Nhà nước và pháp luật phong kiến Tây Âu
- Nhà nước và pháp luật phong kiến phương Tây dùng để chỉ các quốc gia
phong kiến châu Âu.
- Các nhà nước phong kiến ở tây Âu hình thành sớm trên cơ sở sự sụp đổ của
Tây La Mã.
- Khu vực Đông Âu các nhà nước phong kiến xuất hiện muộn hơn, có khu vực
nhà nước phong kiến xuất hiện trên cơ sở sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ,
có khu vực nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ công xã
nguyên thuỷ (các quốc gia phong kiến của người Xlavơ).
1. Nhà nước trong thời kỳ hình thành và phát triển của chế độ phong kiến
Tây Âu. Nhà nước phong kiến Frăng và trạng thái phong quyền các cứ
phong kiến.
*Quá trình hình thành phong kiến hóa xã hội Tây Âu.
- Có hai nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước phong kiến ở Tây Âu:
+ Sự xuất hiện quan hệ phong kiến trong lòng đế quốc La Mã đang hấp hối –
yếu tố cơ bản có tính quyết định.
+ Sự tấn công vào lãnh thổ La Mã của các tộc người Giéc Manh – yếu tố thúc
đẩy quá trình phong kiến.
-Đến thế kỷ V, trên sự tan rã của tây La Mã, một số vương quốc của người Giéc
Manh đã được thành lập: Phrăng, Buốcgơng, Alaman, Ănglơ – Xăcxơng,
Vidigơt, Ơtrogơt, Lơngba..
-Các vương quốc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, duy chỉ vương quốc
Phrăng là tồn tại lâu dài và có ảnh hưởng quan trọng đến tồn bộ lịch sử tây Âu
trong suốt giai đoạn sơ kỳ của chế độ phong kiến.
*Sự thiết lập, quá trình phát triển và tan rã của Vương quốc Phrang.
- Clôvit (481 - 511) là người sáng lập ra vương quốc Phrăng, nguyên nhân dẫn
đến thắng lợi của Clôvit:
+ Tài thao lược quân sự
+ Dựa vào Cơ đốc giáo
Vào năm 486, trong cuộc hội chiến ở Xuraxan ông đánh bại Tổng đốc La Mã ở
miền bắc xứ Gôlơ và thành lập nhà nước do ông đứng đầu, 496 ơng đánh bại
người Alaman ở phía đơng biên giới, từ 507 – 510 ông đánh bại người Vidigôt ở
Akiten
- Nhà nước Phrăng tồn tại qua hai triều đại:
+ Triều đại Mê rô vanh giêng
+ Triều đại Ca rô lanh giêng
- Đến thế kỷ thứ VIII vương triều Mê rơ vanh giêng suy yếu, quyền lực rơi vào
tay dịng họ Ca rô lanh giêng đang giữ chức vụ thừa tướng
- Thừa tướng nắm quyền chỉ huy quân đội, phân phối ruộng đất, quản lí việc
thu thuế ở thời Sác lơ Mác ten
- 751, Pê Panh, người thừa kế của Sác lơ mác ten lật đổ ông vua cuối cùng của
vương triều Mê rô vanh giêng, thiết lập triều đại Ca rô lanh giêng
- Sác lơ ma nhơ (771 - 814) mở rộng lãnh thổ qua các cuộc viễn chinh xâm lược
(55 cuộc viễn chinh trong 43 năm cầm quyền).
- 843, sau khi vua Lu Y qua đời, 3 người con của vua đã ký hoà ước Vec đoong
chia vương quốc ra làm 3 vùng tương ứng với 3 quốc gia: Ý, Đức, Pháp.
* Tổ chức bộ máy Nhà nước.
- Tổ chức bộ máy nhà nước đơn giản, đứng đầu nhà nước là vua. Vua phong và
ban tước cho một số quý tộc, quan lại, làm hình thành nên thứ bậc quý tộc: công
tước, hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước
- Triều đình trung ương đã có sự phân công nhưng chưa rõ ràng. Đứng đầu các
quan lại là thừa tướng và các quan trông coi các công việc.
- Đến triều đại Ca rô lanh giêng, chức quan thừa tướng bị bãi bỏ, công việc
chuyển giao cho một bộ phận riêng được tuyển chọn từ các tăng lữ.
- Đơn vị hành chính địa phương là các quan quản hạt. Đứng đầu mỗi quản hạt là
Bá tước, nắm cả quyền hành chính, tư pháp, tài chính và quân sự. Dần dần chức
này được cha truyền – con nối.
- Ở các khu vực biên giới, được gọi là biên trấn, có một vị quý tộc phụ trách,
viên quan này có quyền hạn lớn hơn viên quản hạt thông thường, một viên Trấn
thủ thường đứng đầu vài quản hạt của bá tước.
- Toà án:
+ Toà án nhà vua, do một viên pháp quan thay mặt nhà vua phụ trách xét xử.
+ Khu vực quản hạt: có tồ án địa phương do bá tước chủ trì việc xét xử
+ Các đồn khâm sai: do nhà vua phái về các địa phương được phép tiến hành
công việc xét xử.
- Quân đội: quân đội nhà vua, quân đội ở quản hạt.
* Trạng thái phân quyền cát cứ phong kiến
-Xuất hiện từ vương triều Mê rô vanh giêng:
- Năm 511, sau khi Clôvit chết, vương quốc chi phối thành 4 phần do những
người con cai quản
- Thế kỷ VIII, tình trang phân quyền tạm thời được khắc phục
- Sau hoà ước Véc đoong tình trạng phân quyền cát cứ được củng cố
- Đức, Ý là những nước duy trì tình trạng cát cứ cho đến khi thống nhất (Đức –
1870, Ý - 1861).
- Nguyên nhân:
+ Nhà nước được xây dựng trên cơ sở chiến tranh xâm lược
+ Chế độ sở hữu ruộng đất – ngun nhân cơ bản, có tính quyết định về kinh tế.
-Từ đó dẫn đến những chuyển biến về Kinh tế - xã hội
+Thủ công nghiệp phát triển với sự xuất hiện của nhiêù ngành, nghề mới: khai
mỏ, luyện kim, thuộc da, đóng tàu, chế tạo vũ khí…
+ Nơng nghiệp phát triển
+ Sự tách rời giữa nơng thôn – thành thị, khôi phục và xây dựng những thành
thi mới với vai trò là những trung tâm kinh tế - thương mại.
=>Kết luận: những chuyển biến về kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi
cho sự củng cố nhà nước phong kiến tập quyền ở các nước tây Âu.
*Chính quyền tự trị thành phố và cơ quan đại diện đẳng cấp
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất thế kỷ IX – XI đã làm cho thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp, các thành thị đã được tái lập hoặc xây dựng mới:
+ Do dân thủ công nghiệp xây dựng
+ Tái lập lại những thành thị cũ
+ Các chúa phong kiến xây dựng
- Chính quyền tự trị thành phố:
- Chế độ tự quản mà các thành phố giành được bằng các biện pháp sau:
+ Một số thành thị nộp cho các lãnh chúa một số tiền lớn cho lãnh chúa để được
hưởng quyền tự trị.
+ Một số thành thị tiến hành khởi nghĩa vũ trang
- Mức độ tự trị của các thành thị:
+ Ở Italia: các thành thị giành được quyền độc lập hoàn toàn, phát triển lên
thành những quốc gia cộng hoà thành thị độc lập.
+ Ở Pháp: các thành thị thành lập cơng xã thành phố và giành quyền tự trị hồn
tồn: thị dân bầu ra Hội đồng thành phố; thị trưởng và các thành viên hội đồng
thường là các thị dân giàu có.
-Hội đồng thành phố có quyền ban hành pháp luật để quản lí thành phố, chỉ huy
lực lượng vũ trang, quyết định các vấn đề thuế khóa, tài chính.
- Trong pháp luật thành phố, luật thị trường giữ vai trị quan trọng, ở Pháp
(1268) ban hành cuốn “Cơng nghệ thư”, tập hợp những tập quán của các
phường hội, ngành nghề.
- Ở Anh, Pháp: ở những thành thị này, quyền tự trị ở mức độ vừa phải, họ vẫn
có quyền bầu Hội đồng thành phố, nhưng trước khi giải quyết các cơng việc
hành chính – tư pháp họ phải thảo luận với lãnh chúa phong kiến
* Cơ quan đại diện đẳng cấp
- cơ quan địa diện đẳng cấp ở Pháp
-Cho đến thế kỷ XI, nước Pháp là một điển hình về tình trạng phân quyền cát
cứ: + Tây: Nốc măng đi, Bơ rơ ta nhơ, Angru
+ Bắc: Phlăng đrơ + Đông: Săm pha nhơ, Buốc gô nhơ
+ Nam: Akiten, Tu lu giơ Vương triều Ca pê chiêng của nhà vua chỉ là một lãnh
địa loại vừa.
