Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

BÁO CÁO THỰC TẾ Môn lịch sử ngoại giao và chính sách đối ngoại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.58 MB, 42 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ

BÁO CÁO THỰC TẾ
Mơn lịch sử ngoại giao và chính sách đối ngoại Việt Nam
Tìm hiểu các địa danh lịch sử gắn với sự nghiệp ngoại giao Việt
Nam tại NINH BÌNH – THANH HĨA – NGHỆ AN – HÀ TĨNH

Hà Nội, tháng 9, năm 2022

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC...............................................................................................2
MỞ ĐẦU................................................................................................2

NỘI DUNG...............................................................................................4

1.1. Ngày 1 (16/9/2022): Hà Nội – Nam Đàn – Cửa Lò:...................4

II. Giới thiệu và vai trò của từng địa danh lịch sử trong sự nghiệp
đấu tranh ngoại giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:.................5

2.1. Giới thiệu về quê Bác (Nghệ An).............................................5
2.1.1. Khái quát về Nam Đàn – Kim Liên:.......................................5
2.2.2. Cụm di tích tại quê ngoại - làng Hồng Trù:.........................8
2.2. Vai trị của q Bác trong sự nghiệp đấu tranh ngoại giao, sự
nghiệp cách mạng của Việt Nam:.................................................16
2.2. Nhà lưu niệm Nguyễn Du (Hà Tĩnh):......................................19
2.2.1. Giới thiệu về nhà lưu niệm Nguyễn Du:..............................19


2.2.2. Vai trò của nhà lưu niệm Nguyễn Du trong sự nghiệp đấu
tranh ngoại giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:................22
2.3. Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh):..................................................23
2.3.1. Giới thiệu về Ngã ba Đồng Lộc:..........................................23
2.3.2. Vai trò của Ngã ba Đồng Lộc trong sự nghiệp đấu tranh
ngoại giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:.........................25
2.4. Đền thờ Bà Triệu (Thanh Hóa):..............................................29
2.4.1. Giới thiệu về khu di tích đền thờ Bà Triệu:..........................29
2.4.2. Vai trị của khu di tích đền thờ Bà Triệu trong sự nghiệp đấu
tranh ngoại giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:................31
2.5. Cố đơ Hoa Lư (Ninh Bình):.....................................................32
2.5.1. Giới thiệu về cố đơ Hoa Lư:................................................32
2.5.2. Vai trị của cố đơ Hoa Lư trong sự nghiệp đấu tranh ngoại
giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:...................................36
III. Kiến thức lịch sử ngoại giao rút ra sau chuyến đi:.........................38
KẾT LUẬN............................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................40

MỞ ĐẦU
Lịch sử đất nước luôn là đề tài được mọi người quan tâm và chú trọng
hơn bao giờ hết bởi nó mang trong mình những giá trị thiêng liêng, cao cả
mà khơng lĩnh vực nào có thể sánh bằng. Và để có thể cảm nhận cũng như
tìm hiểu sâu sắc hơn nữa về lịch sử nước nhà, trong tuần qua, từ ngày 16/9
2


đến ngày 18/9 năm 2022, tôi và các bạn lớp Thơng tin đối ngoại cùng Khoa
Quan hệ quốc tế khóa 40, 41 đã có một chuyến thực tập thực tế tìm hiểu
lịch sử, văn hóa, danh thắng tại các địa điểm Ninh Bình – Thanh Hóa –
Nghệ An – Hà Tĩnh. Đối với tôi, đây là một chuyến đi đầy ý nghĩa và là

một cơ hội tuyệt vời để mình có thể tìm hiểu, trải nghiệm sâu sắc hơn về
những vùng đất linh thiêng, đẹp đẽ, mang đậm dấu ấn lịch sử của q
hương, đất nước.
Hành trình của chúng tơi chủ yếu dừng chân tại các địa điểm ở miền
Trung như: Cửa Lị (Thanh Hóa); Q Bác (Nam Đàn – Nghệ An); Nhà lưu
niệm Nguyễn Du (Hà Tĩnh); Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh); Đền Bà Triệu
(Thanh Hóa) và điểm đến cuối cùng là Cố đơ Hoa Lư (Ninh Bình). Mỗi địa
điểm trải dài qua các thời đại lịch sử khác nhau: từ thời kì dựng nước,
phong kiến, đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và ở mỗi thời kỳ lại
có những phương hướng đối ngoại khác nhau. Tất cả đều mang những ý
nghĩa, dấu ấn lịch sử oai hùng, nơi đã sản sinh và ghi danh những người
anh hùng của thời đại, của dân tộc.
Mỗi điểm đến nơi đây để lại trong tâm khảm sinh viên chúng tôi
những cung bậc cảm xúc khác nhau, chưa lúc nào chúng tôi cảm thấy quý
trọng khoảng thời gian này hơn bao giờ hết. Đây khơng chỉ là dịp giúp
chúng tơi có thể trải nghiệm, tiếp thu thêm kiến thức về lịch sử và ngoại
giao của dân tộc trong một số thời kỳ lịch sử mà còn là khoảng thời gian
giúp các bạn trong lớp, trong khoa gắn kết với nhau hơn sau gần 2 năm dãn
cách học tại nhà do đại dịch Covid-19 hoành hành. Đây thực sự là một
chuyến đi đầy bổ ích, mang lại nhiềm kỉ niệm thân thương của tuổi thanh
xuân tươi đẹp trong mỗi bạn sinh viên. Đặc biệt, qua chuyến đi, chúng tơi
cịn có thể tham quan, tìm hiểu, đặt chân lên những vùng đất mới.
Cảm ơn Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các giảng viên, công ty du
lịch Asean Tour và các bạn sinh viên khoa Quan hệ quốc tế đã cùng nhau
3


hỗ trợ, trải nghiệm, tham quan giúp cho chuyến đi được diễn ra hồn tồn
thành cơng, tốt đẹp.
NỘI DUNG

I. Lịch trình chuyến đi:
1.1. Ngày 1 (16/9/2022): Hà Nội – Nam Đàn – Cửa Lò:
Sáng:
+ 4h45: Mọi người tập trung tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền số 36
Xuân Thủy để điểm danh.
+ 5h00: xuất phát đi Nghệ An. Đoàn dừng chân nghỉ ngơi, ăn sáng tại Hà
Nam.
+ 11h30: tới Thành phố Vinh, Đoàn ăn trưa tại khách sạn Mường Thanh.
Chiều:
+ 13h45: Cả đoàn xuất phát đi Làng Sen – Làng Hồng Trù (Nam Đàn –
Nghệ An). Sau đó, cả đồn về khách sạn Thái An (Cửa Lị) nhận phịng
nghỉ ngơi, thư giãn, tắm biển.
+ 19h00: Ăn tối tại tầng 1 nhà hàng.
Tối: Mọi người tự do dạo chơi, ngắm cảnh đẹp Cửa Lò về đêm.
1.2. Ngày 2 (17/9/2022) : Cửa Lò – Nhà lưu niệm Nguyễn Du – Ngã
ba Đồng Lộc – Quảng trường Hồ Chí Minh – Cửa Lị:
Sáng:
+ 6h30: Mọi người ăn sáng tại khách sạn
+ 7h15:
• Đoàn 1 xuất phát đi tuyến khu tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du –
Ngã ba Đồng Lộc.


Đồn 2 xuất phát đi tuyến Ngã ba Đồng Lộc – khu tưởng niệm Đại
thi hào Nguyễn Du. Cả hai đoàn cùng về ăn trưa tại nhà hàng khách
sạn Mường Thanh (Thành phố Vinh).

Chiều:
+ Cả đoàn thăm và chụp ảnh lưu niệm tại Quảng trường Hồ Chí Minh –
4



Thành phố Vinh, sau đó trở về Cửa Lị nghỉ ngơi, thư giãn, tắm biển.
+ Tuy nhiên, lịch trình này trên thực tế đã không thể thực hiện được do thời
gian di chuyển buổi sáng khá dài và dày, cộng với việc thời tiết khá oi bức,
nắng nóng khiến sức khỏe mọi người khơng được đảm bảo. Chính vì vậy,
cả đoàn đã quyết định sau khi ăn trưa tại khách sạn Mường Thanh sẽ trở về
khách sạn để nghỉ ngơi.
Tối:
+ Mọi người ăn tối tại khách sạn, sau đó tham gia chương trình giao lưu
văn nghệ Gala Dinner với sự góp mặt của các thầy cơ giảng viên, cơng ty
Asia Tour, cùng những màn trình diễn đầy ấn tượng, cảm xúc và không
kém phần sôi động đến từ các bạn sinh viên khoa Quan hệ quốc tế.
1.3. Ngày 3 (18/9/2022): Cửa Lò – Đền Bà Triệu – Hoa Lư – Hà Nội:
Sáng: 6h00, cả đồn ăn sáng, trả phịng và lên đường về Ninh Bình, trên
đường về thăm quan và lễ tại Đền Bà Triệu.
Chiều:
+ 14h00: Cả đoàn thăm Di tích Cố đơ Hoa Lư và tìm hiểu lịch sử Việt
Nam.
+ 16h00: Cả đoàn lên xe về Hà Nội.
+ 18h30: Về tới Hà Nội và kết thúc chuyến đi.
II. Giới thiệu và vai trò của từng địa danh lịch sử trong sự nghiệp đấu
tranh ngoại giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:
2.1. Giới thiệu về quê Bác (Nghệ An)
2.1.1. Khái quát về Nam Đàn – Kim Liên:
Chắc hẳn trong mỗi chúng ta ai cũng nhớ câu ca:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Mảnh đất địa linh nhân kiệt với núi Hồng, sông Lam của dải đất
miền Trung đầy nắng và gió đã sinh ra vị lãnh tụ mà trong tiềm thức mỗi

con người đất Việt đều khơng bao giờ qn đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sẽ
thật là thiếu xót nếu trong chuyến hành trình du lịch, trải nghiệm thực tế về
các tỉnh miền Trung của du khách thiếu đi quý hương của Người.
5


Nghệ An nằm tại vùng Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp với tỉnh Thanh Hóa,
phía Nam giáp với tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp với nước Cộng hịa Dân chủ
Nhân dân Lào, phía Đơng giáp với biển Đơng bao la. Nghệ An mang theo
mình những khó khăn của thời tiết khí hậu, song cũng vì thế mà tạo nên vẻ
đẹp của con người cần cù, chịu khó.
Trong bức tranh non xanh nước biếc của xứ Nghệ, Nam Đàn nổi lên
với những đường nét chấm phá của vùng sơn thủy hữu tình – nơi đã sinh ra
cho dân tộc một bậc vĩ nhân kiệt xuất, được người đời tôn vinh là Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Viết về mảnh đất này, Sấm ký Trạng Trình có câu:
“Đụn Sơn phân giải
Bị Đái thất thanh
Thủy đáo Lam thành
Nam Đàn sinh thánh”
Tạm dịch nghĩa là: “Khi núi Đụn chẻ đơi, khe Bị Đái mất tiếng,
sơng Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc
thánh nhân”. Đầu thế kỉ XX, nhà yêu nước kiệt xuất Phan Bội Châu đã
phân giải lời Sấm ký đó cho chiến hữu của mình rằng: “Ơng thánh Nam
Đàn ứng với câu Sấm đó chính là Nguyễn Ái Quốc”.
Nam Đàn nằm ở hạ lưu sông Lam, là vùng đất bán sơn địa, nằm gọn
giữa ba dãy núi lớn: Đại Huệ ở phía Bắc, Thiên Nhẫn ở phía Nam , Hùng
Sơn ở phía Tây Bắc, ở giữa có con sông Lam vừa thơ mộng, vừa dữ dội
chảy qua. Sông Lam là cái nôi sinh ra tục hát đỏ đưa nổi tiếng, là bờ bãi
của những nương dâu xanh ngát là nguyên liệu cho nghề chăn tằm dệt vải
rồi để từ đó sinh ra tục hát phường vải làm say đắm lòng người. Bởi thế mà

dù xa quê từ nhỏ, hơn 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, Bác vẫn nhớ như
in câu hát quê nhà:
“À... ơi... chơ ai biết nước sơng Lam răng là trong, là đục
Thì mới biết sống cuộc đời răng là nhục, là ơ vinh.
Thuyền em lên thác xuống ơ… ghềnh
6


Nước non là nghĩa, là tình ai ơi...”
Với vị trí trung tâm của vùng Nghệ Tĩnh và phần nào vùng Bắc
Trung Bộ, từ hàng ngàn năm nay, Nam Đàn là mảnh đất đã sản sinh ra
nhiều anh hùng dân tộc, nhiều nhà văn, nhà khoa học, nhiều chiến sĩ yêu
nước. Ở thời nào, người dân Nam Đàn cũng sống rất vẻ vang, đặc biệt, vào
những lúc Tổ quốc lâm nguy, trăm nhà điêu đứng thì xứ sở này lại xuất
hiện những bậc anh hùng hào kiệt cứu dân giúp nước như: Mai Hắc Đế,
Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh… Chính vì vậy mà từ xưa vùng đất này đã
có tiếng là địa linh nhân kiệt.
Kim Liên là mảnh đất nằm ở trung tâm huyện Nam Đàn, là nơi sinh
ra Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong căn nhà nhỏ, dưới lũy tre xanh, nền
nhà, sân phơi, lối ngõ, đường làng còn in đậm dấu chân Bác trong những
ngày còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung. Kim Liên thời Trần là trại sen, sau
đó đổi là làng Sen. Nơi đây đã từng là những đồng Sen Cạn, đồng Sen Sâu,
chợ Sen, ao Sen, cồn Sen. Khi hè đến, sen mọc tươi tốt, “lá xanh, bông
trắng, nhụy vàng” tỏa hương thơm ngào ngạt, tơ điểm cho cảnh trí thiên
nhiên của Kim Liên. Tên “Sen” của làng từ đó mà ra. Từ xưa, ca dao làng
đã lưu truyền:
“Chiều chiều ra đứng cồn sen
Bạch Liên trắng bạch, hồng Liên đỏ hồng”.
Tuy đời sống đói nghèo nhưng bà con nơi đây vẫn cố gắng chắt chiu
nuôi con ăn học: “Học dăm ba chữ để làm người, để cúng giỗ, để tế tổ tiên

và viết văn khế.” Chính vì tư tưởng này mà Kim Liên đã hình thành một
tầng lớp nho sĩ, tri thức bình dân khá đơng đảo. Ca dao có câu: “ Ngọc
Đình thì lắm bị to, Kim Liên thì lắm nhà nho dài quần”.
Về với Nam Đàn, chúng ta không thể không về thăm quê Bác. Khu
di tích Kim Liên, nơi ghi dấu tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tái
hiện lại qua các di tích về Người. Sau lũy tre xanh của làng Chùa và làng
Sen vẫn còn nguyên nếp nhà tranh giản dị, những kỉ vật thân thương
7


nhuộm màu thời gian, hơn một nửa thế kỉ đã đi vào lịch sử nhân loại, trở
thành một tài sản vô giá của dân tộc. Tất cả những di sản ấy đã phần nào tái
hiện cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hóa của thế giới, một người con bậc nhất của xứ sở Lam
Hồng và của đất nước Việt Nam.
2.2.2. Cụm di tích tại q ngoại - làng Hồng Trù:
Làng Hồng Trù hay cịn gọi là làng Chùa thuộc xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đây là quê hương của thân mẫu Bác Hồ - cụ bà
Hoàng Thị Loan, cũng chính là nơi cụ Nguyễn Sinh Sắc được ông bà ngoại
của Bác nhận nuôi dưỡng, giáo dục thành tài. Cũng chính tại nơi này, cha
mẹ bác nên duyên vợ chồng và sinh ra ba người con ưu tú, trong đó có một
người con kiệt xuất nhất của dân tộc, đó chính là Bác Hồ kính u của
chúng ta.
Cụm di tích Hồng Trù nằm gọn trong khn viện rộng khoảng
3.500m² bao gồm: nhà của cụ Hoàng Xuân Đường - ơng ngoại của Bác,
nhà thờ chi nhánh họ Hồng Xn và ngơi nhà nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ sống tại quê ngoại từ lúc lọt lịng cho tới
5 tuổi, nhưng hình ảnh quê ngoại, đặc biệt là những kỷ vật gắn bó với tuổi
thơ êm đẹp vẫn ln vẹn ngun trong tâm trí của Người. Ngay từ bé, tại
mảnh đất Hồng Trù, Nguyễn Sinh Cung đã cảm nhận được sự dạy bảo ân

cần của ơng bà ngoại, tình cảm thương u của cha mẹ đối với mình. Mọi
kỷ vật trong ngơi nhà vẫn cịn đó. Án thư nơi cụ Nguyễn Sinh Sắc thường
dạy các con học, chiếc khung cửi - nơi người mẹ tảo tần cả đời vì chồng vì
con Hồng Thị Loan vẫn ngồi dệt vải, phản gỗ nơi các nhà nho yêu nước
thường đến bàn chuyện thời cuộc nước nhà với cụ Nguyễn Sinh Sắc… tất
cả còn nguyên vẹn với thời gian.

8


Con đường nhỏ từ cổng dẫn vào gian nhà của Ông Ngoại Bác

Khi về thăm làng Hoàng Trù, điểm đầu tiên mà chúng ta sẽ ghé vào
là ngôi nhà cụ Hồng Đường – ơng ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngơi
nhà gồm 5 gian và 2 chái, trong đó 3 gian ngồi thơng với nhà thờ rất
thống mát. Bộ phản kê ở gian thứ nhất là nơi cụ Đường dạy học. Gian thứ
hai có bộ tràng kỷ bằng tre, chiếc án thư với những dụng cụ dạy học như:
bút lơng, nghiên mực… Gian thứ ba có bộ phản dùng làm nơi nghỉ ngơi
của thầy và trò. Hai gian còn lại là nơi nghỉ ngơi của cụ bà và là nơi sinh
hoạt của gia đình.

9


Bộ án thư tràng kỷ - nơi tiếp khách của gia đình với những dụng cụ dạy
học như bút lơng, nghiên mực ...

Phía sau nhà cụ Hồng Đường, là nhà thờ chi nhánh họ Hồng Xn.
Cụ Hồng Đường – ơng ngoại Chủ tịch Hồ Chí Minh là hậu duệ thứ 18 của
dịng họ Hồng Xn đã dựng ngơi nhà thờ này để thờ cố nội, ông nội và

thân phụ là Hoàng Cương. Cụ Hoàng Đường qua đời năm 1893. Hiệu bụt
của cụ do ông Nguyễn Sinh Sắc viết cũng được bài trí thờ ở đây. Ngơi nhà
được hồn thành năm 1881 theo kiểu tứ trụ bằng gỗ lim, gồm ba gian có
cửa, bàn hoa song điện, lúc đầu lợp tranh, mãi đến năm 1930 mới được tu
sửa và lợp mái ngói như hiện nay.
10


Nhà thờ chi nhánh họ Hồng Xn

Tiếp đến, ở góc vườn phía Tây nhà cụ Hồng Đường là ngơi nhà
tranh 3 gian của cụ Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan khi hai người
đã kết hôn. Năm 1883, để chuẩn bị cho lễ thành hôn của hai con Nguyễn
Sinh Sắc và Hồng Thị Loan, ơng Hồng Xn Đường cho dựng cho một
ngôi nhà tranh 3 gian. Ngôi nhà nhỏ ba gian đơn sơ này là nơi mà gia đình
Bác Hồ có những năm tháng đơng đủ, đầm ấm, hạnh phúc nhất và cũng là
nơi ghi dấu kỉ niệm êm đềm cho tuổi ấu thơ của Bác. Chính tại nơi đây, ba
anh em Bác đã cất tiếng khóc chào đời và sống những năm tháng đầu tiên
trong vòng tay yêu thương của ông bà ngoại.

11


Hai gian nhà đầu có nhiều kỉ vật của nhà Bác Hồ. Sau bức màn vải
nhuộm nâu, có chiếc giường nhỏ bằng gỗ xoan, nếp nứa, trải chiếu mộc là
nơi nghỉ của mẹ Bác. Chính trên chiếc giường đơn sơ, nhỏ bé này bà có
cơng sinh ra ba người con yêu nước cho Tổ quốc Việt Nam. Một năm sau
ngày lấy chồng, bà Hoàng Thị Loan sinh ra con gái đầu tiên là bà Nguyễn
Thị Thanh. Bốn năm sau, bà sinh cậu Nguyễn Sinh Khiêm. Cũng tại nơi
đây vào một buổi sáng mùa hè ngày 19 tháng 5 năm 1890, cậu bé Nguyễn

Sinh Cung cất tiếng khóc chào đời trong vịng tay u thương của ơng bà
ngoại. Năm năm đầu tiên của tuổi ấu thơ, Bác đã sống trong sự yêu thương
đùm bọc của ông bà ngoại và cha mẹ, là nơi ươm mầm cho nhân cách tốt
đẹp và lý tưởng cao quý trong Người.
Ngày tần tảo ngoài đồng, đêm đêm dưới ngọn đèn dầu, bà Hoàng Thị
Loan lại ngồi vào khung cửi dệt vải, dệt lụa. Con trở mình thức giấc, dừng
tay đưa thoi, mẹ đưa võng hát ru con bằng làn điệu dân ca xứ Nghệ hay câu
Kiều của Nguyễn Du rằng:
“À ơi!
Con ơi, mẹ dặn câu này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
12


Làm người đói sạch, rách thơm
Cơng danh phủi nhẹ, nước non phải đền”.
Lời ru như khắc sâu vào tâm trí của Bác và đi cùng Bác suốt những
năm tháng cuộc đời. Sau này, vào năm 1929, Bác sang Thái Lan để hoạt
động cách mạng, khi nghe chị Việt kiều hát ru con, suốt đêm Bác nhớ nhà,
nhớ mẹ không sao ngủ được. Người đã tâm sự với đồng chí đi cùng:
“Xa nhà chốc mấy mươi niên
Tối qua nghe giọng mẹ hiền ru con!”

Gian phía trong kê chiếc giường nhỏ, sau tấm màn nhuộm nâu là nơi nghỉ
của bà Hoàng Thị Loan. Ba chị em Bác Hồ được sinh ra trên chiếc giường
này.
2.1.2. Cụm di tích tại quê nội - làng Sen:
Sau hàng tre xanh ngát, bạn sẽ bắt gặp ngôi nhà đơn sơ với 5 gian
lợp mái của gia đình cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của chủ tịch
Hồ Chí Minh do nhân dân làng Sen xuất quỹ công để xây dựng, làm quà

mừng dịp cụ đỗ Phó bảng khoa thi Hội năm 1901, gồm các hạng mục: nhà
13


chính, nhà ngang, cổng, sân, vườn. Đặc biệt, trong nhà cịn lưu giữ được
nhiều hiện vật có giá trị, như hai bộ phản gỗ, chiếc giường, rương đựng
lương thực, chiếc tủ đứng hai ngăn đựng đồ dùng, mâm bằng gỗ sơn đen…
Nhà được bao bọc bởi hàng rào hoa râm bụt, phía trước có hai khoảng sân
và một mảnh vườn nhỏ. Toàn bộ căn nhà được dựng bằng tre và gỗ nên vô
cùng mộc mạc và đơn sơ.

Từ năm 5 tuổi đến 11 tuổi, Bác Hồ cùng cha mẹ và anh trai vào Huế.
Sau khi mẹ mất, từ năm 11 đến 16 tuổi (1901 – 1906) Người trở về sinh
sống tại ngơi nhà của thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở làng Sen.
Ngày nay, ngôi nhà vẫn mang dáng dấp như cách đây 1 thế kỷ với hàng rào
dâm bụt, con đường đất mộc mạc, những khu vườn xanh mướt bao
quanh…

14


Khung cảnh xung quanh quê nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bên cạnh ngơi nhà của cụ Phó bảng, làng Sen còn nhiều địa điểm khác
mang dấu ấn thời niên thiếu của Bác Hồ. Đó là giếng Cốc, một giếng cổ
được người làng Sen đào cuối thế kỷ 18. Trong những năm ở làng Sen, cậu
bé Nguyễn Sinh Cung thường ra đây chơi và gánh nước về dùng. Giếng
hình trịn, kè đá, có 18 bậc lên xuống bằng đá ong.

15



Lị rèn cố Điền do ơng Hồng Xn Luyễn (thường gọi là cố Điền) lập ra
để rèn công cụ phục vụ bà con trong vùng từ cuối thế kỷ 19. Khi ở làng
Sen, Nguyễn Sinh Cung thường sang giúp cố Điền đập đe, thụt bễ, nhặt sắt
vụn làm đồ chơi và nghe bà con bàn luận việc nước, việc đời.
Có thể nói nếu như Hồng Trù là nơi chơn nhau cắt rốn của Bác, thì
làng Sen chính là nơi góp phần hình thành nên tư tưởng yêu nước, thương
dân của Bác. Ơm trọn trong tim hình bóng dân tộc, Bác dành ở đó một
phần cho quê hương nhỏ bé, thương nếp nhà xưa, thương đất mẹ nghèo, đi
suốt cuộc đời Bác vẫn nhớ tới nơi mình đã sinh ra, Bác nhớ quê hương, quê
hương nhớ Bác.
2.2. Vai trò của quê Bác trong sự nghiệp đấu tranh ngoại giao, sự
nghiệp cách mạng của Việt Nam:
Chính cái nơi của q hương giàu truyền thống, bản sắc văn hóa xứ
Nghệ cùng tình cảm u thương của gia đình đã góp phần hình thành nên
nhân cách và tư tưởng của Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân
tộc - danh nhân văn hóa kiệt xuất.
Mảnh đất xứ Nghệ - Nơi Bác đã gắn bó tuổi thơ của mình, là vùng
đất địa linh nhân kiệt, là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại
xâm nên Người đã sớm cảm nhận được độ “nóng” của các phong trào đấu
16


tranh chống Pháp; Người đã thấu hiểu được thế nào là tình u q hương Nơi chơn nhau cắt rốn. Đó cũng là những điều kiện rất tốt sớm ni dưỡng,
hun đúc tình cảm và tư tưởng yêu nước, thương nịi của Người và hình
thành trong Bác khát vọng cứu nước, cứu dân, khát vọng giải phóng dân
tộc và trong 30 năm bôn ba nơi năm châu bốn bể nỗi nhớ ấy vẫn luôn hiện
hữu ngày đêm trong tim Bác: “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng

đắng lịng vì Tổ quốc/ Chẳng n lịng khi ngắm một nhành hoa”.
Có lẽ, chính tình u thương, nỗi nhớ nhung quê hương này đã hình thành
nên nền tảng ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh: Nền tảng cốt lõi của bản sắc
ngoại giao Việt Nam hiện đại.
Lịch sử Việt Nam thời hiện đại có bước chuyển giai đoạn quyết định
vào năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam chính thức trở thành một quốc
gia độc lập, thống nhất. Là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Nhà nước
Việt Nam hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng, trực
tiếp chỉ đạo và dẫn dắt sự phát triển của nền ngoại giao cách mạng của
nước Việt Nam hiện đại 1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là một hệ thống quan điểm về
các vấn đề quốc tế, chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan
hệ với thế giới 2. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp
thành tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trước hết từ con người Hồ
Chí Minh, được hun đúc, kết tinh từ quá trình đi tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, đến tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin như
một “cẩm nang thần kỳ” để giải phóng dân tộc. Đó là bước ngoặt cơ bản
Vũ Khoan: “Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng cho sự phát triển của nền ngoại giao
cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 8-2015.
2
Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002.
1

17



tạo nên sự phát triển về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin tiếp tục được Đảng và Nhà nước, nhân dân
Việt Nam trau dồi, học tập và phát triển, là kim chỉ nam cho đường lối đối
ngoại Việt Nam, nhằm phát triển đất nước trên con đường độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội. Trong đó, quan trọng nhất là phương pháp luận
mác-xít, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép duy vật biện chứng… cùng quan
điểm toàn diện, hệ thống để tiếp cận các vấn đề quốc tế và giải quyết mối
quan hệ giữa Việt Nam với quốc tế.
Có thể thấy rõ những nội hàm cơ bản của tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh đều bắt nguồn từ triết lý và truyền thống ngoại giao của ông cha
ta. Trong đó, phải kể đến là mục tiêu độc lập dân tộc, tinh thần hòa hiếu,
hữu nghị, dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa những giá trị đó lên tầm cao mới khi gắn với thực tiễn của thế giới, để
đưa Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy của thời đại. Người chủ trương độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tự lực, tự cường gắn với đoàn kết
quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc gắn với sức mạnh của thời đại. Tư
tưởng này được thể hiện rõ trong sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với cách mạng dân tộc, trong ứng xử với các nước trên thế giới để bảo
vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Bên cạnh những nội hàm về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, nội dung
khơng kém phần quan trọng trong phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh,
thể hiện phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là các bài học
về dự báo thời cơ và nắm bắt thời cơ, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “ngũ tri”,
“hòa để tiến”, “phân hóa kẻ thù”... Tất cả đều bắt nguồn và được phát triển
từ những triết lý, truyền thống và nghệ thuật ngoại giao của ông cha ta.
Xuất phát từ tư tưởng, tầm nhìn chiến lược đến những sách lược, quyết
sách táo bạo, khơn khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đưa cách mạng nước ta vượt qua nhiều tình huống khó khăn, hiểm
nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc”, từ những ngày đầu giành chính quyền, bảo
18



vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đến cơng cuộc kháng chiến thành cơng
trước thực dân, đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng tầm bản sắc ngoại
giao Việt Nam, giúp bản sắc ngoại giao Việt Nam có được sức mạnh mới.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư
tưởng cho tư duy đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam, là ngọn hải đăng
và kim chỉ nam để Đảng ta dẫn dắt cách mạng Việt Nam giành thắng lợi,
đồng thời đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc, hội nhập toàn
diện, sâu rộng hơn.
2.2. Nhà lưu niệm Nguyễn Du (Hà Tĩnh):
2.2.1. Giới thiệu về nhà lưu niệm Nguyễn Du:
Nằm cách thành phố Hà Tĩnh 50km về phía Bắc, cách thành phố
Vinh 8km về phía Nam, khu di tích của đại thi hào Nguyễn Du nằm ở xã
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Đến với nơi đây, chúng ta
khơng chỉ được tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của danh nhân văn hóa thế
giới Nguyễn Du, mà cịn được tìm hiểu về dịng họ Nguyễn Tiên Điền.
Nguyễn Du (1765 - 1820), tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, nguyên quán
tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay
thuộc tỉnh Hà Tĩnh). Ông là danh nhân tiêu biểu nhất của dòng họ Nguyễn
Tiên Điền. Sự kết tinh trong mơi trường văn hóa của ba vùng đất văn vật là
xứ Nghệ quê cha, Thăng Long và Kinh Bắc quê mẹ, cùng truyền thống của
dòng họ, gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến tài năng và cốt cách của đại thi
hào Nguyễn Du. Sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, ông đau
xót trước cảnh dân tình khốn khổ, lầm than, gia đình tan tác. Nỗi ưu tư ấy
ơng dồn hết vào văn chương. Truyện Kiều và các tác phẩm xuất sắc khác
của ông là sự kết tinh của vẻ đẹp trong tiếng Việt và văn hóa truyền thống
Việt, đưa ơng trở thành thi hào đầu tiên của Việt Nam đi vào lịch sử văn

hóa nhân loại.
19


Khu di tích Nguyễn Du nằm trong quần thể di tích dịng họ Nguyễn
ở Tiên Điền, là cơng trình kiến trúc thờ tự, tưởng niệm Nguyễn Du cùng
những bậc tài danh kiệt xuất của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền, như Giới
hiên công Nguyễn Huệ, Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Lam Khê hầu
Nguyễn Trọng, Địch Hiên công Nguyễn Điều, Quế Hiên công Nguyễn
Nễ.... Quần thể này bao gồm nhiều di tích như đền thờ Đại Vương tiến sĩ
Nguyễn Huệ; đền thờ Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng; đàn tế Nguyễn
Quỳnh; 2 ngôi nhà Tư Văn; khu mộ đại thi hào Nguyễn Du, bảo tàng
Nguyễn Du và nhà thờ Nguyễn Du.

Nổi bật tại khu di tích là bức tượng cụ Nguyễn Du được đúc bằng đồng với
chiều cao từ bệ tượng lên đến đỉnh tượng là 4m, được làm bằng đồng, khăn
đóng áo dài, tay cầm bút lơng, tốt lên thần thái nho nhã của Đại thi hào
dân tộc. Đằng sau bức tượng là nhà trưng bày bảo tàng Nguyễn Du là nơi
trưng bày một số hình ảnh, hiện vật liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của
ơng và dịng họ Nguyễn ở Tiên Điền. Nơi đây trưng bày gần 1000 tài liệu,
hiện vật tiêu biểu như: nghiên bút, bản Kiều in từ bản khắc năm 1886, bộ
sưu tập truyện Kiều xuất bản bằng các thứ tiếng… Ngồi ra, tại nơi đây cịn
trưng bày một số hiện vật quý như: nghiên mực, đĩa mai hạc Nguyễn Du
được tặng trong thời gian đi sứ,…

20


Nghiên mực Nguyễn Du thường dùng


Tác phẩm Kim Vân Kiều tân truyện được lưu giữ tại đây

21


Di tích đàn tế và bia đá, bia dựng vào mùa Thu năm Nhâm Ngọ (1762).
Chất liệu bằng gạch đá và đá thanh. Tháng 7 năm 1954, giặc Pháp ném
bom làm hư hại sau đó được tu sửa lại. Được biết, khi lập đàn tế dựng bia
Nguyễn Nghiễm cho xây dựng cạnh 3 cây cổ thụ Nguyễn Quỳnh trồng.
2.2.2. Vai trò của nhà lưu niệm Nguyễn Du trong sự nghiệp đấu tranh
ngoại giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:
Chưa đầy 200 năm, từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20, họ Nguyễn
Tiên Điền có 5 người đỗ đại khoa, 7 người là hương cống/cử nhân và 7
người là tam trường/tú tài. Nguyễn Quỳnh, người đỗ tam trường đầu tiên
trong họ, có 6 con trai thì 2 người đỗ đại khoa là Tiến sĩ Nguyễn Huệ,
Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, 1 người đỗ Hương cống là Nguyễn Trọng, 1
người đỗ sinh đồ là Nguyễn Sỹ. Trong 12 con trai của Nguyễn Nghiễm có 1
đại khoa là Tiến sĩ Nguyễn Khản, 5 Hương cống.
Không chỉ học hành đỗ đạt mà cịn hanh thơng hoạn lộ. Cha con, anh
em đứng đầu trong triều ngoài quận thời Lê-Trịnh từ Thượng thư, Tư đồ,
Tham tụng, Bồi tụng; Tham đốc, Đô chỉ huy lĩnh Trấn thủ, tước cơng,
hầu... đều có. Có câu: “Bao giờ ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước, họ
này hết quan” là vì vậy.
Những di sản văn hóa trong khu di tích cịn được bảo tồn có giá trị
đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học..., giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn
gốc, quá trình hình thành, phát triển, truyền thống văn hóa, khoa bảng... của
dịng họ Nguyễn ở Tiên Điền cũng như việc nhìn nhận về cuộc đời, sự
nghiệp, những đóng góp của Đại thi hào Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn ở
Tiên Điền cho nền văn học Việt Nam. Đây cũng là nguồn tư liệu đáng tin
cậy để tìm hiểu về tín ngưỡng, phong tục tập qn, đời sống văn hóa tinh

thần của làng quê Tiên Điền nói riêng, văn hóa làng xã Việt Nam nói chung
trong sự phát triển của lịch sử dân tộc.

22


2.3. Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh):
2.3.1. Giới thiệu về Ngã ba Đồng Lộc:
Hà Tĩnh, mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống cách mạng
và văn hóa, nơi có nhiều tên đất, tên người đã gắn liền với những trang sử
hào hùng của dân tộc. Trong đó, Ngã ba Đồng Lộc là địa danh đã trở thành
huyền thoại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngã ba Đồng Lộc nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên là
đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo, giao điểm của Quốc lộ 15A và tỉnh
lộ 2 thuộc địa phận xã Đồng Lộc; là tượng đài về ý chí sắt đá và sự hi sinh
cao cả của Lực lượng Thanh niên xung phong trong sự nghiệp chống Mỹ
cứu nước.

Từ cuối tháng 4/1965, quốc lộ 1A bị chia cắt hồn tồn, hàng hóa vận tải
bằng đường bộ chi viện cho chiến trường miền Nam đều phải đi qua Ngã
ba Đồng Lộc. Từ đây, Ngã ba Đồng Lộc trở thành trọng điểm đánh phá ác
liệt nhất của đế quốc Mỹ trên toàn tuyến Quân khu 4.

23


Cụm tượng đài 10 liệt sĩ thanh niên xung phong Ngã ba Đồng Lộc
Những năm 1964-1972, nơi đây bị đánh phá liên tục và năm 1968 là ác liệt
nhất. Từ tháng 4 đến tháng 10/1968, ngã ba Đồng Lộc phải hứng chịu gần
50.000 quả bom các loại, bình quân mỗi mét vuông đất nơi đây gánh trên 3

quả bom. Mặt đất bị biến dạng, đất đá cày đi xới lại. Ngã ba Đồng Lộc
tưởng như khơng có một bóng cây, ngọn cỏ nào có thể mọc nổi. Vậy
nhưng, ngày đêm trên đoạn đường này vẫn có hàng nghìn người làm nhiệm
vụ thơng suốt giao thơng, đảm bảo an tồn cho người và hàng hóa chi viện
vào chiến trường miền Nam. Để giữ vững mạch máu giao thông từ Bắc vào
Nam được thông suốt, hàng trăm, hàng ngàn các chiến sỹ và nhân dân đã
ngã xuống. Trong đó phải kể đến sự hy sinh anh dũng của tiểu đội 10 cô gái
Thanh niên xung phong thuộc Tiểu đội 4, Đại đội 552, Tổng đội 55. Trưa
ngày 24 tháng 7 năm 1968, một ngày như mọi ngày, 10 chị ra đường làm
nhiệm vụ. Đến 16 giờ, trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc, 1
quả bom đã nổ gần căn hầm chữ A, nơi 10 chị đang tránh bom, làm sập
hầm và tất cả 10 chị đã hy sinh khi tuổi đời cịn rất trẻ. Ngày hy sinh, đầu
tóc của những nữ đồng đội dính đất cát, quần áo vấy bẩn. Ngày hè nắng
bỏng rát, nước sinh hoạt thiếu thốn, trên trời bom vẫn không ngừng rơi. Khi
24


khâm liệm, nhiều nữ thanh niên xung phong đầu chưa gội sạch, quần áo
vẫn lấm bùn.

Những hố bom lớn - minh chứng cho sự tàn bạo của đế quốc Mỹ

Giờ đây chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống đã hồi sinh ngay trên tọa độ chết
năm xưa, thời gian có thể khiến cho người ta quên đi bao nhiêu Ngã ba
trong cuộc đời nhưng khó có ai một lần đi qua mà có thể quên được Ngã ba
Đồng Lộc. Sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái Thanh niên xung phong Ngã
ba Đồng Lộc cùng với hàng trăm, hàng ngàn các anh hùng liệt sĩ khác sẽ
còn vang vọng mãi đến mai sau. Hình ảnh Ngã ba Đồng Lộc quật khởi
vươn lên giữa mưa bom lửa đạn còn ghi đậm mãi trong tâm khảm mỗi
người dân Việt Nam và bạn bè u chuộng hịa bình trên tồn thế giới

2.3.2. Vai trò của Ngã ba Đồng Lộc trong sự nghiệp đấu tranh ngoại
giao, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:
Thứ nhất, chiến thắng Đồng Lộc góp phần làm thất bại âm mưu cắt
đứt con đường vận chuyển Bắc – Nam, ngăn chặn sự chi viện của hậu
25


×