ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------
VƯƠNG BÂN (WANG BIN)
TỤC NGỮ VỀ ĐẠO LÝ TRONG TIẾNG TRUNG
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)
Ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 9229020
TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƠN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2022
Cơng trình được hồn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.
Người hướng dẫn khoa học 1: PGS. TS. Nguyễn Công Đức
Người hướng dẫn khoa học 2: PGS. TS. Trịnh Sâm
Phản biện độc lập 1: PGS.TS. Phạm Ngọc Hàm
Phản biện độc lập 2: PGS.TS. Liêu Linh Chuyên
Phản biện 1: PGS.TS. Hoàng Quốc
Phản biện 2: TS. Hồ Minh Quang
Phản biện 3: TS. Trần Hoàng
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào tạo họp
tại: ...................................................................................................................
........................................................................................................................
vào hồi ………. giờ …. ngày …. tháng ….năm……….
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:...............................................................
........................................................................................................................
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.
王彬,《越南语俗语汉译的喻体形象处理研究》,红河学院学报,
2019 年第 4 期,13-17 页。
Vương Bân (2019), Nghiên cứu xử lý hình ảnh ẩn dụ tục ngữ trong tiếng
Tiếng Việt dịch sang tiếng Hán, Tạp chí Học viện Hồng Hà, Trung Quốc,
số 4, năm 2019, Tr. 13-17.
2.
王彬,《社会语言学视域下的越南佛教俗语研究》,青年文学家杂
志,2019 年第 690 期,158-159 页。
Vương Bân (2019), Nghiên cứu tục ngữ Phật giáo Việt Nam dưới góc
nhìn Ngơn ngữ học xã hội, Tạp chí Tác giả Thanh niên, Trung Quốc, số
690, năm 2019, Tr.158-159.
3.
Vương Bân (2019), Hiện tượng đồng dạng ‘heteronym’ trong tiếng Hán
hiện đại từ nguyên nhân biến đổi ngữ âm, Kỷ yếu hội thảo khoa học Sau
Đại học năm 2019, trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tr.289-295.
4.
Vương Bân (2021), Một số nhận xét về khái niệm tục ngữ và phân loại
chúng trong giới học thuật Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Sự phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tập 18, số 7 (2021):
1233-1241.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là sự truyền tải văn hóa, phản ánh những đặc điểm văn hóa
của một quốc gia nào đó theo cách gián tiếp. Tục ngữ là những thành phần
đặc biệt trong kho tàng ngôn ngữ, là sự đúc kết kinh nghiệm của cuộc sống
hàng ngày, là loại “hóa thạch sống” của ngơn ngữ, là kết tinh trí tuệ của con
người.
Đạo lý là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất về con người. Hễ
người có thiện tâm thiện chí trong một phút giác ngộ là có thể thấy được
Đạo, hiểu được Đạo, hành được Đạo. Tục ngữ về đạo lý là những câu tục
ngữ truyền đạt một đạo lý nào đó, để khuyên bảo và giáo dục con người làm
tốt, làm thiện. Việc nghiên cứu tục ngữ trong giới học thuật Trung Quốc và
Việt Nam rất được coi trọng và đã có một số cơng trình, nhưng việc nghiên
cứu so sánh hai tục ngữ nói chung và so sánh hai tục ngữ về đạo lý nói riêng
cịn rất hiếm. Do có một số quan hệ đặc biệt giữa ngôn ngữ và văn hóa Trung
Quốc và Việt Nam, việc nghiên cứu so sánh tục ngữ về đạo lý tiếng Trung
và tiếng Việt là rất có ý nghĩa về mặt lý thuyết và thực tiễn.
Tục ngữ về đạo lý là tinh hoa văn hóa ứng xử, giúp định hướng và lựa
chọn giá trị mà con người cần giữ gìn, tuân theo trong suốt cuộc đời để vươn
tới cái chân, thiện, mỹ; tục ngữ về đạo lý có ý nghĩa khơng chỉ đối với q
khứ mà cịn có ý nghĩa đối với xã hội hiện nay và tương lai. Những giá trị
đạo lý trong truyền thống đang có nguy cơ bị lãng quên khiến cho hiện tượng
xuống cấp đạo đức diễn ra một cách đáng lo ngại trong một bộ phận nhỏ
trong xã hội. Chính vì vậy, việc trở về với các giá trị đạo lý để kế thừa và
phát huy trong bối cảnh hiện nay điều là cần thiết.
Với mong muốn nghiên cứu một cách hệ thống tục ngữ về đạo lý tiếng
Trung và tiếng Việt, góp phần khẳng định tính phổ qt và đặc thù, kế thừa
và phát huy những giá trị đó trong bối cảnh hiện nay, chúng tôi chọn “Tục
ngữ về đạo lý trong tiếng Trung (có so sánh với tiếng Việt)” làm đề tài để
nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu tục ngữ tại Trung Quốc
Tục ngữ là một đơn vị ngôn ngữ đúc kết kinh nghiêm, đã được tồn tại
trong tiếng Trung từ lâu. Trong các cuốn Văn Hiến của thời tiền Tần đã có
nhiều tài liệu ghi chép về tục ngữ. Song thời đó khơng gọi là tục ngữ, mà
được gọi là “Ngạn”. Đến thời đại Tây Hán, từ tục ngữ xuất hiện lần đầu trong
cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên với: “Ngôn luận lưu truyền phổ biến trong dân
2
gian.” Nhưng trong cuốn Thuyết uyển của Lưu Hướng, ý nghĩa của khái niệm
tục ngữ có phần khác với sự giải thích củaTư Mã Thiên là: “Cụm từ cố định
lưu truyền trong dân gian.”. Bởi vì khơng có cách hiểu thống nhất, trong một
thời gian dài, những tên gọi của tục ngữ thường bị nhầm lẫn với những khái
niệm gần gũi như: tục ngôn, tục ngạn, lý ngữ, ngạn ngữ, tục đàm v.v.
Rõ ràng việc nghiên cứu tục ngữ từ thời cổ đại đến hiện đại của Trung
Quốc đã đạt được một số thành tựu nhưng vẫn ở tình trạng khá phân tán về
tên gọi, cấu tạo và cả chức năng. Bước vào thế kỷ XX, các cơng trình nghiên
cứu chuyên sâu về tục ngữ bắt đầu xuất hiện.
Trong Đại Từ điển tục ngữ do học giả Ơn Đoan Chính chủ biên (2015),
tác giả đã liệt kê những câu tục ngữ khác nhau và cách sử dụng một cách chi
tiết. Đồng thời, tác giả cũng cố gắng đổi mới về mặt tiếp nhận và giải thích,
và hồn thiện hơn trong việc khảo cứu các biến thể. Vì vậy, từ hai khía cạnh
của sự phong phú và đầy đủ, cuốn sách này đã cho thấy kết quả đáng ghi
nhận. Ông đã đề xuất một quan điểm quan trọng về thể loại tục ngữ là: Tục
ngữ nên bao gồm các câu ngạn ngữ, yết hậu ngữ và quán dụng ngữ. Quan
điểm này cũng được sự ủng hộ trong nhà giới nghiên cứu tục ngữ ở Trung
Quốc. Trong cơng trình Từ điển tục ngữ tiếng Hán, tác giả Tôn Hồng Đức
(2011) đã thu thập hơn 9,000 câu tục ngữ thường được sử dụng và phổ biến
trong cuộc sống hàng ngày hoặc được sáng tạo trong tác phẩm văn học,
quyển từ điển này đặc biệt thích hợp với những người quan tâm đến ngơn
ngữ và văn hóa Trung Quốc.
2.2. Tình hình nghiên cứu tục ngữ tại Việt Nam
Ở Việt Nam, trước thế kỷ XIX, các tác phẩm văn học chữ Hán và chữ
Nôm đã có ít nhiều dấu vết của các tư tưởng dân gian vốn là nội dung của
các câu tục ngữ. Công trình Nam phong ngữ ngạn thi của tác giả Đình Thái
và Đại Nam Quốc Túy của Ngô Giáp Đậu, đã sưu tầm, ghi chép tục ngữ bằng
chữ Nơm, có phần dịch tục ngữ chữ Nơm ra chữ Hán, có giá trị khoa học về
nghiên cứu tục ngữ tiếng Việt có so sánh với tiếng Trung.
Từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX đã xuất hiện các cơng trình nghiên
cứu về tục ngữ như: cuốn Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của
(1896), Việt Nam ngạn ngữ phương ngôn thơ của Phạm Quang Sán (1931),
Tục ngữ và cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920), An Nam tục ngữ của Vũ
Như Lâm và Nguyễn Đa Gia (1933), Ngạn ngữ phong dao của Nguyễn Can
Mộng (1936) v.v...
