Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

THẢO LUẬN tên đề tài đặc điểm văn hoá cồng chiêng trong vùng văn hoá tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.68 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường Đại học Thương mại Khoa
Tiếng Anh
--------

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Tên đề tài: Đặc điểm văn hoá cồng chiêng trong
vùng văn hoá Tây Nguyên
Giáo viên hướng dẫn: Kiều Thu Hương
Lớp học phần: 2244ENTI0111
Nhóm: 4

Hà nội, tháng 9 năm 2022


BÀI THẢO LUẬN NHĨM 4 – CƠ SỞ VĂN HỐ VIỆT
NAM
A.Tên thành viên và nhiệm vụ
STT

Họ tên

1
Ngô Thị Thuỳ Linh
2Phạm Mai Linh
3
Lê Thị Cẩm Ly
4

Nguyễn Phương Mai
5


Vũ Thị Ngọc Mai
6Nguyễn Thị Mạnh
7
Lý Cờ Mẩy
8
Hoàng Lê Minh
9
Nguyễn Thị Huyền My
10
Nguyễn Phương Nam
11
Trần Thị Kim Ngân
12
Lê Hồng Ngọc
13
Nguyễn Bùi Linh Nhi
14
15
16

Nguyễn Thị Hồng Nhi
Nguyễn Yến Nhi
Lưu Thị Hồng Như

B.Nội dung

8

Nhiệm vụ Điểm đánh giá
(thang điểm

10)

Nội dung
phần 1
chương1
Powerpoint
Sáng tạo
Thuyết trình
Nội dung p
Powerpoint
Thuyết trình
Thuyết trình
Nội dung
phần 2
chương 1
Nội dung p
Word
Word


Chương 1: Khái quát chung về cồng chiêng trong văn hố
Tây Ngun
1. Hình dáng/cấu tạo và vật liệu.
- Hình trịn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm
đến 60 cm, ở giữa có hoặc khơng có núm. Người ta dùng dùi gỗ
có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để đánh cồng, chiêng. Cồng,
chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao.

- Cồng có ba loại. Những chiếc cồng bị treo ít nhiều phẳng, các
đĩa tròn bằng kim loại treo theo phương thẳng đứng bằng dây



thừng đi qua những lỗ gần rìa đỉnh. Chiêng hoặc núm cồng có
một đỉnh trung tâm và thường bị treo và chơi theo chiều ngang.
Chiếc cồng có hình bát, và nghỉ ngơi trên đệm và thuộc về
chuông hơn cồng chiêng.

8


- Có sự khác nhau về cồng chiêng của các vùng / địa phương:
 Bộ cồng chiêng của người Gia Rai - Ba Na rất bề thế, có từ
12 đến 18 cái. Cách đánh, âm luật theo từng loại lễ hội, song
cồng chiêng Gia Rai - Ba Na thiên về chỉ điệu. Một bè trầm,
âm sắc đầy đặn, vững chãi, hùng tráng vang lên từ các cồng


(có núm). Nổi trên bè trầm là giai điệu thánh thót, âm sắc
đanh, gọn, lảnh lót của chiêng (khơng có núm).

8


 Dàn cồng chiêng ÊĐê có nét riêng, gồm Goong Pế (có núm
đánh bằng dùi, gồm 3 chiếc); Goong Ca (chiêng đánh bằng
tay, gồm 6 chiếc) và có thêm bộ Goong Lú (đàn đá). Âm
thanh của dàn cồng chiêng ÊĐê mang đậm tính tiết tấu phức
hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn, âm sắc đan xen nối tiếp
nhau. Dàn cồng chiêng ÊĐê thường được ngồi tấu trên chiếc
Kpan (ghế dài) truyền thống.


 Cồng chiêng M’nông cường độ không lớn, tốc độ âm thành
khá nhanh nhưng bản nhạc lại là một cuộc đối thoại vui vẻ
của những cái chiêng. Chiêng có núm được gọi là cồng và
chiêng khơng có núm gọi là chiêng bằng. Cồng cấu tạo gồm
3 bộ phận: núm, mặt và thành cồng. Trong đó: núm là bộ


phận được làm vồng theo hình bán cầu ở chính giữa mặt
cồng, vị trí dùng để gõ, tạo ra âm thanh vang, ngân dài và có
tiếng rung; mặt cồng là một mặt phẳng xung quanh núm, có
hình vịng trịn - đây là bộ phận quyết định âm thanh như độ
cao, sự tròn tiếng, đầy tiếng và độ vang; thành cồng là một bộ
phận nối liền với mặt thành một bản rộng bao quanh và khum
vào trong. Khi thì cái này, khi cái kia, sóng lên, đan xen
nhau, gọi đáp nhau nghe như tiếng gió thổi, tiếng nước chảy,
tiếng rừng cây xào xạc, tiếng gia súc dưới sàn nhà và trên hết
là tiếng người. Cồng chiêng M’nông giàu chất tự sự.

8


Bộ chiêng 6 chiếc

Bộ chiêng 3 chiếc

 Dàn cồng chiêng của người Xơđăng một bộ có tám chiếc, của
người Giẻ Triêng một bộ có ba chiếc, người Brâu có Chiêng
Tha gồm 2 chiếc hoà tấu cùng đàn T’Rưng .



(Nguồn: />name=Content&op=details&mid=3047#ixzz7e7mdHYcf )

2. Dấu vết về sự xuất hiện của cồng chiêng.
Từ đàn đá đến cồng chiêng
Nghiên cứu trên trống đồng Đơng Sơn có niên đại khoảng 2 thiên
niên kỷ, khảo cổ học tìm thấy các nét chạm khắc thể hiện người đánh
cồng chiêng với dáng dấp của đồng bào Tây Nguyên. Các họa tiết
người đánh chiêng trên trống đồng Đơng Sơn khơng có gì khác với
người Tây Ngun hiện nay.

8


So sánh cách thức diễn tấu cồng chiêng trên trống đồng với cách diễn
tấu cồng chiêng ở các nước trong khu vực như Lào, Campuchia hoặc
Thái Lan, Malaysia có sự khác biệt: Trên trống đồng Đơng Sơn mỗi
hình ảnh nghệ nhân diễn tấu tương ứng với một cái chiêng, đến nay
người Tây Nguyên vẫn thể hiện truyền thống đánh chiêng bằng cách
đó.
Riêng các nước trong khu vực, nghệ nhân thường xếp chiêng thành
dàn để diễn tấu. Căn cứ hình thể, họa tiết trên trống đồng có thể
khẳng định cồng chiêng của người Tây Nguyên đã tồn tại từ buổi sơ
khai khi loài người bước sang giai đoạn khởi sắc của thời đại kim khí
cách ngày nay trên dưới 2000 năm.

Âm nhạc học và dân tộc học nhận định, cồng chiêng Tây Nguyên ra
đời sau đàn đá, chiêng đá (3.000 – 2.500 năm), tiếp đó là cồng đồng,
chiêng đồng, trống đồng.... Theo luật tiến hóa xã hội - sự chuyển tiếp



từ thấp lên cao, người Tây Nguyên cổ đại đã chuyển sang giai đoạn
phát triển của thời đại kim khí, sử dụng nhạc khí đồng thau.
Nhạc cụ đồ đá dần lãng quên, theo năm tháng vùi sâu dưới lòng đất,
dưới sông suối mà người dân địa phương và các nhà khảo cổ khai
quật, tìm thấy nhiều nơi trên đất Tây Nguyên. Với hệ sắc âm hiện đại
hơn, trọng lượng nhẹ, dễ cầm nắm, cơ động khi diễn tấu, khó vỡ và
dễ bảo quản... cồng chiêng đã được người Tây Nguyên cổ đại cách
ngày nay khoảng 2000 năm trọng dụng, trở thành nhạc cụ độc tôn,

8


thay thế nhạc cụ đồ đá, tiếp nối thời đại đồng thau xuyên suốt cho
đến ngày nay.

Theo các nhà Dân tộc học, cồng chiêng hình thành cùng với sự xuất
hiện tín ngưỡng đa thần từ xa xưa, gắn bó hữu cơ với tín ngưỡng dân
tộc, thuần phong mỹ tục trong tập quán sinh hoạt văn hóa truyền
thống có từ khi người tiền sử Tây Nguyên biết làm lúa rẫy, chăn nuôi,
trồng trọt. Họ tổ chức lễ nghi cúng tế, cầu thần linh ban điều tốt lành
cho mùa màng và cồng chiêng đã được sử dụng trong các nghi lễ ấy.
Tiếp nối truyền thống cổ xưa, đến nay hầu như lễ hội nào cũng có âm
hưởng cồng chiêng.
Từ lễ lên rẫy đến lễ mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho... đều được người
Tây Nguyên tổ chức long trọng, trang nghiêm và có tiếng cồng
chiêng ngân vang. Ở cuộc đời người, từ bao đời nay khi mới sinh ra


cồng chiêng đã có trong lễ thổi tai, lớn lên có ở lễ trưởng thành và

cuối đời về với cõi vĩnh hằng cồng chiêng có trong lễ bỏ mả…
Ở phương diện âm nhạc, so sánh với các di sản văn hóa đã được
UNESCO cơng nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại
như Nhã nhạc cung đình Huế và Đờn ca tài tử Nam bộ thì cồng
chiêng Tây Nguyên tồn tại với chiều dài lịch sử lâu đời hơn, mang
dấu ấn văn hóa độc đáo, riêng biệt và tiêu biểu của vùng sơn nguyên;
thể hiện tính trường tồn, bất hủ, vĩnh hằng suốt lịch sử hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.

8


Người ta cũng tìm thấy cồng chiêng trong sử thi Tây Nguyên, minh
chứng thêm về sự trường tồn của cồng chiêng trong lịch sử hình
thành và phát triển xã hội cư dân bản địa ở vùng đất này: “Đánh cho
tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua
nhà vọng lên trời. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào
cành đến phải ngã xuống đất...”.
(Nguồn: Từ đàn đá đến cồng chiêng (baodaknong.org.vn)


8



×