So sánh, đánh giá điểm giống và khác nhau trong nội dung tư tưởng
phân chia quyền lực nhà nước của John Locke và Montesquieus? Trong tổ
chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay đã tham khảo, áp dụng những gì từ
quan điểm, học thuyết của hai nhà tư tưởng này?
Bài làm
*So sánh, đánh giá điểm giống và khác nhau trong nội dung tư tưởng
phân chia quyền lực nhà nước của John Locke và Montesquieus.
- Giống nhau :
+ Cả John Locke và Montesquieus đều quan niệm cần thiết phải phân
chia quyền lực nhà nước hay nói cách khác quyền lực nhà nước được cấu thành
bởi những bộ phận khác nhau.
+ Cả John Locke và Montesquieus đều cho rằng các loại quyền lực nói
trên đều khơng thể chỉ tập trung vào tay một cá nhân hay một cơ quan mà phải
do những cá nhân, cơ quan khác nhau nắm giữ.
+ Giữa các cá nhân, cơ quan trong quá trình thực hiện quyền lực, chúng
có thể kiểm sốt, kiềm chế lẫn nhau, để khơng cho bất kì cơ quan nào có thể
lạm dụng quyền lực, hay nói cách khác là cá nhân, cơ quan dù độc lập về chức
năng các quyền song vẫn có sự ràng buộc nhất định ở việc kiềm chế, kiểm sốt
lẫn nhau.
- Khác nhau:
Tiêu chí so sánh Tư tưởng của John Locke Tư tưởng của Montesquieus
Tác phẩm thể
“ Khảo luận thứ hai về
“ Tinh thần pháp luật”
hiện
Lý do phải phân
chính quyền”
Theo ơng là nhằm bảo tồn -“kinh nghiệm hàng thế kỷ cho
chia quyền lực
tự do cho mọi người.
nhà nước
Hai thứ quyền lực lập pháp lực, bất kì người nào cũng có
thấy rằng, khi nắm giữ quyền
và hành pháp phải ln ln thiên hướng lạm dụng nó và
được chia tách với nhau và người đó đi theo hướng ấy,
do các chủ thể khác nhau cho tới lúc chưa đạt tới giới
nắm giữ. Bởi vì quyền lực hạn”.
có sức quyến rũ rất lớn và
con người lại rất dễ bị cám
dỗ bởi quyền lực nên có xu
hướng cố nắm giữ nó. Nếu
cùng những con người có cả
quyền lập pháp lẫn quyền
hành pháp thì họ có thể
miễn cho bản thân họ khỏi
sự phục tùng những đạo
luật mà họ đã làm ra, đồng
thời làm cho cả việc xây
dựng luật lẫn việc thực hiện
nó đều chỉ thuận lợi cho
những lợi ích riêng của họ.
Bằng cách đó sẽ dẫn đến sự
khác biệt về lợi ích giữa họ
với những người khác trong
xã hội và ngược lại với lợi
ích của xã hội và chính phủ.
Các loại quyền Trong một nước Cộng hịa Để chống lại tình trạng đó
lực Nhà nước
có ba loại quyền lực lập phải có sự phân chia quyền lực
pháp, hành pháp và liên nhà nước. Montesquieu cho
minh, liên kết.
rằng quyền lực nhà nước gồm
ba loại quyền là: lập pháp,
Nội dung của
hành pháp và tư pháp.
+Quyền lập pháp là quyền + Ông coi quyền lập pháp là
từng quyền
làm ra các đạo luật cho tất quyền làm luật, sửa đổi hay
cả các bộ phận và cho mọi hủy bỏ luật, giám sát việc thi
thành viên của xã hội, quy hành luật.
định cho họ các quy tắc +Quyền hành pháp là quyền
hành vi và trao quyền trừng quyết định và thực thi những
phạt những vi phạm pháp điều phù hợp với quốc tế công
luật.
pháp.