Những cơng trình này chủ yếu là dừng lại mức thu thập, biên soạn và
có thêm phần chú giải tục ngữ, điều này rất có giá trị về phương diện bảo tồn
và giữ gìn bản sắc ngơn ngữ văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cùng thời kỳ
3
này phải kể đến cơng trình Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1928),
đã tổng hợp và giới thiệu 6.500 câu tục ngữ và thành ngữ. Cho đến nay cơng
trình này vẫn được đáng giá rất cao trong việc sưu tầm tục ngữ Việt Nam.
Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là một cơng trình sưu tầm, chưa có sự nghiên cứu sâu
về tục ngữ.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), có sự xuất hiện khá nhiều các cơng
trình nghiên cứu về tục ngữ Việt Nam. Cuốn Tục ngữ và dân ca của tác giả
Vũ Ngọc Phan (2016). Bên cạnh đó, việc sưu tầm biên soạn tục ngữ cũng
được tiến hành thực hiện từ rất sớm. Được đánh giá cao là công trình sưu
tầm nghiên cứu có nhiều đóng góp về học thuật: Tục ngữ Việt Nam của tập
thể tác giả Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1975). Đánh dấu
một bước tiến về nghiên cứu, ngoài số lượng lớn những câu tục ngữ được
sưu tầm cịn có phần tiểu luận về tục ngữ Việt Nam. Ở cơng trình nghiên
cứu: Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam tác giả Phan Thị Đào (1999) đã
trình bày khá chi tiết và hệ thống về thi pháp tục ngữ như: kết cấu, nhịp, vần,
nghĩa v.v.
Cũng giống như trong tiếng Trung, tục ngữ tiếng Việt cũng đã được chú
ý nghiên cứu từ lâu, thành quả nghiên cứu cũng là rất lớn. Gần đây, một số
bình diện cụ thể như: ngữ nghĩa, ngữ pháp, cấu trúc và đặc điểm ngữ dụng
đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận một cách chuyên sâu.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Hiện nay ở Trung Quốc và Việt Nam, chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và trực tiếp về tục ngữ đạo lý trong tiếng Trung
và tiếng Việt, tuy vậy cũng có nhiều cơng trình liên quan gián tiếp đến đề tài.
Trên cơ sở kế thừa giá trị của những công trình đã được nghiên cứu trong
giới học thuật hai nước, luận án tiếp tục bổ sung thêm và làm sâu hơn tục
ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có so sánh với tiếng Việt theo những nội
dung nói trên.
Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra một số
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu như sau:
(i) Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến khái niệm của
tục ngữ và tục ngữ về đạo lý, làm rõ những khái niệm liên quan với tục ngữ
như: thành ngữ, ca dao.
(ii) Phân tích quy luật của cấu trúc tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung
có so sánh với tiếng Việt, hiểu rõ các đặc điểm đối xứng, quan hệ từ, vần
điệu v.v., trong tục ngữ.
4
(iii) Phân tích ngữ nghĩa của tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có so
sánh với tiếng Việt trên cơ sở hình biểu trưng và nghĩa biểu trưng, nghĩa
đen và nghĩa bóng của tục ngữ.
(iv) Phân tích các biện pháp tu từ như: so sánh, khoa trương, nhân hóa
của tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có so sánh với tiếng Việt, để tìm
hiểu biện pháp nghệ thuật ngôn ngữ và đặc trưng ngôn ngữ qua tục ngữ.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đứng từ góc độ ngơn ngữ học, đối tượng nghiên cứu của đề tài là tục
ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có so sánh với tiếng Việt.
Nội dung đạo lý được thể hiện qua mối quan hệ của vai trò con người.
Phạm vi nghiên cứu trong luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu những
tục ngữ về đạo lý được thể hiện qua mối quan hệ con người với bản thân, gia
đình và xã hội trong kho tàng tục ngữ tiếng Trung và tiếng Việt do một số
nhà xuất bản tuyển chọn, và những vấn đề liên quan mật thiết với tục ngữ
như: khái niệm, cấu trúc, ngữ nghĩa, biện pháp tu từ...
5. Phương pháp nghiên cứu và ngữ liệu nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Với đối tượng và pham vị được xác định như trên, luận án chủ yếu sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
(i) Phương pháp thống kê - phân loại
Đây là phương pháp được tiến hành đầu tiên nhằm khảo sát, cung cấp
những ngữ liệu tục ngữ trong tiếng Trung và tiếng Việt, tạo cơ sở thực tế đưa
ra kết luận mang tính khoa học đáng tin cậy. Sử dụng phương pháp thống kê,
để tiến hành phân loại các vấn đề theo nội dung nghiên cứu yêu cầu.
(iv) Phương pháp miêu tả - phân tích
Trên cơ sở thống kê và phân loại ngữ liệu, luận án sẽ hướng tới việc
khái quát và tổng hợp các khái niệm, nội dung của tục ngữ, tiến hành miêu
tả những cấu trúc, ngữ nghĩa và biện pháp tu từ của tục ngữ về đạo lý trong
tiếng Trung có so sánh với tiếng Việt, phân tích rõ về nghĩa, dịch nghĩa và
tinh thần truyền đạt qua tục ngữ về đạo lý, rút ra những kết quả nghiên cứu.
(iii) Phương pháp so sánh - đối chiếu
Đây là phương pháp quan trọng để làm nổi bật đặc điểm trong văn hóa
dân gian, quan niệm thẩm mỹ và trình độ nhận thức của người sáng tạo. Đối
tượng so sánh đối chiếu là tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung và tiếng Việt.
Nội dung so sánh đối chiếu là về hai phương diện ngơn ngữ và văn hóa.
(iv) Phương pháp ngữ nghĩa - cú pháp
Đây là một phương pháp phân tích một câu hay cụm từ trong tiếng nói
hay văn bản xét theo các nhân tố cấu thành ngữ pháp, xác định các thành
5
phần và các quan hệ cú pháp của lời nói. Trong luận án đặc biệt phổ biến khi
thảo luận về những biểu trưng và cấu trúc của câu tục ngữ.
5.2. Ngữ liệu nghiên cứu
Nguồn ngữ liệu lựa chọn khảo sát và thống kê trong luận án chủ yếu
dựa vào Đại Từ điển tục ngữ (tiếng Trung) do học giả Ôn Đoan Chính chủ
biên (2015), có hơn 34.000 đơn vị tục ngữ và Đại toàn Ngạn ngữ (tiếng
Trung) của Trần Quân Huệ chủ biên (2015), có hơn 11,500 đơn vị tục ngữ.
Kho tàng tục ngữ người Việt (Tập 1-2) Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002),
có hơn 16.000 đơn vị tục ngữ và Từ điển tục ngữ Việt của tác giả Nguyễn
Đức Dương (2010) với hơn 10.000 đơn vị tục ngữ.
Luận án chọn những câu tục ngữ về đạo lý có nội dung liên quan đến
con người với bản thân, gia đình và xã hội trong những nguồn ngữ liệu này.
6. Những đóng góp của luận án
Luận án sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về việc nghiên cứu tục ngữ và
những vấn đề hữu quan, và chọn khảo sát, thống kê các câu ví dụ cụ thể của
tục ngữ về đạo lý, để so sánh khái niệm, nội dung, cấu trúc, ngữ nghĩa và
biện pháp tu từ giữa tiếng Trung và tiếng Việt, có những đóng góp như sau:
(i) Làm rõ một số vấn đề lý luận về tục ngữ trong giới học thuật Trung
Quốc và Việt Nam, giúp người học tiếp cận với tục ngữ một cách trọn vẹn
về nội dung lẫn hình thức.
(ii) Làm phong phú thêm con đường tìm hiểu và khám phá tục ngữ,
cung cấp tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu tục ngữ về đạo lý trong
tiếng Trung có so sánh với tiếng Việt, đóng góp thiết thực cho việc học tập
và giảng dạy tục ngữ.
(iii) Nâng cao ý thức giữ gìn và quý trọng vốn tục ngữ về đạo lý, với
việc hoàn thiện nhân cách con người, với việc xây dựng gia đình hịa thuận,
hạnh phúc và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với xã hội hiện
nay.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung đề tài được chia thành 4
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận;
Chương này trình bày về những tri thức lý luận liên quan đến đề tài.
Như: định nghĩa khái niệm về tục ngữ Trung Quốc và Việt Nam, so sánh
những khái niệm liên quan với tục ngữ, như thành ngữ, ca dao, v.v..., chỉ ra
các đặc điểm của tục ngữ, và đưa ra khái niệm về tục ngữ đạo lý, để đạt được
một sự hiểu biết khách quan về tục ngữ. Đây là cơ sở lý thuyết cho luận án,
6
là xuất phát điểm để nghiên cứu những vấn đề sâu hơn ở những chương tiếp
theo.
