồi Giáo, vương triều Hồi
Giáo Đê Li đã dẫn dắt xã hội Ấn Độ từ bỏ Phật Giáo và Bà La Mơn Giáo.
Vì Phật Giáo là Tơn giáo gắn liền với các vương triều, cho nên sau khi sự thất bại
của các vương triều Ấn Độ sau Asoka, Phật Giáo dần dần phải di chuyến về với
các nước phương Nam và phương Đông để bảo tồn được tôn giáo của mình, và bị
đánh bại tại Ấn Độ.
Rồi sự thất bại của Hồi Giáo trước cuộc phản chiến của nhân dân Ấn Độ đã tạo
điều kiện để Bà La Môn giáo phát triển trở lại. Nhưng bài học lịch sử đã chứng
mình sự suy đổ về giai cấp và bất bình đẳng giai cấp đã biến Bà La Mơn trở thành
người thua cuộc trong cuộc chơi giữa Phật Giáo và Bà La Mơn, và vào thời Asoka,
chỉ có ¼ dân số Ấn Độ theo Bà La Mơn và có đến ¾ dân số Ấn Độ chuyển từ Bà
La Mơn sang Đạo Phật, họ đã xây dựng hơn 8 vạn Stupa trên khắp Ấn Quốc.
Sợ rằng lịch sử lặp lại, bắt buộc Bà La Môn giáo phải đổi mới và tiếp thu những
cái hay của Phật Giáo để lấy lại tín đồ và giữ vững địa vị xã hội của tôn giáo này
năm xưa.

Các tăng lữ Bà La Môn đã quyết định biến Bà La Mơn thành Hinđu, hồn thiện hệ
thống giáo lý để giải thích phép thuật của các vị thần đối với cuộc sống con người,
đồng thời biến Phật Thích Ca trở thành một kiếp của Thần Vishnou, vị thần bảo tồn


của người Ấn Độ. Trước khi có Đạo Phật, chưa có kinh điển nào nói rằng vị thần
Bảo Tồn này có nhiều kiếp tái sinh, nhưng sau khi Phật Giáo lấy đi khá nhiều tín
đồ, Hinđu giáo đã xuất hiện các lời giải thích rằng Thích Ca chỉ là một kiếp trong
nhiều kiếp của thần Bảo Tồn, Thần Bảo Tồn hố kiếp thành Thích Ca để dạy dỗ
dân Ấn Độ mà thôi. Và trong những ngày lễ liên quan đến Phật Thích Ca, người
Hinđu cũng tổ chức lễ, nhưng lễ này dành để tơn thời Thần Vishnuo, có một điều
mà trog kinh điển Hinđu hiện đại thật sự rất hay (nếu xét trên quy luật tôn giáo mà
không xét đức tin tơn giáo) đó là câu “Hãy cầu nguyện Thích Ca, Thần Vishnuo sẽ
cứu vớt!!!” Nhìn có vẻ như nhập nhằng và phi logic, nhưng thực ra rất loogic khi
người ta cố tình biến Giáo chủ của một tơn giáo khác thành một hố kiếp của giáo
chủ tơn giáo mình, đây là cách để chiêu mộ tín đồ rất nhanh chóng.
Lịch sử tơn giáo thế giới vẫn có nhiều tơn giáo như vậy, ví dụ như: Hồi Giáo cho
rằng Giê su cũng là một vị tiên tri của chính tơn giáo họ, và là một phần của Ala.
Ở Việt Nam, Cao Đài cũng làm theo con đường này, họ gọi Phật Thích Ca, Chúa
Giê-su, thậm chí cả Khổng Tử, Lão Tử, và nhiều thần thánh khác của những tôn
giáo khác là tiền thân của giáo chủ tơn giáo mình – Cao Đài Tiên Ơng.
b. Đạo quả:
Vào thời Bà La Mơn, trong kinh của Bà La Môn và cả kinh Vệ Đà đều đã từng
nhắc đến các khái niệm mà sau này dịch ra có nghĩa là La Hán, là Bồ Đề quả…
nhưng kinh Vệ Đà khơng giải thích rõ ràng La Hán là đạt được những gì, Bồ Đề
quả có pháp lực gì, chỉ nhìn nhận đó là một dạng trạng thái tâm hồn người tu sĩ.
Sau khi biến Bà La Môn thành Hinđu, các tăng lữ Hinđu đã mượn sự giải thích của
Thích Ca về La Hán, về Bồ Đề Quả, về pháp Quán Tưởng…để giải thích cho cách
thức tu tập của mình. Và cho rằng tu hành theo Hinđu giáo vẫn sẽ trở thành La Hán
như tu theo Phật Giáo và giải thích thêm thần thơng của La Hán, Bồ Đề quả, tinh

thần này lấy đúng theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ rằng người tu sĩ Phật Giáo tu tập
sẽ đạt đến trạng thái La Hán hoặc Bồ Đề quả.
Như vậy, sự xuất hiện của giáo lý Phật Giáo trong Hinđu đã bắt đầu. Sau khi thấy
được cơ hội tái lập Phật Giáo tại Ấn Độ khơng cịn, thì Hinđu Giáo khơng cịn xuất
hiện thêm các khái niệm hoặc các điểm giáo lý của Phật Giáo trong giáo lý của


mình nữa. Qua đó ta thấy rõ việc vay mượn và con đường phổ độ tín đồ của tơn
giáo có tính quy luật rất rõ ràng.
Cần phân biệt rõ là Phật Giáo vay mượn giáo lý của Bà La Môn (tiền Hinđu) chứ
Phật Giáo không vay mượn giáo lý của Hinđu vì khi Phật Giáo ra đời, Hinđu vẫn
chưa có, và Hinđu giáo vay mượn giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thuỷ chứ không
vay mượn giáo lý của Phật Giáo nói chung, vì hiện nay, trên tồn thế giới có hàng
trăm tông phái Phật Giáo và giáo lý của các tơng phái này có nhiều điểm thay đổi
để phù hợp với giai đoạn lịch sử, với văn hoá của nước sở tại, và những thay đổi
này biến các tông phái ra đời sau trở nên xa rời (ít hoặc nhiều) với giáo lý Phật
Giáo mà Thích Ca đã thành lập.
Mỹ An, 14/5 Nhâm Thìn (2012)



×