+ Các đạo luật đã được làm +Còn quyền tư pháp là quyền
ra lại cần phải được thực thi hành luật dân sự, như trừng
hiện liên tục, phải thường trị tội phạm, phân xử tranh
xuyên hiện diện nên cần chấp
phải có một quyền lực khác
tồn tại thường xuyên để phụ
trách việc thực hiện các đạo
luật đã được làm ra và vẫn
còn hiệu lực, đó chính là
quyền lực hành pháp
+ Ngồi ra, trong mỗi nhà
nước cịn có một quyền lực
khác, quyền này có thể gọi
là tự nhiên. Nội dung của
quyền lực này gồm quyền
lực về chiến tranh và hịa
bình, liên kết và liên minh
và tất cả những giao dịch
với tất cả những người và
cộng đồng bên ngồi nhà
nước. Nó có thể được gọi là
quyền lực liên minh, liên
Chủ thể nắm giữ
kết.
+ Quyền lập pháp phải + Quyền lập pháp thì trao cho
từng quyền
thuộc về nghị viện; nghị nghị viện, cơ quan này làm
viện phải hợp định kỳ để việc độc lập với dân chúng và
thông qua các đạo luật, không giải quyết các công việc
nhưng không thể can thiệp cụ thể mà chỉ làm luật và xem
vào việc thực hiện
xét việc thực hiện luật như thế
chúng.
nào.
+ Quyền hành pháp phải + Quyền hành pháp trao cho
thuộc về nhà vua. Nhà vua chính phủ. Đó là cơ quan hành
lãnh đạo việc thi hành pháp động chứ không phải là cơ
luật, bổ nhiệm các bộ quan bàn cãi, thực hiện việc
trưởng, chánh án và các thu thuế hàng năm do cơ quan
quan chức khác. Hoạt động lập pháp quy định, cơ quan
của nhà vua phụ thuộc vào hành pháp phải xây dựng quân
pháp luật và vua khơng có đội để thực thi quyền của
đặc quyền nhất định nào đối mình.
với nghị viện để nhằm + Quyền tư pháp trao cho tịa
khơng cho phép nhà vua án nhằm phụ trách hình sự và
thâu tóm tồn bộ quyền lực giải quyết các tranh chấp của
về tay mình và xâm phạm nhân dân.
các quyền tự nhiên của
cơng dân.
+Nhà vua cũng thực hiện
quyền liên minh, tức là giải
quyết các vấn đề chiến
tranh, hồ bình và đối
Vị trí và mối
quan hệ giữa các
loại quyền lực
NN
ngoại.
Theo ông, quyền lực lập Ba quyền lập pháp, hành pháp,
pháp là cái mà có quyền chỉ tư pháp có mối quan hệ với
đạo cách thức sử dụng nhau, hạn chế lẫn nhau, ngang
quyền lực của nhà nước để bằng với nhau và thuộc về các
bảo tồn cộng đồng và các cơ quan khác nhau để tránh
thành viên của nó nên trong lạm quyền và đây cũng là điều
tất cả các trường hợp, khi kiện đảm bảo tự do chính trị
chính quyền tồn tại thì lập trong nhà nước.
pháp là quyền lực tối cao,
hai quyền lực kia phải phụ
thuộc vào quyền lực lập
pháp.
Đánh giá:
- Nếu như John Locke, nhà triết học người Anh, là người có cơng khởi
thảo ra học thuyết phân quyền thì nhà khai sáng người Pháp Montesquieus lại
là người có cơng phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền.
- Cả John Locke và Montesquieus đều có những quan điểm của riêng
mình về sự phân chia quyền lực nhà nước. Bên cạnh những nét tương đồng
trong tư tưởng về sự phân chia quyền lực nhà nước thì hai ơng lại có quan niệm
khác nhau về nguyên lí và cơ chế hoạt động của việc phân quyền.
+ Với John Locke, ông cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là
cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, nhưng cái phục
thuộc vào nó.” Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với
quyền lập pháp.