Chương 2: Cấu trúc trong tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có
so sánh với tiếng Việt;
Chương này phân tích làm nổi rõ những đặc điểm của tính chất, đối
xứng, quan hệ từ, vần..., khảo sát cấu trúc hình thức cũng như cấu trúc ngữ
pháp của tục ngữ tiếng Trung. Trên cơ sở đó, so sánh đối chiếu với tiếng Việt
trên một số phương diện để tìm ra sự tương đồng và khác biệt.
Chương 3: Ngữ nghĩa trong tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có
so sánh với tiếng Việt;
Chương này khảo sát ngữ nghĩa của tục ngữ tiếng Trung và tiếng Việt
trên cơ sở hình biểu trưng và nghĩa biểu trưng của tục ngữ, cũng làm rõ vấn
đề nghĩa đen và nghĩa bóng trong tục ngữ.
Chương 4: Biện pháp tu từ trong tục ngữ về đạo lý trong tiếng
Trung có so sánh với tiếng Việt.
Chương này phân tích những biện pháp tu từ so sánh, khoa trương, và
nhân hóa trong tục ngữ tiếng Trung và tiếng Việt, để tìm hiểu nghệ thuật và
đặc trưng ngôn ngữ trong tục ngữ. Biện pháp tu từ thích hợp để lưu truyền
vốn kinh nghiêm quý báu và phong phú tục ngữ về đạo lý trong đời sống.
Trong nội dung của luận án, ở mỗi chương sẽ có tiểu kết để tóm tắt nội
dung, nhận xét các lý thuyết, hiện tượng nghiên cứu và kết quả so sánh.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tục ngữ là một hình thức ngơn ngữ đặc biệt đã được hình thành từ lâu,
giới học thuật Trung Quốc và Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
về tục ngữ từ các bình diện khác nhau. Nhưng cho đến nay, giới học thuật
vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về bản chất, phạm vi và phân loại tục ngữ.
Do đó, việc tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này là rất ý nghĩa cả
về mặt lý thuyết cũng như nhận diện và phân loại.
Chương này nêu một số nhận xét về khái niệm tục ngữ Trung Quốc và
Việt Nam, so sánh những khái niệm liên quan với tục ngữ, như thành ngữ, ca
dao, v.v., chỉ ra những đặc điểm của tục ngữ, và đưa ra khái niệm tục ngữ về
đạo lý, để đạt được một sự hiểu biết khách quan về tục ngữ.
1.1. Một số nhận xét về khái niệm tục ngữ trong tiếng Trung và tiếng
Việt
Tục ngữ được phản ánh những kinh nghiệm lối sống, tư tưởng truyền
thống, đạo lý làm người v.v., trong đó biểu hiện trước hết ở những quan niệm
về nhân sinh quan và thế giới quan. Việc sưu tầm biên soạn tục ngữ, và tìm
7
hiểu về tình hình nghiên cứu tục ngữ trong tiếng Trung có so sánh với tiếng
Việt là vấn đề có ý nghĩa và thú vị, đó đã thu hút được sự quan tâm của một
số nhà nghiên cứu trong giới học thuật hai nước.
Hiểu rõ khái niệm, phân tích bản chất và đặc điểm của tục ngữ là nhiệm
vụ đầu tiên của việc nghiên cứu về nó, từ đó, chỉ ra những điểm tương đồng
và khác biệt, tìm hiểu ý nghĩa văn hóa giữa những câu tục ngữ Trung Quốc
và Việt Nam, có thể giúp chúng tơi hiểu sâu hơn văn hóa xã hội của hai nước.
1.1.1. Tục ngữ trong tiếng Trung
Đại Từ điển tục ngữ do học giả Ôn Đoan Chính chủ biên (2015), lại giải
thích tục ngữ là: “Những câu nói gắn gọn súc tích, được tạo ra bởi quần
chúng và lưu truyền theo phương thức truyền miệng, có cấu trúc tương đối
định hình. Nó bao gồm các câu ngạn ngữ, yết hậu ngữ và quán dụng ngữ.”.
Các cơng trình thực hiện nghiên cứu liên quan với tục ngữ sau này của ông,
đều theo quan điểm này. Các học giả khác trong giới nghiên cứu tục ngữ ở
Trung Quốc phần lớn đều tán đồng ý kiến này.
Sự phân loại của tục ngữ trong tiếng Trung, khái niệm “ngữ” khơng
mang tính cấp độ như một cụm từ trong tiếng Việt mà“ngữ” là “đơn vị ngơn
ngữ có tính kể chuyện”, sau đó được chia thành ba loại theo nội dung và hình
thức là: ngạn ngữ, yết hậu ngữ và quán dụng ngữ.
1.1.2. Tục ngữ của tiếng Việt
Trong Từ điển tục ngữ Việt, tác giả Nguyên Đức Dương (2010), đã lần
lượt kê ra bốn kiểu câu đã gặp trong kho tục ngữ Việt theo khuôn Đề ngữ Thuyết ngữ. Bốn kiểu quan hệ cú pháp được thể hiện trong bốn kiểu câu
tiếng Việt của tục ngữ, có thể coi là những mơ hình tiêu biểu của tục ngữ
tiếng Việt.
Rõ ràng các học giả Trung Quốc và Việt Nam có sự hiểu biết và nghiên
cứu về các đặc điểm cơ bản trong hai ngơn ngữ và có thể hiểu: “Tục ngữ là
thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân
dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ
truyền”.
1.1.3. Khái niệm tục ngữ về đạo lý
Để làm rõ khái niệm của tục ngữ về đạo lý, trước hết cần tìm hiểu về
khái niệm và nội dung của đạo lý.
1.1.3.1. Một số định nghĩa về đạo lý
(i) Đạo lý trong tiếng Trung
Đạo lý (chữ Hán là “道理”), sự giải thích trong Từ điển tiếng Hán hiện
đại (2000) là: “Những quy luật của phát triển sự vật, căn cứ đúng sai của sự
8
vật, những cách thức làm việc.”. Trong Từ điển Tân Hoa (2020) là: “Lý do,
tình lý.”. Trong Đại từ điển Phật học (2015) có giải thích là: “Chân lý thơng
suốt trong sự vật.”.
Đạo lý trong tiếng Trung là những quan điểm, nhận xét căn cứ và liên
kết vào sự thật, có thể hướng dẫn giải quyết những vấn đề cần thiết trong
những trường hợp nhất định.
(ii) Đạo lý trong tiếng Việt
Sự giải thích “đạo lý” trong Từ điển tiếng Việt (2005) là: “Cái lẽ hợp
với đạo đức, đạo lý làm người.”. Trong cuốn Đạo làm người trong tục ngữ
ca dao Việt Nam. Tác giả Nguyễn Nghĩa Dân (2000) đã định nghĩa về đạo lý
là: “Đó là con đường, là quy luật, là nguyên tắc mà con người có bổn phận
phải giữ gìn và tn theo trong quan hệ với chính mình, xã hội và tự nhiên.”.
Theo tác giả Nguyễn Nghĩa Dân (2000), tục ngữ về đạo lý có ý nghĩa với tu
dưỡng, rèn luyện và phát triển nhân cách mình, có thể giúp cho mọi người
học tập để nâng cao nhận xét về mối quan hệ con người với bản thân, gia
đình và xã hội. Trong bài viết Chữ Đạo trong tục ngữ, ca dao - dân ca Việt
Nam, tác giả Nguyễn Thị Kim Phượng (2017) đã cho rằng: “Chữ Đạo trong
tục ngữ, ca dao - dân ca tập trung hướng đến ý nghĩa nhân sinh. Đạo lý được
xác định được các đức tính ‘ngũ thường’ trong từng mối quan hệ ‘ngũ luân’,
do đó đạo lý có nghĩa là đạo làm người”, tác giả cũng cho rằng: “Đạo lý giữ
vị trí ổn định, bền vững trong tâm thức người Việt và trở thành sợi dây ràng
buộc con người vào những bổn phận đã được cả xã hội đề ra như bổn phận
làm tôi, làm cha mẹ, làm con, làm chồng...”.
(iii) Những tương đồng và dị biệt của đạo lý trong tiếng Trung và
tiếng Việt
Đạo lý trong tiếng Trung và tiếng Việt có nghĩa về quy luật, về lẽ với
đạo đức. Đạo lý trong tiếng Trung là một phương pháp và chân lý làm việc
trong thế giới khách quan, nhưng đạo lý trong tiếng Việt liên quan chặt chẽ
với con người, con người là cốt lõi trong đạo lý, đây là một dị biệt nhận xét
khá lớn về đạo lý.
Sau khi tổng hợp lại hai nhận xét về đạo lý trong tiếng Trung và tiếng
Việt, luận án nghiên cứu tục ngữ về đạo lý lấy con người làm gốc, theo hình
thức trong sự xử thế đối với con người, được đúc kết từ hàng ngàn năm bởi
cộng đồng dân tộc và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.3.2. Nội dung của đạo lý trong tục ngữ
Con người là vấn đề cốt lõi và vấn đề cơ bản trong đạo lý, xuyên suốt
lịch sử tư tưởng nhân loại. Tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có so sánh
với tiếng Việt vừa mang tính triết lý vừa mang tính thẩm mỹ, là sự định
9
hướng và lựa chọn giá trị mà con người cần giữ gìn, tuân theo và thực hành
trong suốt cuộc đời, phản ánh giá trị sống của dân tộc Trung Quốc và Việt
Nam. Từ đó, luận án lược khảo quan niệm đạo lý được thể hiện trong tục ngữ
để khái quát và đưa ra định nghĩa tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có so
sánh với tiếng Việt.
Bảng (1) sau là những hệ thống đạo lý trong tục ngữ được luận án nhận
diện phân loại theo quan hệ con người với bản thân, gia đình và xã hội.
Nội dung đạo lý trong tục ngữ được luận án nhận diện phân loại
Quan hệ với con người
Tục ngữ
Khiêm tốn
Một lần khiêm tốn bằng bốn lần tự cao.
Trung
thực
Bản thân
Ở cho ngay thẳng giàu sau mới bền.
Tự cường
Nam nhi đương tự cường.
Cha mẹ
Nuôi con mới biết lịng cha mẹ.
Vợ
chồng
Gia đình
Vợ là ơng thì chồng là tớ.
Anh chị em
Anh em như thể chân tay.
Yêu nước
Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh.
Xã hội
Trong hệ thống đạo lý làm người thì việc ứng xử với chính mình là khó
nhất. Hiểu mình, bộc lộ mình như thế nào, đó là việc làm khơng dễ dàng chút
nào. Luận án sẽ so sánh ba đức tính cần yếu sau đây để minh định nội hàm
và ngoài diên của chúng.
1.2. Phân biệt thành ngữ, ca da với tục ngữ
Trong một số đơn vị liên quan với tục ngữ, các đơn vị thành ngữ và ca
dao là những hình thức ngơn ngữ mang tính đặc sắc trong từ vựng tiếng
Trung và tiếng Việt. Họ được liên hệ chặt chẽ với tục ngữ, và thường bị nhầm
lẫn bởi vì họ có ý nghĩa ngơn ngữ và văn hóa tương tự. Phân biệt chính xác
các khái niệm và đặc điểm của tục ngữ, thành ngữ và ca dao là việc cơ sở để
thực hiện nghiên cứu về tục ngữ.
1.2.1. Tục ngữ và thành ngữ
Thành ngữ là những cụm từ mang ngữ nghĩa cố định được hình thành
trong q trình sử dụng ngơn ngữ. Thành ngữ thường được sử dụng trong
việc tạo thành những câu nói hồn chỉnh. Thành ngữ là tập hợp từ cố định đã
quen dùng mà nghĩa của nó thường khơng thể giải thích được một cách đơn
giản bằng nghĩa của các từ tạo nên. Thành ngữ có hai đặc trưng khác với tục
ngữ, thứ nhất là phần lớn không tạo thành câu hồn chỉnh về mặt ngữ pháp,
thứ hai là khơng thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ.
Theo những quan điểm như trên, và qua tìm hiểu về hình thức nội dung
10
thành ngữ, có ba loại thành ngữ như: thành ngữ tiếng Trung, thành ngữ thuần
Việt, thành ngữ Hán - Việt.
1.2.2. Tục ngữ và ca dao
Ca dao là một thể loại của văn học dân gian, là những sáng tác trữ tình
biểu hiện tình cảm, nỗi niềm của con người trong cuộc sống như tình bạn,
tình yêu, tình cảm gia đình, quê hương, đất nước, những tâm tư ấy xuất phát
từ trái tim của con người. Đối tượng mà ca dao hướng đến có thể là người
bạn, người yêu, người thân v.v...
+ Hình thức: tục ngữ là câu nói, ca dao là lời thơ của những bài dân ca.
+ Nội dung: tục ngữ thiên về trí tuệ, ca dao thiên về tình cảm; Tục ngữ
diễn đạt kinh nghiệm của cuộc sống và lời khuyên, ca dao biểu hiện thế giới
nội tâm của con người.
Theo nhận định chủ quan, có thể nhận ra sự phân biệt tục ngữ và ca dao
có phần rõ ràng hơn sự phân biệt giữa tục ngữ và thành ngữ. Có thể thấy nếu
như ca dao là thơ ca dân gian mang đậm sắc thái tình cảm thì tục ngữ là
những câu nói ngắn gọn, có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm theo đạo
lý của dân tộc, mang tính triết lý. Trong sinh hoạt, tục ngữ thường dùng với
hình thức nói, cịn ca dao thường dùng khi hát và ngâm.
1.3. Tiểu kết
Trong Chương 1 này, luận án đã nêu lên một cái nhìn tổng quan về tục
ngữ, và cố gắng trình bày những điểm giống và khác nhau giữ các đơn vị liên
quan với tục ngữ như phân biệt giữa tục ngữ và thành ngữ, tục ngữ và ca dao,
nhận xét nội dung của tục ngữ về đạo lý. Ngồi ra, chúng tơi cịn dựa trên
những câu minh họa để tìm hiểu vấn đề này rõ ràng hơn. Bên cạnh đó,
chương này là một nền tảng khoa học cho các chương tiếp theo. Diễn đạt
khác, chương này là nền tảng trình bày hệ thống khái niệm để những câu
miêu tả ở các chương tiếp theo.
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC TRONG TỤC NGỮ ĐẠO LÝ
TRONG TIẾNG TRUNG - CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT
Câu là một đơn vị ngữ pháp của ngôn ngữ do một hay nhiều từ tạo thành,
câu được diễn đạt một ý nghĩa hoàn chỉnh, có quy luật ngữ pháp nhất định.
Tục ngữ là những câu độc lập có tính chất ngắn gọn và dạng thức đối xứng,
có vần điệu cân đối. Cấu trúc là tổ chức bên trong của một chủ thể, bao gồm
tất cả các mối quan hệ về hình biểu trưng và nghĩa biểu trưng. Chính các mối
quan hệ này làm nên giá trị của câu tục ngữ và giá trị của từng yếu tố cấu
thành tục ngữ.
Nội dung chương 2 này, sẽ được nghiên cứu như các tính chất cấu trúc,
11
việc sử dụng quan hệ từ, sự xắp đặt của vần điệu trong câu tục ngữ về đạo lý
trong tiếng Trung có so sánh với tiếng Việt.
2.1. Tính ngắn gọn và chặt chẽ của cấu trúc tục ngữ
Phần lớn câu tục ngữ đạo lý đều là một câu hoàn chỉnh và một ý trọn
vẹn về mặt ngữ pháp. Xét về tính chất cấu trúc của câu tục ngữ đạo lý mang
nhiều đặc điểm riêng, trong đó gồm hai đặc điểm nổi bật như sau:
2.1.1. Tính chất ngắn gọn
Những câu tục ngữ về đạo lý thường được lưu giữ bằng con đường
truyền miệng. Cho nên, tục ngữ càng ngắn gọn càng tiện lợi cho trí nhớ. Có
nhiều ý mà được nói bằng ít lời, tiết kiệm ngơn ngữ và ngữ nghĩa hàm súc,
đó là tính chất ngắn gọn, một đặc điểm nổi bật về sư tạo thành của những câu
tục ngữ. Những câu tục ngữ thường được diễn đạt ngắn gọn, nội dung càng
ngắn càng hay. Câu ngắn nhất chỉ có 3 tiếng (tục ngữ trong tiếng Trung 3
tiếng thường được thuộc loại hình Qn dụng ngữ), thơng thường là những
câu có từ 5 đến 14 tiếng, những câu dài là khoảng 15-20 tiếng nhưng số lượng
này khơng nhiều.
2.1.2. Tính chất chặt chẽ
Câu tục ngữ ngắn gọn và chặt chẽ, mỗi từ mỗi tiếng đều cần thiết và
đứng ở vị trí tối ưu, tuy có một số thay đổi hoặc chuyển dịch nhỏ cũng không
ảnh hưởng tới ngữ nghĩa của câu tục ngữ.
Câu tục ngữ càng ngắn gọn với số tiếng ít, thì nội dung càng hàm súc.
Trong thực tế sử dụng, người ta có thể tỉnh lược một từ hoặc cụm từ vì lý do
dễ truyền đạt dễ nhớ và nhịp điệu hài hịa. Để làm cho tục ngữ cơ đọng và
hàm súc, các quan hệ từ và từ liên kết như mà, thì, nhưng, bởi, là, cho nên,
tuy thế, vả chăng v.v. trong tục ngữ thường bị tỉnh lược. Còn những thành
phần cơ bản trong câu tục ngữ như chủ ngữ, vị ngữ, quan hệ từ v.v... cũng dễ
bị tỉnh lược. Nói rõ hơn, chính hiện tượng tỉnh lược đã làm cho cấu trúc tục
ngữ chặt chẽ. hình biểu trưng thì ngắn gọn mà nghĩa biểu trưng thì hàm súc.
2.2. Tính đối xứng của cấu trúc tục ngữ
Ngồi tính chất ngắn gọn chặt chẽ, tục ngữ cịn có tính chất đối xứng.
Câu đối xứng được xem là câu có sự tương ứng đều đặn của các thành phần
trong câu. Cấu trúc đối xứng chính là hình thức cấu trúc đặc trưng của câu
tục ngữ về đạo lý. Cấu trúc đối xứng trong tực ngữ thường có những đặc
điểm sau:
(i) Cấu tạo thành các vế đối ứng với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ và
lơgích với nhau.
(ii) Giữa các vế có sự cân bằng về số lượng từ và sự đối ứng liên quan
đến từ loại, nghĩa của từ, v.v. của các từ đồng vị.
12
Dựa trên những tiêu chí cú pháp và lơgích, câu tục ngữ đối xứng được
chia thành hai loại, bao gồm cấu trúc đối xứng đơn và cấu trúc đối xứng kép.
2.2.1. Cấu trúc đối xứng đơn
Cấu trúc đối xứng đơn là một kết cấu có quan hệ đối xứng với nhau, kết
cấu này có hai đặc điểm như sau:
+ Về mặt lơgích: mỗi câu tục ngữ có nội dung đẳng lập với nhau.
+ Về mặt cú pháp: mỗi câu tục ngữ là một câu đơn, mỗi thành phần câu
tương đương với một vế.
2.2.2. Cấu trúc đối xứng kép
Cấu trúc đối xứng kép là một kết cấu phức có quan hệ đối xứng với
nhau, loại kết cấu này có hai đặc điểm như sau:
+ Về mặt lơgích: có hai hoặc hơn hai vế liên kết trong câu.
+ Về mặt cú pháp: mỗi vế là một câu đơn, câu đơn tạo nên câu phức.
Cấu trúc đối xứng kép thường có hai hình thức là đối ý và đối lời.
+ Đối ý: là đối xứng giữa hai vế của câu tục ngữ với nhau về ý.
+ Đối lời: là đối xứng giữa hai vế của câu tục ngữ với nhau về lời.
2.3. Những quan hệ từ trong cấu trúc tục ngữ
Quan hệ từ là từ nối giữa hai hoặc hơn hai từ, vế, câu, đoạn văn v.v., có
quan hệ chặt chẽ với nhau về ý. Quan hệ từ diễn đạt tính lơgích của cấu trúc
trong câu, thể hiện tính tư duy về lối sống của con người.
2.3.1. Một số quan hệ từ thường dùng trong câu tục ngữ
Tục ngữ mang xu hướng lơgích bao giờ cũng đúc kết, khái quát những
kinh nghiệm, nhận xét cụ thể thành những đạo lý cuộc sống xưa nay. Một số
quan hệ thường được dụng trong câu tục ngữ tiếng Trung và tiếng Việt có
như: nhân quả, tương phản, lựa chọn, đẳng lập, tăng tiến, điều kiện, giả thiết,
trật tự...
2.3.2. Một số quan hệ từ trong tục ngữ về đạo lý tiếng Trung và
tiếng Việt
Hiện tượng tỉnh lược ngữ pháp là hiện tượng thường gặp trong tục ngữ,
đó đã giúp cho ngôn ngữ giàu màu sắc biểu cảm, tạo nên tính cơ đọng, hàm
súc cho tục ngữ, và tạo thuận tiện cho giao tiếp hàng ngày. Hiện tượng tỉnh
lược của tục ngữ thuộc phạm trù tỉnh lược tri nhận văn hóa, tỉnh lược đại từ
nhân xưng, tuy có ý nghĩa trong câu, nhưng khơng có hình thức trong cấu
trúc.
2.4. Vần trong cấu trúc tục ngữ
Vần là yếu tố vơ cùng quan trọng đối với tục ngữ bởi vì nó giúp giữ
nhịp, tạo ra sự hài âm hịa thanh cho câu tục ngữ. Bên cạnh đó, nó cịn giúp
nâng nổi các từ có ý nghĩa quan trọng trong câu tục ngữ. Yếu tố vần cũng rất
13
phong phú và linh hoạt trong câu tục ngữ, nó liên kết với nhau một cách tự
nhiên mà tài tình và không tùy tiện.
2.4.1. Quan niệm về vần điệu trong tục ngữ
Vần trong tục ngữ có chức năng tổ chức và kết nối các từ, vế, câu v.v.,
để tạo ra một phát ngơn súc tích, chặt chẽ. Bên cạnh đó, vần trong tục ngữ
có âm hưởng mượt mà, nhịp điệu hài hòa, làm cho người tiếp nhận tục ngữ
dễ thuộc, dễ nhớ, dễ truyền miệng. Trong tục ngữ thường có hai loại vần là
vần sát và vần cách.
Trong đó, nhịp và bằng trắc là hai yếu tố quan trọng mà có thể tạo ra
nét luyến láy của lời nói, làm cho người nghe dễ chịu, dễ truyền đạt và dễ
nhớ.
2.4.2. Vần trong tục ngữ đạo lý tiếng Trung và tiếng Việt
Vẻ đẹp của cấu trúc đối xứng không chỉ là số từ và ngữ nghĩa đối bằng
với nhau, mà còn nhịp điệu phải có luật và trật tự (luật nhịp, trật tự nhịp).
Hai ngôn ngữ tiếng Trung và tiếng Việt có một đặc điểm nổi bật là “một từ
một âm, một từ một nghĩa”, cho nên hai tục ngữ cực kỳ tuân theo cách luật
này, đặc biệt đối với các cặp câu hoặc cấu trúc đối xứng, nhịp điệu của các
mệnh đề trước và sau hầu hết được bằng nhau.
Nhịp và vần ln gắn bó với nhau để tạo nên tính nhạc, sự hài hịa, sinh
động, cân đối cho câu tục ngữ. Nhịp và vần còn làm cho tục ngữ dễ ăn sâu
vào trí nhớ con người. Trong tục ngữ, vần và nhịp tự nhiên đồng thời là vần
và nhịp logic giữa các vế. Nhịp và vần cũng góp phần làm cho tục ngữ mặc
dù là câu nói dùng hằng ngày nhưng vẫn mang đầy đủ những đặc điểm của
sáng tạo nghệ thuật ngôn từ.
2.5. Tiểu kết
Tục ngữ là câu độc lập tồn tại dưới dạng thức câu đơn và câu kép, thơng
qua tổng hợp, khảo sát và phân tích cấu trúc tục ngữ về đạo lý tiếng Trung
có so sánh với tiếng Việt, có thể nhận thấy một số tương đồng và dị biệt về
cấu trúc của tục ngữ trong hai ngơn ngữ.
(i) Những điểm tương đồng
(1) Tính chất ngắn gọn và chặt chẽ là xu hướng chung trong cấu trúc
của hai tục ngữ.
(2) Các quan hệ từ trong những câu tục ngữ thường bị tỉnh lược, được
thiết lập trong loại câu ghép chính-phụ và thường là mệnh đề phụ đứng trước,
mệnh đề chính đứng sau.
(3) Cấu trúc đối xứng của tục ngữ bao gồm đối xứng đơn và đối xứng
kép. Câu đơn theo hình thức một vế và thực hiện chức năng phán đốn. Câu
đối thường có đối ý, đối lời và đối từ loại. Những quan hệ từ thể hiện mối
14
quan hệ giữa những từ hoặc câu trong cấu trúc tục ngữ, các quan hệ từ trong
những câu tục ngữ thường bị tỉnh lược.
(4) Vần trong tục ngữ quan trọng và đa dạng, có vần sát và vần cách
giúp giữ nhịp và theo quy luật bằng trắc tạo ra sự hài âm hòa thanh cho câu
tục ngữ. Vần được coi là cấu trúc ngoại hình độc đáo, đặc thù của tục ngữ
tiếng Trung và tiếng Việt.
(ii) Những điểm dị biệt
(1) Thành phần định ngữ luôn đứng trước bổ ngữ trong cấu trúc tiếng
Trung, thành phần định ngữ đứng sau bổ ngữ trong cấu trúc tiếng Việt, đây
là một dị biệt ngữ pháp của hai ngôn ngữ.
(2) Thanh điệu và độ cao âm tiết tạo ra hệ thống bằng trắc khác nhau.
(3) Vần trong tục ngữ tiếng Trung, chủ yếu xuất hiện ở hai âm tiết cuối
mỗi vế, vần trong tục ngữ tiếng Việt có thể xuất hiện ở rất nhiều vị trí, đặc
biệt là nhiều khi ngay trong câu có cấu trúc sóng đơi cũng đồng thời có vần.
CHƯƠNG 3: NGỮ NGHĨA TRONG TỤC NGỮ ĐẠO LÝ
TRONG TIẾNG TRUNG - CĨ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT
Ngữ nghĩa mang tính đặc biệt của ngôn ngữ, tùy theo ngữ cảnh sử dụng,
mỗi câu tục ngữ có thể chứa đựng một hoặc nhiều nội dung ngữ nghĩa tùy
theo ngữ cảnh sử dụng trong câu. Ngữ nghĩa tục ngữ được hình thành theo
quy luật biện chứng của những tư duy con người như: tư duy hình tượng, duy
khái quát và tư duy so sánh.
Kết quả hình tượng là do quan sát trực tiếp và miêu tả cụ thể làm cho
tục ngữ có tính gợi cảm, dễ nhớ, sau đó sẽ có những nhận xét, phán đoán và
kết luận về tục ngữ vào một cảnh huống chung nhất, để tạo ra hình biểu trưng
hoặc nghĩa đen cho câu tục ngữ. Nghĩa của tục ngữ thể hiện tư duy khái quát.
Nó chú ý nêu lên những sự vật hiện tượng chung nhất, thể hiện kinh nghiệm
của một cộng đồng diễn ngôn. Sau cùng, dựa vào tương đồng và tương cận,
nghĩa của tục ngữ còn là sản phẩm của một sự so sánh dù trực tiếp hay gián
tiếp.
3.1. Biểu trưng trong tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung và tiếng
Việt
Biểu trưng trong ngữ nghĩa của tục ngữ được hiểu là toàn bộ những ý
niệm khái quát từ hình ảnh hoặc sự vật sự việc cụ thể được miêu tả, đề cập,
gọi tên trong tục ngữ.
Cũng giống như một ký hiệu, biểu trưng cũng có hai mặt:
+ Cái biểu trưng: thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh, hình khối, màu sắc,
nhịp điệu
15
+ Cái được biểu trưng: gợi lên một điều gì đó, một ý niệm nào đó thơng
qua sự liên tưởng
Biểu trưng trong ngữ nghĩa của tục ngữ được hiểu là tồn bộ những ý
niệm khái qt từ hình ảnh hoặc sự vật sự việc cụ thể được miêu tả, đề cập,
gọi tên trong tục ngữ.
3.1.1. Định nghĩa biểu trưng
Theo những khái niệm của các cơng trình nghiên cứu trên đây, biểu
trưng mang tính quy ước và tính trừu tượng, hàm chỉ một đặc trưng và một
phẩm chất của ngữ nghĩa, nêu ra một đối tượng hoặc sự vật khác, để biểu
hiện có tính chất tượng trưng, và phản ánh bản ngữ được diễn đạt. Đây là
một hiện tượng phổ biến và quen thuộc được cố định hóa trong ngơn ngữ.
Có thể nói, biểu trưng chính là biểu tượng trong ngơn ngữ, được bao
gồm các biến thể biểu tượng văn hóa trong phạm vi ngôn ngữ văn học. Trong
định nghĩa đạo lý của tục ngữ trong tiếng Trung có nhiều biểu trưng chứa
đậm ngữ nghĩa về mối quan hệ con người với bản thân, gia đình và xã hội.
3.1.1.1. Hình biểu trưng
Hình biểu trưng là những chất liệu cụ thể trong tục ngữ, thông qua một
sự vật hoặc cảm xúc cụ thể để diễn đạt một ý nghĩa nào đó, nó làm cho tục
ngữ trở nên thú vị, tinh tế và sống động.
Hình biểu trưng của những câu tục ngữ về đạo lý có mối quan hệ con
người với bản thân, gia đình và xã hội đã làm nổi bật bản chất văn hóa của
tiếng Trung. Việc sử dụng hình ảnh của sự vật, màu sắc và cảm xúc để ám
chỉ các hiện tượng xã hội và thể hiện ý nghĩa hợp lý, đây cũng là một phần
rất đặc biệt trong những câu tục ngữ trong tiếng Trung có so sánh với tiếng
Việt.
3.1.1.2. Nghĩa biểu trưng
Nghĩa biểu trưng của những câu tục ngữ bắt nguồn từ tiếng mẹ đẻ của
chúng. Tiếng mẹ đẻ này là truyền thống văn hóa, kinh nghiệm cuộc sống của
mỗi dân tộc, đó chính là mảnh đất ni dưỡng tục ngữ. Nó đã đóng vai trị
quyết định trong việc hình thành những câu tục ngữ.
Hầu hết các thành phần chứa đựng nghĩa biểu trưng trong những câu
tục ngữ trong tiếng Trung được bắt nguồn trực tiếp từ các sự kiện lễ hội văn
hóa dân gian hoặc hiện tượng dân gian. Để hiểu ý nghĩa sâu sắc được ngụ ý
bởi những câu, cần phải hiểu trằng nền tảng lịch sử và văn hóa đằng sau
những từ.
3.1.2. Những biểu trưng trong tục ngữ về đạo lý tiếng Trung và
tiếng Việt.
Thơng qua thuộc tính của một sự vật nào đó để biểu thị một ý nghĩa trừu
16
tượng, hình ảnh biểu trưng trong tục ngữ làm cho nghĩa biểu trưng ngày càng
sống động, tăng thêm cảm hứng trong ngơn ngữ của xã hội.
Phần ví dụ minh họa sau, sẽ thông qua những biểu trưng nổi bật như:
con vật, cây cối và màu sắc trong tục ngữ để so sánh những hình biểu trưng
và nghĩa biểu trưng của tục ngữ về đạo lý trong tiếng Trung có so sánh với
tiếng Việt.
+ Tục ngữ về đạo lý tiếng Trung và tiếng Việt có biểu trưng về con vật;
+ Tục ngữ về đạo lý tiếng Trung và tiếng Việt có biểu trưng về cây cối;
+ Tục ngữ về đạo lý tiếng Trung và tiếng Việt có biểu trưng về màu sắc.
3.1.3. So sánh hình biểu trưng và nghĩa biểu trưng trong tục ngữ về
đạo lý tiếng Trung và tiếng Việt
Theo những lý thuyết của các nhà nghiên cứu, ngữ nghĩa của tục ngữ
thể hiện qua hình biểu trưng và nghĩa biểu trưng. Nội dung tục ngữ trong
tiếng Việt có cả ngữ nghĩa và hình thức hồn tồn giống với tục ngữ trong
tiếng Trung, về lý do tục ngữ gốc Hán hoặc phiên âm Hán. Nội dung tục ngữ
có hình thức khác nhau nhưng ngữ nghĩa giống nhau, về lý do được cải thiện
nội dung cho phù hợp nhận thức, thói quen, logich, mội trường của người
Việt trong khi quá trình sử dụng và phát triển ngôn ngữ.
Luận án này sẽ chọn hình biểu trưng và nghĩa biểu trưng làm tiêu chí,
để so sánh ngữ nghĩa của tục ngữ trong tiếng Trung và tục ngữ trong tiếng
Việt, cụ thể là việc hai khía cạnh này trong tục ngữ về đạo lý được sử dụng
như thế nào, và đâu là nét đặc sắc về hai tục ngữ trong tiếng Trung có so sánh
với tiếng Việt.
3.1.3.1. Hình biểu trưng giống nhau và nghĩa biểu trưng giống nhau
Về mặt hình biểu trưng và nghĩa biểu trưng giống nhau chủ yếu theo
nguyên dạng tục ngữ Hán-Việt, tục ngữ thuần Việt (có vay mượn tực ngữ
Hán-Việt), hai hình thức này có hình và nghĩa của tục ngữ giống nhau về cấu
trúc lẫn nội dung.
(i) Nguyên dạng tục ngữ Hán-Việt
Nguyên dạng tục ngữ Hán-Việt là từ vựng sử dụng tiếng Việt có nguồn
từ tiếng Trung nhưng đọc theo cách phát âm Việt. Với vị thế hoàn cảnh lịch
sử, trong tiếng Việt có một lớp tục ngữ gốc Hán rất phong phú về số lượng,
có giá trị về nhiều mặt thường được gọi dưới cái tên chung là tục ngữ HánViệt. Đó đem lại những ý nghĩa góp phần tích cực vào kho tàng ngơn ngữ
dân tộc.
(ii) Tục ngữ thuần Việt
Để sử dụng phụ hợp với các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, những câu
này dùng từ ngữ Hán-Việt đã có thay đổi từ ngữ hoặc vị trí từ ngữ, được sử
17
dụng theo thói quen ngơn ngữ của người Việt, trở thành tục ngữ thuần Việt,
nhưng nghĩa biểu trưng giống nhau hình biểu trưng vẫn cịn giống nhau.
Thơng qua các câu ví dụ minh họa, dựa vào ngữ cảnh có thể khái quát
yếu tố Hán-Việt so với yếu tố thuần Việt có một số đặc điểm như sau:
(i) Yếu tố Hán-Việt mang nghĩa biểu trưng, có tính chất tĩnh tại, tính
chất nghi thức, tính chất cổ kính và khơng thơng dụng.
(ii) Yếu tố thuần Việt mang nghĩa cụ thể, có tính chất thực tế, tính chất
sinh động, tính chất hiện đại và thơng dụng.
3.1.3.2. Hình biểu trưng khách nhau và nghĩa biểu trưng giống
nhau
Khả năng và giá trị biểu trưng của các hình biểu trưng và nghĩa biểu
trưng rất lớn. Một hình biểu trưng trong tục ngữ có thể được dùng để biểu
trưng nhiều thuộc tính khác nhau. Ngược lại, một nghĩa biểu trưng thuộc tính
lại có thể biểu trưng bằng nhiều hình biểu trưng khác nhau. Điều đó cho thấy
khả năng biểu trưng trong tục ngữ rất phong phú và đa dạng. Mặt khác, qua
cách dùng biểu trưng trong tục ngữ, cũng được thấy khả năng liên tưởng
phong phú đa chiều cũng như đặc điểm về tư duy, bản sắc văn hoá trong tiếng
Trung và tiếng Việt.
3.2. Nghĩa đen và nghĩa bóng trong tục ngữ về đạo lý
Bàn về ngữ nghĩa của tục ngữ, từ việc nhìn nhận với những bình diện
ngơn ngữ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận định và tiêu
chí phân loại về ngữ nghĩa tục ngữ theo quan điểm riêng của mình, đa số
quan điểm của họ đều thống nhất về tính hai tầng nghĩa của tục ngữ. Tóm lại,
theo các nhà nghiên cứu, ngữ nghĩa của những câu tục ngữ thường mang hai
tầng nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng, đây là quan niệm có từ rất lâu. Trong
đó, cịn có học giả chỉ ra có nghĩa khái quát trong tục ngữ.
3.2.1. Khái niệm về nghĩa đen và nghĩa bóng
(i) Nghĩa đen
Nghĩa đen đề cập đến nghĩa gốc của từ, là ngữ nghĩa gốc trong từ ngữ.
Ngữ nghĩa ban đầu của một số từ khơng được sử dụng phổ biến, thậm chí
một số đã bị biến mất. Nghĩa đen đề cập đến ý nghĩa chính được sử dụng phổ
biến nhất trong các từ đa nghĩa trong tiếng Trung hiện đại.
(ii) Nghĩa bóng
Nghĩa bóng là nghĩa có sau, nghĩa ẩn dụ, nghĩa chuyển đổi của từ, là
nghĩa được phát triển và mở rộng từ nghĩa đen. Đa số tục ngữ có nghĩa bóng,
nghĩa bóng hình thành theo biểu trưng và tạo ra nghĩa của tục ngữ. Nó đề cập
đến một cách phổ biến về sự biến đổi phát triển từ một nghĩa duy nhất thành
một đa nghĩa thông qua phương tiện liên tưởng.
18
(iii) Quan hệ nghĩa đen và nghĩa bóng
Từ những nghiên cứu về nghĩa đen và nghĩa bóng như trên, có thể tóm
lại những quan hệ giữa nghĩa đen và nghĩa bóng như sau:
(1) Nghĩa đen được xác định dựa trên nghĩa câu chữ đơn thuần của từ
ngữ.
Nếu khi đọc một câu tục ngữ nào đó, hiểu được lớp nghĩa nổi trên bề
mặt câu chữ, thế là nghĩa gốc và nghĩa diễn đạt của câu, là nghĩa đen.
(2) Nghĩa bóng được xác định sau khi suy luận và đặt nghĩa đen vào
ngữ cảnh nhất định.
Nếu khi đọc một câu tục ngữ nào đó, chưa hiểu được lớp nghĩa nổi trên
bề mặt câu chữ, có nghĩa biểu trưng và nghĩa khái quát, phải suy luận và đặt
vào một bối cảnh ngôn ngữ nào đó, là nghĩa bóng. “Nghĩa bóng được hình
thành theo phương pháp biểu trưng và làm nên nghĩa biểu trưng của tục
ngữ.”.
(iv) Những đặc điểm ngữ nghĩa của tục ngữ về đạo lý
(1) Nghĩa đen có tính liên tưởng
Nghĩa đen là nghĩa của từ ngữ theo cách hiểu bình thường nhất trên mặt
chữ nghĩa, mọi người có thể liên tưởng ngay lập tức ngữ nghĩa mà không cần
phụ thuộc vào ngữ cảnh cụ thể.
(2) Nghĩa bóng có tính ngữ cảnh
Nghĩa bóng là nghĩa xa, nghĩa chuyển, nghĩa trừu tượng v.v... trong tục
ngữ, thường phải dựa vào ngữ cảnh, và được sử dụng theo một ngữ cảnh nhất
định. Ngược lại, nếu một từ có ngữ nghĩa chỉ xuất hiện trong một tình huống
ngơn ngữ hoặc cách thức ngơn ngữ nhất định, thì đó khơng phải là một nghĩa
đen mà chỉ là một nghĩa phụ.
3.3. Tiểu kết
Chương 3 đã tập trung nghiên cứu, phân tích về ngữ nghĩa trong tục ngữ
về đạo lý thông qua các đặc trưng riêng về mặt ngữ nghĩa của tục ngữ như:
hình biểu trưng, nghĩa biểu trưng, nghĩa đen và nghĩa bóng. Từ các góc độ
và phương diện khác nhau về mặt ngữ nghĩa có thể nhận thấy, tục ngữ không
những được xem là một hiện tượng văn hố rất đa diện, mà cịn là một hiện
tượng ngôn ngữ, hiện tượng tư duy và hiện tượng văn học dân gian.
Rõ ràng, tục ngữ là một cấu trúc phức tạp, cũng giống như tục ngữ tiếng
Việt, tục ngữ tiếng Trung có những đặc điểm về hình và nghĩa biểu trưng
khá giống nhau. Sự khác nhau tập trung ở hình biểu trưng liên quan đến mơi
trường nhận thức. Cịn ở nghĩa, nhất là nghĩa khái quát về đạo lý thì cả hai
ngơn ngữ thường tn thủ theo những phương thức ứng xử của người phương
Đông.
19
CHƯƠNG 4: BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG TỤC NGỮ
TRONG TIẾNG TRUNG - CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT
Biện pháp tu từ là cách sử dụng đặc biệt ở một đơn vị ngôn ngữ (về từ,
câu, văn bản) trong một ngữ cảnh nhất định nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm
trong diễn đạt và tạo ấn tượng với người đọc về một hình ảnh, một cảm xúc,
một câu chuyện trong tác phẩm.
Theo thống kê của luận án, trong kho ngữ liệu khảo sát có 65% tục ngữ
về đạo lý trong tiếng Trung đã sử dụng biện pháp tu từ, có 62% tục ngữ về
đạo lý trong tiếng Việt đã sử dụng biện pháp tu từ, trong đó được sử dụng
phổ biến nhất là ẩn dụ, so sánh, khoa trương và nhân hóa.
4.1. Biện pháp so sánh
Biện pháp so sánh được sử dụng khi muốn miêu tả hay đối chiếu sự vật,
sự việc này có nét tương đồng với sự vật hay sự việc khác nhằm tăng sức gợi
hình và gợi cảm khi diễn đạt.
Về phương diện cấu trúc, so sánh thường được thể hiện bằng hai vế. Vế
trước là hiện tượng cần được biểu đạt một cách hình tượng, là cái được biểu
đạt. Vế sau là hiện tượng được dùng để so sánh, là cái biểu đạt. Về phương
diện từ ngữ, những từ sánh được nối kết giữa hai vế là: 如(như), 是 (là), 比
(bằng), 更(hơn)…Các kiểu so sánh trong tục ngữ đạo lý tiếng Trung và tiếng
Việt thường hay gặp là: so sánh theo mức độ và so sánh theo đối tượng.
4.1.1. So sánh theo mức độ
Trong biện pháp so sánh theo mức độ, thường có hai loại cấu trúc:
+ So sánh ngang bằng (cấu trúc: A = B): A là B, A như B, A bằng B;
+ So sánh không ngang bằng (cấu trúc A ≠ B): A hơn (>) B, A không
bằng (<) B, A kém (<) B.
4.1.2. So sánh theo đối tượng
Các kiểu biên pháp so sánh trong tục ngữ đạo lý tiếng Trung và tiếng
Việt thường hay gặp là so sánh theo đối tượng. Đối tương đây có đối tượng
cùng loại và đối tượng khác loại.
+ Minh dụ các đối tượng cùng loại: (người với người, vật với vật / việc
với việc);
+ Minh dụ các đối tượng khác loại: (người với vật, cái cụ thể với cái
trừu tượng).
4.1.2.1. So sánh theo đối tượng cùng loại
Đối tượng cùng loại trong biên pháp tu từ so sánh là hai vế có từ loại
như nhau, thơng qua từ ngữ so sánh để liên kết hai sự vật cùng loại như người
20
với người, vật với vật, việc với việc...
Biên pháp tu từ so sánh về đối tượng cùng loại với từ loại của người là
danh từ, vật là danh từ, việc có thể là danh từ, động từ và tính từ. Đối tượng
so sánh trong các câu tục ngữ thường có tính chất tương đồng, mà có bản
chất khác biệt. Qua so sánh đối tượng cùng loại, để nêu rõ ngữ nghĩa biểu thị,
nâng lên sức sống diễn đạt, tăng cường nghệ thuật ngôn ngữ.
4.1.2.2. So sánh theo đối tượng khác loại
Đối tượng cùng loại trong biên pháp tu từ so sánh là hai vế có từ tính
khác nhau, thơng qua từ ngữ so sánh để liên kết hai sự vật cùng loại như
người với vật, cái cụ thể với cái trừu tượng...
Biên pháp tu từ so sánh về đối tượng khác loại với từ loại của người là
danh từ, cái cụ thể là danh từ, cái trừu tượng có thể là danh từ, động từ, tính
từ và số từ. Đối tượng so sánh trong những câu tục ngữ thường có tính chất
tương đồng, cái cụ thể với cái trừu tượng có quan hệ với hình biểu trưng và
nghĩa biểu trưng. Qua so sánh đối tượng khác loại, có thể tăng tính liên tưởng,
tính hình tưởng và tính thú vị của ngôn ngữ tục ngữ .
4.2. Biện pháp khoa trương
Khoa trương là một phương thức tu từ, một thủ pháp nghệ thuật dựa
trên cơ sở phóng đại và thu nhỏ, cường điệu kích thước, quy mơ, tính chất
của đối tượng hay hiện tượng được nói đến. Khoa trương giúp cho bài học
kinh nghiệm được nêu lên một cách nổi bật, tạo ấn tượng sâu sắc với người
tiếp nhận và người lưu truyền nó.
Khoa trương trong câu tục ngữ có tác dụng làm nổi bật những ý cần
diễn đạt. Tuy nói quá nhưng vẫn phản ánh được và đúng bản chất của sự vật
hiện tượng. Khoa trương luôn mang đậm phong cách và dấu ấn của cá nhân
hoặc cộng đồng sử dụng ngơn ngữ.
4.2.1. Khoa trương phóng to
Khoa trương phóng to là một trong các biện pháp tu từ dung cách nói
phóng đại mức độ mức độ, quy mơ, tính chất của sự vật, hiện tượng được
miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
Tác dụng khoa trương phóng to trong câu tục ngữ là nhấn mạnh, gây ấn
tượng hơn về điều định nói hay tăng sức biểu cảm cho sự diễn đạt.
4.2.2. Khoa trương thu nhỏ
Khoa trương thu nhỏ là cách nói giảm nhẹ quy mơ, tính chất, mức độ
của sự vật, sự việc, hiện tượng hoặc dung cách diễn đạt khác với tên vốn có
của nó.
Tác dụng khoa trương thu nhỏ trong câu tục ngữ là:
21
(i) Tạo nên một cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển. Nhằm tăng sức biểu
cảm cho ngôn ngữ của tục ngữ;
(ii) Giảm mức độ, tránh gây cảm giác đau buồn, ghê sợ hay nặng nề
trong những trường hợp cần phải lảng tránh do nguyên nhân từ tình cảm, tâm
lý;
(iii) Thể hiện thái độ nhã nhặn, lịch sự của người nói, sự quan tâm, tơn
trọng của người nói đối với người nghe. Và góp phần tạo cách nói năng đúng
mực của người có giáo dục, có văn hóa.
4.3. Biện pháp nhân hóa
Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ
biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu
của đối tượng không phải là con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu
tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày
tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.
Trong tục ngữ, nhân hóa thường được sử dụng kèm với ẩn dụ. Đối tượng
chủ yếu của nhân dân là các con vật hay sự vật trong nội dung tục ngữ về lao
động sản xuất. Tác dụng của biên pháp nhân hóa trong câu tục ngữ: nhân hóa
khiến sự vật, sự việc trở nên sinh động, gần gũi với đời sống con người, cũng
đem lại cho câu tục ngữ có tính biểu cảm cao.
4.3.1. Nhân hóa con vật
Con vật nhân hóa là miêu tả con vật bằng những từ ngữ miêu tả con
người, có thể là dưới nhiều dạng như hành động, tâm trạng, ngoại hình, tính
cách v.v., của con người.
Theo các tục ngữ minh họa, các câu tực ngữ đã được đem đến những
hình ảnh con vật thật là hình tượng và ngộ nghĩnh. Những con vật của phiên
pháp nhân hóa trong tục ngữ đã được thể hiện một cách tự nhiên, sinh động
và gần gũi với con người. Hình ảnh con vật đã góp phần thể hiện nội dung,
kinh nghiệm của tục ngữ được tốt hơn, độc đáo hơn, biện pháp nhân hóa con
vật trong tục ngữ cũng được ngụ ý đến mối quan hệ, bản chất, tính cách, lối
sống v.v., của con người.
4.3.2. Nhân hóa cây cối
Cây cối nhân hóa là miêu tả cây cối bằng những từ ngữ miêu tả con
người, có thể là dưới nhiều dạng như hành động, tâm trạng, ngoại hình, tính
cách v.v., của con người.
Hình ảnh cây cối đã được thể hiện phong phú và đa dạng trong kho tàng
tục ngữ, đó đã được gắn bó thân mật với con người, thường gán cho những
đặc tính cây cối với con người, đã được thể hiện những tình cảm và suy nghĩ
22
của con người, đã giúp cho những câu tục ngữ được diễn đạt sinh động hơn
và hấp dẫn hơn.
4.3.3. Miêu tả nhân hóa
Miêu tả nhân hóa là miêu tả sự vật bằng những từ ngữ miêu tả con người,
có thể là dưới nhiều dạng như hành động, tâm trạng, ngoại hình, tính cách
v.v.
Phép miêu tả nhân hóa thường được sử dụng những từ ngữ, cho chính
con người như hành động, tâm trạng, tình cảm, tính cách…để giúp cho những
câu tục ngữ được diễn đạt sinh động, hấp dẫn, gần gũi với con người. Phép
miêu tả nhân hóa đã mang lại hiệu quả nghệ thuật rất cao, đó đã tạo nên nhiều
tầng nghĩa, gợi hình ảnh và kiến các hiện tượng sống động nhiều hơn, cũng
đã làm cho ngữ nghĩa theo một cách sâu sắc cho người nghe.
Theo các câu ví dụ, có thể tóm lại các bước để sử dụng biện pháp tu từ
nhân hóa như sau:
(i) Xác định sự vật (con vật, cây cối, v.v.) và miêu tả hiện tượng xã hội
được nhân hóa.
(ii) Sử dụng các hình thức nhân hóa, và kết hợp với biện pháp ẩn dụ,
gán cho sự vật được lựa chọn để nhân hóa.
(iii) Tiến hành thực hiện với nội dung của câu.
Trong tục ngữ, biện pháp tu từ nhân hóa thường được sử dụng kèm với
biện pháp so sánh và ẩn dụ, được diễn đạt sinh động, hấp dẫn, gần gũi với
con người. Biện pháp tu từ nhân hóa làm nhấn mạnh nghệ thuật ngữ nghĩa
của những câu tục ngữ, đồng thời làm phong phú nội dung đạo lý cần thể
hiện qua tục ngữ.
4.4. Tiểu kết
Để thể hiện hình tượng cuộc sống một cách sinh động, làm cho sự diễn
đạt của thể loại này thêm gợi cảm, tinh tế, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, lưu
truyền vốn kinh nghiệm quý báu và phong phú tục ngữ về đạo lý trong đời
sống, tục ngữ dùng nhiều biện pháp tu từ. Thông qua phân loại thống kê và
so sánh đối chiếu các biện pháp tu từ trong tục ngữ về đạo lý của tiếng Trung
và tiếng Việt, luận án rút ra những nét tương đồng và dị biệt trong lối sử dụng
biện pháp tu từ trong kho tàng tục ngữ về đạo lý của hai ngôn ngữ.
(i) Những điểm tương đồng
(1) Trong cách diễn đạt các biện pháp tu từ, đã thể hiện rõ lối sử dụng
các hình ảnh để miêu tả các hiện tượng có sự tương đồng trong kinh nghiệm
sống của hai quốc gia, đặc biệt là đạo làm người của con người với bản thân,
gia đình và xã hội có nhiều điểm giống nhau.