- Thế kỷ XII, do thương nghiệp phát triển, nhà vua tranh thủ sự ủng hộ của thị
dân và giáo hội để làm suy yếu thế lực của các lãnh chúa phong kiến, củng cố
quyền lực của mình.
+ Cuối thế kỷ XII, đầu TK XIII, vua Philip II Ơgt (1180 - 1232) thơng qua
các cuộc chinh phạt giành lại phần lớn đất đai ở miền Bắc và Trung.
+ Vua Lui IX và Philip IV tiếp tục các cuộc chinh phạt, đầu thế kỷ XIV tình
trang cát cứ của nước Pháp cơ bản đã xoá bỏ.
+ Song song với việc xố bỏ tình trang cát cứ của các lãnh chúa phong kiến,
triều đình trung ương đã thi hành nhiều chính sách cải cách hành chính và tư
pháp để thâu tóm quyền lực.
- Do cần tiền chi phí cho chiến tranh, nhà vua Philip IV đã cho đánh thuế giáo
hội, điều này cần sự ủng hộ của các tầng lớp xã hội để tạo áp lực với giáo
hoàng. Vào năm 1302 nhà vua chính thức mở rộng đại biểu quý tộc.
+ Thành phần hội nghị gồm 3 đẳng cấp: tăng lữ, quý tộc và thị dân. Tính chất
hội nghị là hội nghị tư vấn; vấn đề chủ yếu của hội nghị là chính sách thuế khố.
+ Năm 1357, nhân dân Pari nổi dậy khởi nghĩa, yêu cầu nhà vua phải chấp nhận
yêu sách là một năm 2 lần triều tập hội nghị khơng cần có sự đồng ý của nhà
vua. Hội nghị được giải quyết vấn đề thuế khoá theo yêu cầu của mình; được
kiểm tra thu – chi ngân sách nhà nước; được cử cố vấn của nhà vua.
+ Thế kỷ XV, nhà nước chuyên chế ở Pháp được kiện toàn, hội nghị tam cấp
mất đi vai trị của nó. Thế kỷ XVIII, hội nghị đẳng cấp được khôi phục và đóng
vai trị quan trọng trong cuộc cách mạng tư sản Pháp, để đáp ứng được yêu cầu
cách mạng, hội nghị có sự thay đổi lớn về nội dung và hình thức
-Nghị viện Anh
vào thế kỷ XI, nước Anh là một nhà nước phong kiến phân quyền, tuy nhiên
mức độ phân quyền không nặng nề như ở Pháp.
- Đến thời kỳ vua Giôn (1189 - 1216), do nhà vua thi hành chính sách chuyên
chế ngặt nghèo, mâu thuẫn giữa nhà vua và các tầng lớp dân cư trở nên gay gắt,
đặc biệt là chính sách đối với nhà thờ, và cuộc chiến tranh với Pháp.
- Các lãnh chúa phong kiến đã liên kết chống lại nhà vua, năm 1215, nhà vua
đã phải kỳ vào bản yêu sách Magna Carta (Đại hiến chương tự do).
- Năm 1263 nổ ra cuộc nội chiến giữa nhà vua (Henry III) và một bên là liên
minh giữa các lãnh chúa với các thị dân và kỵ sỹ dưới sự lãnh đạo của Bá tước
Ximông đơ môn pho, phe nàh vua đã bị thất bại.
-Đầu năm 1265, bá tước chủ trương thành lập một liên minh giữa quý tộc với thị
dân (mỗi quận cử 2 đại biểu kỵ sỹ, mỗi thành thị 2 đại biểu thị dân).
- Năm 1343, nghị viện Anh chia thành 2 viện: thượng nghị viện (đại diện cho
quý tộc và tăng lữ) và Hạ nghị viện (đại diện cho kỵ sỹ và thị dân).
- Quyền hạn của nghị viện: các vấn đề thuế khố, ngân sách, khiếu nại về hoạt
động của chính quyền thuộc thẩm quyền của nghị viện.
Kết luận:
sự ra đời của chính quyền tự trị thành phố và cơ quan địa diện đẳng cấp chứng
tỏ:
- Tầng lớp thị dân xuất hiện, nắm trong tay quyền lực kinh tế đã trở thành một
tầng lớp xã hội quan trọng, tiền thân của giai cấp tư sản.