+ Với Montesquieus, ông lại xem xét ở khía cạnh hồn tồn mới của học
thuyết này. Ông là người đầu tiên tuyên bố rằng việc phân quyền phải là luật tối
thượng của bộ máy nhà nước vì chỉ có như thế mới đảm bảo được quyền tự do
chính trị của các cơng dân. Ơng đã đi xa hơn Locke khi đưa ra 3 thành tố của
chính quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhưng sự khác nhau căn bản giữa
lý thuyết của Locke và Montesquieus chính là ở chỗ hai ơng đã có quan niệm
hồn tồn khác về vai trò của cơ quan lập pháp. Nếu như Locke nhấn mạnh vai
trò tối cao của cơ quan lập pháp, coi nó là sự bảo đảm cho việc thống nhất
quyền lực nói chung thì Montesquieus lại nhìn thấy vai trò tiêu cực của mọi
loại quyền lực, dù quyền ấy thuộc về ai cũng thế.
+ Có thể nói, Montesquieus là người hồn thiện lý thuyết phân quyền
mà Locke đã khởi thảo, thể hiện ở chỗ, ông đã đưa ra những quan điểm tiến bộ
về tư pháp. Ông phê phán chế độ chuyên chế, khi mà quyền xét xử gây nên nỗi
sợ hãi với người. Ông cho rằng có thể khắc phục hạn chế này ở chế độ dân chủ,
bằng cách khơng nên có cơ quan tư pháp thường xuyên, cố định mà chỉ để
trong một thời gian nhất định, xây dựng tòa án như một cơ quan “vơ định
hình”.
-Tư tưởng của Montesquieus tuy vẫn mang tính bảo thủ phong kiến, địi
hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc nhưng nó vẫn là nền móng cho tư tưởng
phân chia quyền lực sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau
này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của nhà nước tư bản.
* Trong tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay đã tham khảo, áp
dụng những quan điểm, học thuyết của hai nhà tư tưởng này.
Trước hết phải khẳng định, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, nơi việc phân
chia quyền lực kèm theo sự đối trọng quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Bản chất của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là phân
cơng gắn liền với phối hợp và sự kiểm sốt quyền lực không nhằm tạo nên sự
đối trọng mà chủ yếu là điều kiện để thực hiện tốt sự phân công, sự phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất.
Tuy nhiên các quy định của Hiến pháp cũng đã thể hiện tư tưởng phân quyền
đảm bảo phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống của nước
ta. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 2013
thể hiện tư tưởng này rõ ràng và đậm nét hơn so với tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992 ở chỗ đã đề cập đến ba quyền đó
(theo Hiến pháp năm 1992), phân định rõ hơn ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp (theo Hiến pháp 2013), cụ thể:
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực
nhà nước vào nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta.
Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: “Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp". Như vậy, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)
mới chỉ quy định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp mà chưa quy định việc kiểm soát lẫn nhau giữa ba loại cơ quan
này. Tuy nhiên, mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước được thiết kế trên cơ sở
nguyên tắc này trong một mức độ nhất định đã hàm chứa những yếu tố của sự
kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc quy định chức năng,
thẩm quyền và mối quan hệ quyền lực giữa Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương.
Trong khi đó, Hiến pháp 2013 đã bổ sung nội dung quan trọng đó là: kiểm sốt
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nguyên tắc này là cơ sở hiến định để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có thể nói rằng, việc
bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước vào nguyên tắc này là một
bước hoàn thiện quan trọng, tạo cơ sở để khắc phục sự yếu kém trong việc
kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước do nhân dân ủy quyền. Với sự hoàn thiện này, nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước ta được xác định bởi bốn nội dung quan trọng: thống nhất
quyền lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực, kiểm soát quyền lực.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 định danh cụ thể các cơ quan thực hiện
tương ứng các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp 2013 đều quy định Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vị trí và vai trị của
Quốc hội được Hiến pháp 2013 quy định phù hợp hơn đối với một Quốc hội
của nhà nước pháp quyền, khắc phục một bước những yếu tố của một Quốc hội
có tồn quyền trong mơ hình nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Điều 69
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối
với hoạt động của nhà nước" thay vì quy định như Hiến pháp năm1992:
"Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp" (lập hiến và lập
pháp đồng nhất là một quyền – Điều 83). Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992,
Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn chức năng của Quốc hội - cơ quan thực
hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, đồng thời củng cố mối quan hệ giữa Quốc
hội với các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là các cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và tư pháp.
Về vị trí, vai trị của Chính phủ, Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy
định: "Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp
hành của Quốc hội". Điều này có nghĩa là: Hiến pháp năm 2013 đã xác lập rõ
vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong tổ chức bộ
máy thực hiện quyền lực nhà nước. Trong khi đó, Hiến pháp 1992 khơng xác
định rõ cơ quan nào thực hiện quyền hành pháp. Mặt khác, vị trí của Chính phủ
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp được xếp
lên trước. Vai trị của Chính phủ trong việc thực hiện quyền hành pháp được cụ
thể hóa qua các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các khoản 2, 3, 6 và 7 Điều
96 Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 hiến định
quyền lập quy độc lập của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng -
thành viên Chính phủ trong việc quyết định chính sách theo thẩm quyền
(Khoản 2 Điều 96) và ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình; kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn
bản trái pháp luật theo quy định của luật (Điều 100) bởi quyền lập quy cũng là
bộ phận không thể thiếu của quyền hành pháp.
Hiến pháp năm 2013 cũng có bổ sung quan trọng nhằm bảo đảm vị thế,
tính độc lập của hoạt động tư pháp và tiến thêm một bước trong việc tạo ra
những yếu tố của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước;
thể hiện nhận thức mới về vai trò và nhiệm vụ của tòa án và viện kiểm sát, phù
hợp với yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền tư pháp của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, trong đó quyền con người, quyền cơng dân được bảo vệ và
bảo đảm tốt nhất bằng việc thực hiện quyền tư pháp. Điều 102 Hiến pháp năm
2013 quy định “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp”; như vậy, Hiến pháp 2013 bổ sung quy
định về vị trí của tịa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp đồng thời
sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa
án nhân dân bảo đảm phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và cải cách tư pháp;
quy định có tính ngun tắc về mơ hình tổ chức tịa án theo thẩm quyền và cấp
xét xử, khơng phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Như vậy, việc Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên xác định rõ Chính phủ
thực hiện quyền hành pháp cùng với quy định Quốc hội thực hiện quyền lập
pháp và Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp là bước tiến quan trọng trong
việc tạo cơ sở hiến định nhằm cụ thể hóa cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt thực hiện quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền, góp phần khắc
phục một trong những bất cập lớn của Hiến pháp năm 1992. Đây là điều kiện
tiên quyết để nhân dân có cơ sở để kiểm sốt và đánh giá hiệu lực, hiệu quả của
mỗi cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực được nhân dân giao phó
thơng qua Hiến pháp.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 phân định rõ ràng nhiệm vụ giữa các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 cũng xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của những cơ quan này theo
hướng xác định rõ ràng và minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
từng cơ quan, bảo đảm sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ
sở đó, sự phân cơng thẩm quyền giữa Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương rõ ràng, minh bạch, phù hợp
với chức năng của từng cơ quan để các cơ quan này phối hợp nhịp nhàng, hiệu
quả hơn. Bằng việc Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp cũng xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm
và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ, phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bổ sung một số quyền liên
quan đến quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát
triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, để đảm bảo phù hợp với yêu cầu đổi mới mơ
hình tịa án nhân dân, làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ
quan tư pháp và nâng cao vị thế của thẩm phán tòa án nhân dân tối cao theo
tinh thần cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thẩm quyền của
Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7 Điều 70). Trong hoạt động lập pháp,
Hiến pháp 2013 đã bỏ quy định về việc Quốc hội quyết định chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh, tạo điều kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ
động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh đáp ứng nhu cầu
của thực hiện.v.v..