- Chính quyền tự quản của thành phố hay các cơ quan đại diện đẳng cấp đều
thuộc các tầng lớp giàu có. Những cơ quan này đều là một bộ phận của thượng
tầng kiến trúc của chế độ phong kiến, một chế độ đang chuyển từ trạng thái
phân quyền cát cứ và chuẩn bị chuyển sang chính thể quân chủ chuyên chế
phong kiến.
2. Q trình xác lập chính thể qn chủ chuyên chế trong thời kì suy vong
của chế độ phong kiến
Quan hệ sản xuất TBCN và giai cấp tư sản ra đời:
- Thế kỷ XV, tây Âu bước vào giai đoạn hậu kỳ của chế độ phong kiến do sự
phát triển rực rỡ của kinh tế trên các lĩnh vực: cơng thương nghiệp, nơng nghiệp
- LLSX phát triển làm hình thành quan hệ sản xuất TBCN, giai cấp tư sản hình
thành và ngày càng khẳng định vai trị của mình trong xã hội phong kiến.
- Phong trào đấu tranh cuả nông nô và các tầng lớp nhân dân lao động khác, địi
hỏi giai cấp phong kiến phải có một chính quyền nhà nước tập trung.
- Qua các cuộc thập tự chinh thế kỷ XII – XIII đã làm suy yếu các lãnh chúa
phong kiến, điều này giúp cho nàh vua dễ dàng mở rộng vương quyền.
*Quá trình thiết lập nhà nước quân chủ chuyên chế trải qua hai giai đoạn:
- Bước 1: xoá bỏ cục diện phân quyền cát cứ, xác lập chính quyền trung ương
tập quyền.
- Bước 2: nhà nước trung ương tập quyền phát triển thành chính thể quân chủ
chuyên chế. Cơ sở giai cấp hậu thuẫn cho chính thể quân chủ chyên chế là
phong kiến (thế tục và giáo hội) và tư sản.
Chế độ quân chủ chuyên chế của Pháp
nền quân chủ chuyên chế ở Pháp được thiết lập nửa sau thế kỷ XV và phát triển
điển hình nhất ở châu Âu.
• Người đặt nền móng là vua Charles VII (1422 - 1462), sau khi kết thúc thắng
lợi cuộc chiến 100 năm (1338 - 1453) nước Pháp giành thắng lợi, trên cơ sở đó
nhà vua cho củng cố quân đội thường trực vững mạnh, xoá bỏ Hội nghị tam
cấp. • Thời kỳ vua Lu y IX cho thi hành 3 cuộc cải cách quan trọng: tư pháp,
hành chính, qn sự. Ngồi ra nhà vua cho đúc một loại tiền thống nhất; dân
binh được thay thế bằng lính đánh thuê. Điều này đã tăng cường quyền lực
trung ương.
Vua Philíp IV tiếp tục cho thi hành một số biện pháp quan trọng để củng cố
chính quyền trung ương, ngơi giáo hồng phải do vua chỉ định.
• Đến Lu y XI (1461 - 1483), nền quân chủ chuyên chế chính thức được hình
thành sau thắng lợi với các lãnh chúa phong kiến, đứng đầu là công tước xứ
Buốc gơ nhơ.
• Lu y XII, nền qn chủ ở Pháp tiến thêm một bước, ông cho thi hành các cuộc
cải cách nhằm tăng quyền lực của nhà vua, giải tán nghị viện.
• Đến thế kỷ XVI, vua Phrăng xoa I (1515 - 1547) đã xây dựng chính thể quân
chủ chuyên chế ở đỉnh cao.
• Thời kỳ vua Lu y XVI (lên ngơi năm 1774) tổ chức triều đình mang tính quan
liêu cao độ.
Chính thể chuyên chế ở Anh
- Anh: sau thất bại của cuộc chiến 100 năm với nước Pháp, nước Anh lại rơi
vào cuộc nội chiến giữa các lãnh chúa phong kiến, giai cấp tư sản Anh bị đối
mặt với mức thuế nặng do các lãnh chúa đặt ra nhằm tạo nguồn tài chính cho
cuộc chiến. Giai cấp tư sản Anh mong muốn có một chính quyền trung ương để
bảo vệ quyền lợi của mình.
- Từ năm 1455 – 1485 xảy ra cuộc chiến giữa hai phe quý tộc: Cátxtơ và I oác,
cuộc chiến kết thúc với thất bại của cả 2 phe. Sau chiến tranh vương triều mới
do vua Hăng ri VII thiết lập với sự ủng hộ của tầng lớp quý tộc mới và thị dân.
- 1533, Hăng ri VIII cắt quan hệ với tôn giáo La Mã, thành lập giáo hội riêng
của nước Anh do chính nhà vua đứng đầu.
-Nữ hoàng Êlidabét I (1558 - 1603) trong 45 năm cầm quyền đã đưa nền quân
chủ chuyên chế Anh phát triển đến đỉnh điểm cực thịnh.
• Năm 1603 nữ hồng quan đời, khơng có con nối ngơi, chấm dứt thời kỳ thống
trị của triều đại Tuđo. Người kế vị là Giêm I, đã mở đầu cho triều đại Xtuát,
dưới triều đại này tính chất quân chủ chuyên chế nước Anh được đẩy lên một
bước mới.
• Khác với nước Pháp, ở Anh, mặc dù chính thể quân chủ chuyên chế được tăng
cường nhưng vài trò của nghị viện vẫn được duy trì trong suốt thời kỳ chuyên
chế, và đây dẫn trở thành nơi đấu tranh gay gắt giữa thế lực mới (tư sản, quý tộc
tiến bộ) với nhà vua và quý tộc bảo thủ.
3.Giáo hội tôn giáo với nhà nước phong kiến. Tồ án giáo hộ
Giáo hội tơn giáo với nhà nước phong kiến.
- Khi ra đời, Cơ đốc giá là tôn giáo của nô lệ và những người nghèo khổ,
- Cuối thế kỉ V, để ngăn ngừa sự chống đối của cư dân theo đạo, Clôvit đã theo
đạo Cơ đốc, chịu làm lễ rửa tội.
- Giữa thế kỷ VI, do lo sợ trước sự xâm lược của người Lơngba, giáo hồng đã
cầu cứu vua của Phrăng, trả ơn cho việc Giáo hoàng đã làm lễ tấn phong,
PêPanh đã giúp bảo vệ ngăn chặn âm mưu xâm lược của người Lông ba.
- Đầu thế kỷ IX, nước giáo hội được thành lập ở miền Trung Italia.
- Trung tâm giáo hội là toà thánh Vaticăng
- Giáo hội có nhiều đất đai để thành lập lãnh địa, có quân đội riêng, tào án
riêng.
- Giáo hội có nhiều đất đai để thành lập lãnh địa, có quân đội riêng, toà án riêng.
- Mối quan hệ giữa giáo hội và chính quyền thể hiện tính hai mặt:
+ Sự cấu kết giữa giữa giáo hội và phong kiến trong việc thống trị và bóc lột
quần chúng nhân dân, thể hiện:
* Phong kiến thế tuch trợ lực giáo hội để giữ vững thần quyền;
* Với sự trợ giúp của giáo hội, góp phần giữ gìn trật tự xã hội phong kiến;
* Cả hai thế lực hỗ trợ nhau trong việc đàn áp các phong trào của quần chúng
+ Hai lực lượng này có những lợi ích riêng, xung khắc lẫn nhau
Tồ án giáo hội
• Thế kỷ XI, với uy lực của mình, giáo ồng La Mã và các giáo chủ thường
đứng ra như vị quan toà cao nhất để giải quyết tranh chấp giữa các quốc vương
hoặc giữa các lãnh chúa phong kiến với nhau.
• Tồ án giáo hội chính thức thành lập vào thế kỷ XIII. Năm 1232, Giáo hoàng
La Mã ra quyết định cho các tăng lữ phải giải quyết các vụ việc tà giáo.
• Tồ án giáo hội thường chỉ có một quan tồ
• Tồ án khơng phụ thuộc vào chính quyền phong kiến, khơng dựa vào đạo luật
nào mà chỉ dựa vào Luật lệ thiên chúa giáo và ý muốn chủ quan của một quan
toà tăng lữ.
4. Pháp luật phong kiến Tây Âu
* Nguồn luật
- Tập quán pháp: những tập quán chủ yếu được tập hợp trong bộ luật Xa lích
(cuối thế kỷ V, đầu thế kỷ VI).
- Các quy định dẫn chiếu từ luật La Mã
- Luật pháp của triều đình phong kiến, bao gồm: chiếu, chỉ, mệnh lệnh của nhà
vua.
- Luật lệ của Giáo hội Thiên chúa.
- Luật lệ của các lãnh chúa phong kiến, của chính quyền tự trị ở các thành phố
*Nội dung Pháp luật
a. Hệ thống tư pháp và tố tụng:
• Ngun tắc hoạt động của tồ án: người xử án phải có tài sản ít nhất là bằng
tài sản của người bị xử.
• Hệ thống cơ quan tư pháp:
- Toà án của nhà vua
- Toà án của lãnh chúa
- Tồ án của giáo hội
• Tổ chức luật sư: có ở thời kỳ La Mã; Pháp (thế kỷ XIII), Anh (thế kỷ XIII),
đây là tổ chức hoạt động như những ngành nghề khác trong xã hội.
• Viện cơng tố: xuất hiện ở Pháp thời kỳ vua Phi lip IV (1285 - 1314), sau khi
ra đời của nghị viện Pháp, uỷ viên công tố là thành viên của nghị viện, có chức
năng theo dõi ngân khố quốc gia, giám sát cơng việc tố tụng hình sự. Dần dân
viện cơng tố tách ra khỏi nghị viện. Thế kỷ XVI, XVII Viện công tố được thành
lập và hoạt động ở nhiều nước như Italia, Hà Lan, Đức…
b. Quan hệ pháp lí về tài sản:
- Sở hữu ruộng đất: ban đầu là sở hữu cơng xã, sau dần dần hình thành sở hữu
tư nhân.
- Thời kỳ đầu quan hệ sở hữu được điều chỉnh bằng tập quán pháp
- Từ thế kỷ XI – XII trở về sau luật La Mã được áp dụng sâu rộng
c. Quan hệ về hơn nhân – gia đình:
ở thời kỳ đầu BL Xa lích cấm tục cướp vợ hoặc mua bán vợ. Số tiền mua vợ
được người chồng thay bằng quà cưới, sau đó thành tài sản chung của gia đình.
Phụ nữ đi lấy chồng được mang theo của hồi mơn. Phụ nữ gố được đi lấy
chồng, nhưng phải lấy anh, em trai của chồng; BL Xalích quy định: phụ nữ gố
đi lấy chồng phải có 2 điều kiện: được gia đình chồng cũ ưng thuận; người
chồng mới phải nộp một khoản tiền cho gia đình chống cũ.
Về sau do ảnh hưởng của tôn giáo, luật hơn nhân – gia đình trở nên hà khắc:
khơng được li hơn; phụ nữ mất năng lực pháp lí về tài sản.
Kết luận:
• Pháp luật là phương tiện của nhà nước để đàn áp, bóc lọt quần chúng nhân dân
lao động, bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp phong kiến.
• Pháp luật phong kiến tây Âu kém phát triển so với luật La mã, nguyên nhân:
- Do tình trạng phân quyền cát cứ diễn ra trong thời gian dài
- Nền kinh tế tự cấp, tự túc đã làm cho xã hội khép kín.
- Trình độ dân trí trong xã hội thấp.
d. Luật hình sự
- Duy trì nhièu tập quán của xã hội thị tộc: trả nợ máu
- Về sau cho phép sử dụng tiền chuộc: BL Xa lích quy định phạm tội nào cũng
có thể chuộc bằng tiền, ban đầu số tiền chuộc do các bên thoả thuận, về sau do
luật định.
- Mức hình phạt phụ thuộc vào đẳng cấp của người bị hại và người phạm tội.
- Các tội chống lại tôn giáo, không trung thành với nhà vua hay lãnh chúa, phản
quốc đề được coi là trọng tội.
- Hình phạt mang tính dã man, tàn bạo
- Trong luật chưa có sự phân biệt giữa lỗi cố ý với lỗi vô ý
Nhận xét chung về nhà nước phong kiến
Quá trình chuyển biến sang chế độ phong kiến
- Một số nhà nước phong kiến hình thành thơng qua sự tan rã của chế độ chiếm
hữu nô lệ
- Một số nhà nước phong kiến xuất hiện trên cơ sở sự tan rã của chế độ cộng
sản nguyên thuỷ
- Sự xuất hiện nhà nước phong kiến phương đông và phương tây có sự khác
biệt: + NNPK phương Đơng xuất hiện sớm hơn NNPK phương Tây.
+NNPK phương Đông xuất hiện trên cơ sở của chế độ nơ lệ khơng điển hình;
NNPK phương Tây ra đời trên cơ sở của chế độ chiếm hữu nô lệ đạt đến đỉnh
cao.
• Về cơ sở kinh tế, chính trị - xã hội của nhà nước phong kiến
- Xã hội được kết cấu từ 2 giai cấp: phong kiến và nông dân và một số tầng lớp
khác: thương nhân, thợ thủ công
- Phương Đông: sở hữu nhà nước về đất đao, sở hữu tư nhân không chiếm ưu
thế, giai cấp phong kiến đồng thời cũng là tầng lớp trí thức trong xã hội, điều
này làm cho phương Đông thật sự là những nền văn minh lớn.
- Phương Tây: sở hữu tư nhân về đất đai. Văn hoá, giáo dục bị kìm hãm, xã hội
sống trong vịng lạc hậu.
• Về hình thức và chức năng của nhà nước
- Phương Tây: chủ yếu là phân quyền cát cứ
- Phương Đông: quân chủ trung ương tập quyền
• Pháp luật: pháp luật phong kiến là pháp luật đẳng cấp và đặc quyền
- Hình phạt mang tính dã man, tàn bạo
- Pháp luật mang nặng tính tơn giáo
Câu 1: Hãy so sánh những nội dung cơ bản của 02 bộ luật Lưỡng Hà và Ấn
Độ thời kỳ cổ đại: Bộ luật Hammurabi và bộ luật Manu?
Trả lời:
Bộ Luật Hammurabi là bộ luật thành văn sớm nhất được xây dựng trên cơ sở
lấy từ những tiền lệ pháp của người Xume, những quy định của tòa án và cá
phán quyết của tòa án ca lúc bây giờ, và mệnh lệnh chiếu chỉ của nhà vua bởi
vậy mà Bộ Luật chú trọng tập trung điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội lúc
bấy giờ. Tuy rằng Bộ Luật Manu cùng được xây dựng từ những luật lệ, những
tập quán của giai cấp thống trị nhưng nó lại được các giáo sĩ Bà La Môn tập hợp
dưới dạng trường ca, được trình bày dưới dạng câu trường ca, tuy có điều chỉnh
quan hệ pháp luật nhưng nó cịn bao gồm rất nhiều vấn đề như chính trị, tôn
giáo, quan niệm về thế giới và vũ trụ, bởi vậy Bộ Luật bao gồm 2685 điều trong
khi đó Hammurabi chỉ có 282 điều. Tuy nhiên, bộ Luật Hammurabi lại điều
chỉnh các quan hệ xã hội tiến bộ hơn rất nhiều so với Manu.
– Nội dung:
+ Chế độ hợp đồng: hai bộ luật điều có phần điều kiện có hiệu lực hợp
đồng, Bộ Luật Manu chủ yếu đề cập tới vấn đề hợp đồng vay mượn, bộ luật
Hammurabi cịn nói đến vấn đề hợp đồng lĩnh canh ruộng đất, hợp đồng gửi
giữ, cả hai bộ Luật đều dùng chính bản thân con người làm vật bảo đảm, tuy
nhiên bộ luật Hammurabi có những quy định cũng như chế tài rõ ràng hơn so
với Manu, bộ luật Manu có tính phân biệt rõ ràng đối với đẳng cấp cao đó là Bà
La Mơn.
+ Chế định hơn nhân và gia đình: Bộ luật Manu có sự bất bình đẳng rõ rệt
giữa vợ và chồng, hơn nhân mang tính chất mua bán, người vợ được người
chồng mua về, trong khi đó bên bộ luật Hammurabi có thủ tục kết hơn, tuy cũng
có sự bất bình đẳng nhưng bộ luật vẫn có điều khoản bảo vệ người phụ nữ.
+ Chế độ thừa kế: về cơ bản 2 bộ luật đều có 2 hình thức thừa kế là: theo
luật pháp và theo di chúc, đều thừa kế theo tài sản người cha. Bên bộ luật
Hammurabi có thêm phần Điều kiện tước quyền thừa kế.
+ Chế độ hình sự: bộ luật Manu tôn trọng chứng cứ và sự thật khách
quan, nhưng giá trị của chứng cứ luôn phụ thuộc vào phân biệt đẳng cấp và giới
tính rõ ràng: khoan dung cho người đẳng cấp trên và trừng trị thẳng tay đối với
kẻ đẳng cấp dưới có hành vi xâm phạm tới đẳng cấp trên, bên bộ luật
Hammurabi có quan niệm hình sự là trừng trị tội lỗi, mang tính chất trả thù
ngang nhau tuy nhiên chỉ là tương đối. Các hình thức xử phạt của hai bộ Luật
đều rất dã man.
+ Chế độ tố tụng: Bộ luật Manu thì coi trọng chứng cứ nhưng chứng cứ
lại phụ thuộc vào giới tính và đẳng cấp, chứng cứ của đẳng caapscao có tính
quyết định. Bộ luật Hammurabi cũng coi trọng chứng cứ nhưng ko phân biệt
đăng cấp và điều quan trọng là được xét xử cơng khai rất tiến bộ.
=> Có thể thấy, bộ luật Manu mang tính phân biệt đẳng cấp rất rõ rệt, mọi điều
khoản đều ủng hộ đẳng cấp trên. Bộ Luật Hammurabi tuy cũng có sự phân biệt
nhưng cùng với đó cũng có tính dân chủ nhất định, cũng có sự bảo vệ với người
dân.
Câu 2: Vì sao nói, pháp luật thời kỳ Ấn độ cổ đại bảo vệ chế độ đẳng cấp hà
khắc?
-Chế độ đẳng cấp Vacna là chế độ đẳng cấp điển hình trong lịch sử thế
giới cổ đại. Ra đời sớm, tồn tại bền vững trong chế độ nơ lệ và cả phong
kiến.Có 4 đẳng cấp: đẳng cấp Bà la môn: tăng lữ của đạo BàlamonL; đẳng cấp
Ksatoria: Vua quan và những người trong quân đội; đẳng cấp Vaisia: những
người làm nông nghiệp, buôn bán và làm một số nghề thủ công nghiệp mà nghề
đó được coi là cao quý; đẳng cấp Suda: gồm những người cùng khổ nhất trong
xã hội. họ không phải nô lệ. Nô lệ không được xếp vào đẳng cấp nào.
-Chế độ Vacna không chỉ được điều chỉnh bằng phong tục tập quán, quy
tắc đạo đức, mà còn được quy định đầy đủ, chi tiết và chặt chẽ trong pháp luật
( bộ luật Manu). Chế độ đẳng cấp hà khắc nhất được thể hiện rõ nhất ở chế định
hình sự của bộ luật Manu. Nguyên tắc:Khoan dung đối với kẻ chà đạp lên
quyền lợi của kẻ dưới, trừng trị thẳng tay đối với người xâm phạm đến tính
mạng, tài sản, danh dự của người có địa vị xã hội cao hơn. Một số tội nặng
- Tội trộm cắp: hình phạt rất nặng: trộm cắp vào ban đêm hay khoét ngạch vào
nhà bị chặt tay
hoặc ngồi trên cọc nhọn (Đ 276). Phạm tội lần 3 bị tử hình (Đ 227).
- Trộm cắp tài sản của vua, đình chùa, bị tử hình không cần xét xử.
- Tội xâm phạm đến quyền lực nhà nước như gây rối trong dân chúng, sẽ bị
thiêu chết.=>Có thể thấy, hình phạt mang tính dã man, nhằm duy trì sự bất bình
đẳng giữa các đẳng cấp trong xã hội.
Qua các chế định của bộ luật Manu, nôi dung bao trùm và rõ nét nhất là
sự phân biệt đẳng cấp. Một số quy định bảo vệ đẳng cấp: quy định chỉ nên kết
hôn giữa những người cùng đẳng cấp. Đàn ơng có thể lấy vợ ở đẳng cấp dưới.
Nếu Su-đra xúc phạm Bà-la-môn sẽ bị cắt lưỡi, dùng đinh dài bằng 10 ngón tay,
nung đỏ chọc vào miệng hoặc rót dầu xơi vào tai; nếu giết một người Bà-la-môn
bị xử tội rất nặng, nếu giết một người Ksa-tơ-ria thì bị xử bằng ¼ tội giết một
người Bà-la-mơn; nếu giết chết một người Su-đra thì chỉ bị xử bằng 1/16 tội giết
một người Bà-la-môn. Ngược lại, nếu người Bà-la-môn phạm những tội ác dã
man cũng không bị xử tội chết.
Như vậy, có thể nói sự phân biệt đẳng cấp chính là sự phân biệt về quyền
lợi, nghĩa vụ, phân biệt đối xử rạch ròi trong các giai tầng của xã hội Ấn độ cổ
đại. Đây cũng là một hiện tượng đặc biệt của pháp luật Ấn độ cổ đại. Chế độ
đẳng cấp này được duy trì cho đến tận thời kỳ cận đại, làm cho xã hội cổ, trung
đại Ấn độ trì trệ, khơng phát triển được.