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 đã bước đầu thiết lập cơ chế kiểm soát
quyền lực trong việc thực hiện quyền hành pháp.
Việc kiểm sốt từ phía Quốc hội (lập pháp) đối với Chính phủ trong việc
thực hiện quyền hành pháp được thể hiện ở các phương diện khác nhau như
kiểm sốt đối với phạm vi hoạt động của Chính phủ (Hiến pháp 2013 phân định
rõ hơn thẩm quyền quyết định chính sách của Quốc hội và của Chính phủ, xác
định ranh giới giữa quyền lập pháp và quyền lập quy); kiểm soát nội dung hoạt
động, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ (Quốc hội có thẩm
quyền thơng qua hoặc khơng thơng qua các chính sách, dự án luật do Chính
phủ ban hành, bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái Hiến
pháp, pháp luật...v.v..); kiểm soát đối với tổ chức thực thi quyền hành pháp
(Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của chính phủ và chính quyền địa
phương, quyết định cơ cấu và số lượng thành viên Chính phủ); kiểm sốt đối
với cá nhân thực thi quyền hành pháp (Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Phó Thủ tướng Chính phủ...). Hiến pháp 2013 khơng có quy định trực tiếp về
cơ chế kiểm sốt của tịa án tư pháp đối với hoạt động thực hiện quyền hành
pháp. Bằng việc quy định về tổ chức và thẩm quyền xét xử của các tịa án có
thể thấy cơ chế luật định về kiểm sốt tư pháp thơng qua xét xử của tịa án hành
chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành
chính và cá nhân có thẩm quyền của các cơ quan đó….
Hiện nay, trên thế giới khơng có một khn mẫu cố định của nguyên tắc
tam quyền phân lập để áp dụng cho mọi nhà nước. Việc thiết kế cấu trúc của
quyền lực nhà nước phải xem xét đến những yếu tố tác động như truyền thống
chính trị, mơi trường lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển…Mặc dù bộ máy nhà
nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà vẫn theo
nguyên tắc tập quyền, tuy nhiên trong chừng mực nào đó đã áp dụng, vận dụng
linh hoạt tư tưởng phân quyền, nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước thành
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở nước ta, việc kiểm soát thực thi
quyền lực nhà nước của nhân dân là chủ trương quan trọng của Đảng, là
nguyên tắc pháp luật không ngừng được bổ sung cho phù hợp với từng giai
đoạn cách mạng và được thể hiện rõ nhất trong Hiến pháp năm 2013. Bản chất
của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là phân công gắn liền với
phối hợp và sự kiểm soát quyền lực. Nguyên tắc phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt quyền lực nhà nước được thể hiện trong tất cả các chương của Hiến pháp
và hình thành cơ chế kiểm sốt quyền lực, trong đó quyền của nhân dân với tư
cách là chủ nhân của tất cả quyền lực nhà nước được đề cao và sự mở rộng các
hình thức dân chủ; là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân giám sát, kiểm soát
quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước là nguyên tắc của nhà nước
pháp quyền để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi hiệu lực, hiệu
quả, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và pháp luật,
tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực; phịng, chống tham nhũng, lãng phí;
đồng thời để nhân dân có cơ sở hiến định giám sát quyền lực nhà nước. Sự
thiếu rõ ràng, rành mạch về phân công nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan khi
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã làm ảnh hưởng đến việc tổ
chức, hiệu quả hoạt động của các cơ quan này và của cả bộ máy nhà nước trên
thực tế. Chính vì vậy, so với Hiến pháp 1992 thì Hiến pháp 2013 đã thể hiện
đậm nét hơn tư tưởng phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước.