Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.49 MB, 106 trang )


LỜI CAM ĐOAN

Tỏi xin cam đoan Luận văn là cong trình nghiên cứu của

riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tỉnh chỉnh xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chỉnh theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viêt Lời cam đoan này đê nghị Khoa Luật xem xét đê


tỏi có thê bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Tuyền


MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục



Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bàng
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ VAI TRÒ CỦA VIỆN

KIỀM SÁT TRONG TĨ TỤNG DÂN sụ....................................... 6

1.1.

VỊ trí, vai trị của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước............. 6

1.2.

Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự............................. 13

1.2.1.

Tố tụng dân sự và sự cần thiết tham gia của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự.......................................................................................... 13

1.2.2.

Khái quát về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự qua từng thời kỳ....................................................................... 19

1.3.

Nhũng yếu tố tác động đến vai trò cua Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự............................................................................................ 32


1.3.1.

Yếu tố pháp luật...................................................................................32

1.3.2.

Trinh độ, năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên..................................... 34

1.3.3.

Các yếu tố khác....................................................................................34

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..................................................................................36
Chương 2: THỤC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIẺM SÁT TRONG

TỐ TỤNG DÂN Sự.............................................................................. 37

2.1.

Quy định pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong

tố tụng dân sự...................................................................................... 37

2.1.1.

Vai trò của Viện kiểm sát trước khi thụ lý và chuẩn bị giãi quyết
vụ việc dân sự....................................................................................... 37



2.1.2.

Vai trò của Viện kiêm sát khi tham gia phiên tòa sơ thâm, phiên

họp giải quyết việc dân sự................................................................... 43
2.1.3.

Vai trò của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm............................................... 52

2.2.

Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.........70

2.2.1.

Những ưu điêm, kêt quả chủ yêu trong việc thực hiện vai trò của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự..................................................... 70

2.2.2.

Những hạn chế, vướng mắc về thực hiện vai trò cùa Viện kiểm

sát trong tố tụng dân sự....................................................................... 73

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..................................................................................83
Chương 3: NHŨNG GIẢI PHÁP cơ BẢN VÈ ĐẢM BẢO THựC

HIỆN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIÊM SÁT TRONG TỐ TỤNG


DÂN Sự................................................................................................. 84
3.1.

Giải pháp về hoàn thiện pháp luật................................................... 84

3.2.

Một số giải pháp khác........................................................................ 90

3.2.1.

Giải pháp nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, Kiểm
sát viên................................................................................................. 90

3.2.2.

Giải pháp tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành của Ngành

Kiểm sát................................................................................................ 92

3.2.3.

Giải pháp cải tiến cơ chế phối hợp công tác giữa Viện kiểm sát
và các cơ quan có liên quan................................................................. 95

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................. 96
KÉT LUẬN........................................................................................................ 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 98



DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

KSV:

Kiểm sát viên

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân Tối cao

TTDS:

Tố tụng dân sự

VKS:

Viên
• kiểm sát

VKSND:

Viên

• kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viên
• kiểm sát nhân dân Tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG

c Ả Ị ♦ z\
Sơ hìêu

Bảng 2.1

Bảng 2.2

Bảng 2.3

Bảng 2.4

Tên bảng

Trang

Thống kê kết quả công tác kiểm sát thụ lý ngành
Kiểm sát nhân dân từ năm 2015 đến năm 2019

71


Thống kê kết quả công tác kiến nghị ngành Kiểm sát
nhân dân từ năm 2015 đến năm 2019

71

Thống kê kết quả tham gia phiên tòa, phiên họp của
Viện kiểm sát các cấp từ năm 2015 đến năm 2019

72

Thống kê kết quả kiểm sát bản án, quyết định của
ngành KSND từ năm 2015 đến năm 2019

73


MỞ ĐÀU

1. Tính câp thiêt của đê tài nghiên cứu

Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam được thành lập từ năm 1960 cho đến
nay đã trải qua hon 50 năm tồn tại, trưởng thành, phát triển và thực hiện được
nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng dân sự. Bước sang thế kỷ XXI, tiến trình cải cách tổ

chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực dân sự đã phát

triển ngày càng sâu rộng. Sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ra đời,
chức năng, phạm vi và thẩm quyền của Viện kiểm sát đã có những nhiều thay


đổi so với Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.
Trải qua hơn 4 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho thấy,
mặc dù về cơ bản, các quy định của Bộ luật đã đi sâu vào đời sổng xã hội
nước ta, nhưng các quy định về vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng

dân sự vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Mặc dù pháp luật vẫn quy định Viện
kiểm sát có đầy đù các quyền kiến nghị, kháng nghị nhưng thiếu cơ chế,

phương thức, cơ sở pháp lý để thực hiện quyền của mình. Sau hơn 4 năm thực
hiện Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thấy rằng, chất lượng công tác kiếm sát

giải quyết các vụ việc dân sự của Viện kiểm sát vẫn cịn nhiều khó khăn,
vướng mắc. Việc phát hiện vi phạm để kiến nghị, kháng nghị cịn mặc dù đã

có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng chất lượng đã ngày càng được nâng

cao nhưng chưa phát huy được tối đa. Nguyên nhân nêu trên là do hệ thống
pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự hiện hành còn chưa đầy đủ, đồng bộ và

hoàn thiện, chất lượng giải quyết án dân sự cùa Tòa án còn hạn chế, nhung
một phần quan trọng cũng là do các quy định cùa pháp luật về vị trí, vai trị

cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiếm sát trong tố tụng
dân sự vẫn còn nhiều bất cập.


Xuât phát từ thực tê nêu trên và từ việc nhận thức vê vị trí, vai trị của

Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là những vấn đề quan trọng cần

có sự quan tâm, đổi mới hơn nữa cả về phương diện lý luận và thực tiễn, để

nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giải quyết các vụ việc dân sự của
Tòa án, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp.
Là một cán bộ đang trực tiếp làm công tác trong ngành Kiểm sát nhân
dân thành phố Hà Nội, tác giả nhận thấy việc chọn đề tài "Vai trò của Viện

kiểm sát nhăn dân trong tố tụng dân sự" để nghiên cứu, xây dựng luận văn
thạc sĩ luật học là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời
qua q trình nghiên cứu, cá nhân tác giả có điều kiện nâng cao trình độ, năng

lực nghiệp vụ và kinh nghiệm cơng tác của bản thân.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự không chỉ là vấn đề

được ngành Kiếm sát mà còn đươc cả xã hội quan tâm. Do đó đã có nhiều

bài viết, nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của Viện kiềm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự như: “Vị trí, vai trị của Viện kiềm sát nhân
dân theo yêu cầu cải cách tư pháp", của tập thể tác già do TS. Khuất Vãn

Nga làm chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2008; "Hoàn thiện chế định
Viện kiếm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự”, Đề tài khoa học cấp
bộ của tiến sĩ Trần Văn Trung năm 2003; Luận văn thạc sĩ luật học ‘‘Sự

tham gia tố tụng của Viện kiêm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ở Việt

Nam" của tác giả Võ Thị Phượng năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học
‘‘Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiềm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ở

Việt Nam” của tác giả Phùng Thanh Hà năm 2014, ... Tuy nhiên, những

cơng trình này thực tế nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật được những
vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện

BLTTDS 2015 đã được đưa vào áp dụng trong một thời gian với nhiều quy

định mới nên vấn đề này cần được nghiên cứu kỳ hơn.

2


3. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn,
các quy định của pháp luật và thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn: những quy định của pháp luật và
việc tổ chức thực hiện các quy định về vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong

tố tụng dân sự trong thực tế. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn về vai trò của Viện
kiểm sát Việt Nam trong tố tụng dân sự trong toàn ngành Kiểm sát, thời điểm

lấy số liệu từ năm 2015 đến 2019. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn,

tác giả chỉ nghiên cứu về vai trò của Viện kiềm sát trong việc kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án (ở Việt Nam hiện này đang có hai

quan điểm khác nhau về tố tụng dân sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng tố tụng

dân sự bao gồm toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự và thi hành
án dân sự. Còn quan điểm thứ hai cho rằng tố tụng dân sự chỉ bao gồm trình

tự, thủ tục giải quyết vụ việc tại Tòa án).
4. Mục đích của luận văn

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và thực

tiễn thi hành pháp luật về vai trò của Viện kiếm sát trong tố tụng dân sự; tính
có căn cứ và khoa học về thực trạng pháp luật về vai trò của Viện kiếm sát

trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất giải pháp hồn thiện và bảo đảm thực hiện
có hiệu quả các quy định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong tổ

tụng dân sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận cùa chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường

lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

3


hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vê đôi mới tô chức
hoạt động của Viện kiểm sát trong điều kiện cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn


thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin; các khoa
học chuyên ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sừ nhà nước và

pháp luật, chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sanh,
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn

- Phân tích và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn trong pháp luật về
vai trò của Viện kiểm sát trong tổ tụng dân sự trước yêu cầu cài cách tư pháp
hiện nay.

- Đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và
các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Viện kiếm sát trong tố tụng dân sự,
đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ciía luận văn

- Góp phần làm sang tỏ về mặt lý luận cũng như thực trạng pháp luật về
vai trò của Viện kiếm sát trong tố tụng dân sự. Từ đó có những đánh giá tồn
diện nhằm đổi mới và hồn thiện mơ hình hoạt động của Viện kiểm sát trong

tố tụng dân sự.

- Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân

sự. Nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án khách

quan, có căn cứ và đúng pháp luật.

- Đề tài có thể được sừ dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các

4


nhà khoa học, những người làm thực tiên, đông thời có thê được sử dụng cho
việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.

- Đề tài là nguồn tài liệu phản ánh mốt số vấn đề từ thực tiễn thi hành
pháp luật tố tụng dân sự giúp cho liên ngành Viện kiếm sát - Tịa án tham

khảo khi ban hành các thơng tư, hướng dần đối với các vấn đề còn bất cấp
trong việc áp dụng, thực hiện BLTTDS trong thời gian tới. Đồng thời, đề xuất
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung hoàn

thiện BLTTDS nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát trong tố

tụng dân sự.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Những giải pháp cơ bản về đảm bảo thực hiện vai trò của


Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.

5


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT

TRONG TĨ TỤNG DÂN sự
1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước

Trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện

kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập và thống nhất do

Hiến pháp quy định, do Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trước Quốc
hội, được thể hiện:
Quốc hội giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động

tư pháp; Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng viện kiểm sát
nhân dân Tối cao theo đề nghị của Chủ tịch nước; Quốc hội giao cho Viện
trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao những nhiệm vụ, quyền hạn để quản
lý, chỉ đạo, điều hành toàn bộ hoạt động của ngành kiểm sát, Quốc hội thực

hiện việc giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của ngành kiếm sát; Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác


trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội khơng họp thì chịu trách nhiệm báo

cáo cơng tác trước ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Trong mối quan hệ với chính phủ: Viện kiểm sát nhân dân độc lập
với Chính phủ về tổ chức bộ máy, về biên chế và các hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ; Chính phù thống nhất quản lý nhà nước về các chế
độ chính sách chung của nhà nước đối với các cơ quan, cán bộ, cơng chức,

trong đó có cơ quan, cán bộ, cơng chức ngành kiểm sát. Viện kiểm sát và

Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với nhau để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao.
Trong mối quan hệ với Tòa án: Viện kiểm sát nhân dân độc lập với Tòa

án nhân dân về tổ chức bộ máy, về biên chế và thực hiện chức năng nhiệm vụ

6


được giao nhưng có trách nhiệm phơi hợp với nhau đê thực hiện nhiệm vụ
được giao. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa

án trong việc xét xử các vụ án hình sự, trong việc ra quyết định thi hành án
hình sự; trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính, kinh doanh

thương mại, hành chính, lao động và các việc khác theo quy định cùa pháp

luật. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự các phiên họp của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bàn về phương hướng áp dụng


thống nhất pháp luật.
Trong mối quan hệ với Hội đồng nhân dân địa phương cùng cấp: Viện

kiểm sát nhân dân là cơ quan do Quốc hội thành lập khơng thừa hành quyền

lực từ cơ quan chính quyền địa phương. Viện kiểm sát nhân dân địa phương
độc lập với chính quyền địa phương về tồ chức bộ máy, biên chế, tài chính và
độc lập về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu

trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu
cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân [26],

về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay được quy
định tại Điều 2, 3, 4, 5 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều
107 Hiến pháp 2013. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng cơ
bản là: thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Căn cứ các văn bản pháp luật khác về tư pháp thì Thực hành quyền

công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tổ tụng hình sự để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay

từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Cịn kiểm sát hoạt

động tư pháp là chức năng Hiến định của Viện kiếm sát nhân dân, có nội dung
giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao


7


thực hiện một sô hoạt động tư pháp nhăm bảo đảm cho pháp luật được châp

hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân nhiệm vụ là bảo vệ pháp

luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Ngồi ra, Viện kiếm sát cịn có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp
thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu

nại tố cáo về hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm
tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm do các cơ quan, tổ chức và cá nhân
chuyển đến.

Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 quy định Viện kiếm sát nhân dân thực hiện chức năng,
nhiệm vụ bằng những hoạt động sau:

1. Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân

dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước
đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
2. Kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan,

tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ

khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự;

3. Kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động;
4. Kiểm sát việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của
loa an
2

F

r

r

5. Kiêm sát việc giãi quyêt khiêu nại, tô cáo trong hoạt động tư pháp.

8


Cho đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về vị trí, vai trị của
Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức bộ máy nhà nước, về cơ bản, có hai

quan điểm lớn như sau:

Quan điểm thứ nhất: cần bò chức năng kiếm sát hoạt động tư pháp cùa
Viện kiểm sát, việc để Viện kiểm sát duy trì chức năng này là không phù hợp

với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chù nghĩa. Bởi, việc kiểm sát
hoạt động tư pháp trong đó có hoạt động xét xử sẽ ảnh hưởng đến nguyên tắc

xét xử độc lập của Tòa án; hiện nay những quyền năng của Viện kiểm sát trong
kiểm sát xét xử đang gây áp lực khơng nhở đối với các quyết định của Tịa án.

Mặt khác, hoạt động công tố phải thuộc chức năng của cơ quan hành

pháp với lý do: Chức năng duy trì, bảo vệ trật tự xã hội nằm trong phạm vi của
hoạt động điều hành, quản lý của cơ quan hành pháp; khi phát hiện có hành vi
xâm hại đến lợi ích điều hành và quản lý thì cơ quan hành pháp có quyền truy

tổ người phạm tội ra trước Tịa án và thực hiện việc buộc tội. Vì vậy, một cơ
quan có chức năng đó phải thuộc cơ quan hành pháp. Và Viện kiểm sát chỉ nên

duy trì chức năng thực hành quyền công tố và chuyền đổi thành Viện công tố
cho phù họp với chức năng tương ửng. Khi Viện kiểm sát trở thành Viện công

tố thuộc hành pháp, sẽ đảm bảo tính độc lập của Tịa án trong xét xử, Viện
kiểm sát cũng sẽ tập trung làm tốt hơn chức năng thực hành quyền công tổ.
Đồng thời, khắc phục sự chồng chéo giữa hoạt động của cơ quan thanh tra và
hoạt động kiểm tra giám sát của các cơ quan hữu quan khác.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Trong điều kiện kinh tế, xã hội của nước

ta hiện nay, vị trí và vai trị của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và


kiểm sát hoạt động tư pháp là phù hợp, bởi:
Thứ nhất, vấn đề kiểm soát quyền lực là một yêu cầu tất yếu khách

quan đối với bất kỳ quốc gia nào. Viện kiếm sát nhân dân với tư cách là cơ
quan quyền lực nhà nước đươc Quốc hội - Cơ quan đại diện cao nhất của

9


nhân dân giao nhiệm vụ kiêm sát hoạt động tư pháp, giám sát các hoạt động
của cơ quan tư pháp được đúng pháp luật; hạn chế sự lạm quyền từ các cơ

quan tư pháp để ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Nếu
chuyển Viện kiếm sát thành Viện cơng tố chỉ có chức năng thực hành quyền
cơng tố thì Quốc hội sẽ mất đi một cơng cụ giám sát có tác dụng năng ngừa

khả năng lạm dụng quyền lực công trong hoạt động tư pháp, cũng như mất đi
một thiết chế quan trọng để bảo vệ pháp chế xã hội chù nghĩa.

Trong khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm

sát nhân dân không làm thay, không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan
tư pháp mà chủ thực hiện cơ chế giám sát, khi phát hiện có vi phạm thì thực
hiện quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm, tập hợp những

dạng vi phạm phổ biến, mang tính điển hình để kiến nghị Quốc hội, Chính

phủ, các Bộ, ngành và thực hiện tham mưu cho các cấp úy Đảng.
Một vấn đề khác cũng đặt ra, nếu Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức
năng cơng tố, thì chức năng kiềm sát các hoạt động tư pháp cùa Viện kiểm sát

sẽ giao cho ai? nếu thành lập một cơ quan mới hoặc giao cho một cơ quan

khác để làm nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp thì cơ quan này liệu có thế
làm tốt hơn Viện kiểm sát hiện nay đang làm hay không? Trong khi cơ quan
này cũng phải được tố chức từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với mơ

hình Tịa án, Cơ quan điều tra, có đội ngũ đủ về số lượng, trình độ chuyên
môn đáp ứng được nhiệm vụ của công tác này. Điều này thực sự là không phù

họp với chủ trương cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách hành chính ở nước ta
hiện nay. Việc tổ chức một cơ quan như vậy gây lãng phí nguồn nhân lực, phủ

định quá trình xây dựng và trưởng thành của Viện kiểm sát nhân dân.
Thứ hai, hai chức năng hiện nay của Viện kiểm sát có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là tiền đề cho chức

năng thực hành quyền cơng tố. Ví dụ: hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật

10


trong tạm giữ, tạm giam, kiêm sát điêu tra, xét xử làm cơ sở cho các quyêt

định về thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát chính xác hơn. Hoạt động

tư pháp chịu sự kiểm tra, giám sát của nhiều cơ chế khác nhau bao gồm cả cơ
chế tự kiếm tra bên trong nội bộ và cơ chế giám sát bên ngoài, cơ chế giám

sát trực tiếp và gián tiếp. Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư pháp cùa Viện kiểm
sát trong thời gian qua cho thấy Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện nhiều vi

phạm, ban hành nhiều kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan tư pháp

khắc phục vi phạm. Do vậy, Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp là cơ chế giám sát tư pháp hữu hiệu và bổ trợ hiệu quả nhất cho chức
năng thực hành quyền công tố.

Thứ ba, việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố thuộc nhánh hành
pháp chỉ có chức năng truy tố tội phạm và buộc tội trước Tòa án dẫn tới nguy
cơ làm giảm tính độc lập của Viện kiểm sát trong thực thi chức năng, nhiệm vụ,

gây khó khăn cho việc tồ chức thực hiện chủ trương chống tham nhũng của

Đảng và Nhà nước ta. Không phù hợp với xu hướng cùa nhiều nước trên thế
giới là phải bảo đảm ngày càng tốt hơn tính độc lập của cơ quan cơng tố, khơng

chỉ độc lập trong hoạt động mà cịn độc lập cả về tổ chức.
Mặt khác hiện nay, Cơ quan điều tra không được tổ chức thành hệ
thống độc lập mà nằm trong cơ cấu của Bộ công an, Bộ Quốc phòng. Trong

hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra không chỉ chịu sự điều chỉnh của các quy

định pháp luật mà còn chịu sự chỉ huy theo mệnh lệnh hành chính của các chủ
thể quản lý hành chính. Do đó, việc tổ chức Viện cơng tố và Cơ quan điều tra
cùng đặt trong hệ thống hành pháp sẽ có nguy cơ làm giảm tính chế ước của

cơng tố đối với điều tra, làm hạn chế việc phát hiện và xử lý vi phạm trong
hoạt động điều tra, đồng thời không bảo đảm sự phân định rành mạch giữa

quan hệ hành chính mang tính quyền uy - phục tùng với quan hệ tố tụng tư
pháp mang tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.


11


Thứ tư, vân đê độc lập xét xừ của Tòa án tại nước ta là vân đê khó khăn

bởi lẽ Tịa án khơng thể tồn tại tách rời với các thiết chế Nhà nước khác.

Người trực tiếp xét xử các vụ án là Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân.

Tuy nhiên, ta phải thừa nhận rằng năng lực, trình độ chun mơn nghiệp vụ,
tính độc lập trong xét xử cùa thẩm phán, hội thẩm nhân dân nước ta hiện nay
còn rất nhiều hạn chế, chưa thực sự đảm bảo cho việc xét xử khách quan,

công bằng.

Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chú nghĩa Việt Nam và đấy mạnh cải cách tư pháp đã và đang

đặt ra nhiều vấn đề mới đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XI đã đề ra chủ trương, yêu cầu: Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể
chế và cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc

về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng
phối họp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp... Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp Hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của


các cơ quan công quyền.
Thực tế hiện nay, trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp Viện kiểm

sát nhân dân đã phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật; kịp thời kháng nghị,
kiến nghị, yêu cầu các cơ quan và cá nhân có hành vi vi phạm phải tuân thủ
pháp luật và khắc phục sửa chữa những vi phạm đã gây ra. Đối với những vi

phạm nghiêm trọng, Viện kiểm sát nhân dân đã giải quyết, xử lý kịp thời bằng
các biện pháp cụ thế như khởi tố, truy cứu trách nhiệm hình sự, kiến nghị xử

lý hành chính, xử lý kỷ luật, ... Cũng thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và kiếm sát hoạt động tư pháp, Viện kiếm sát đã phát hiện
những lĩnh vực chưa được pháp luật điều chỉnh để kiến nghị Quốc hội, ủy

12


ban Thường vụ Qc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và các Bộ, ban ngành ở
Trung ương ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh kịp thời.

Vì vậy, trong bối cảnh, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước
ta hiện nay cần tiếp tục duy trì Viên kiếm sát với vị trí là một hệ thống cơ

quan độc lập trong bộ máy nhà nước với hai chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đồng thời có các cơ chế pháp lý để tăng

cường hiệu lực, hiệu quả các hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp chính là
biện pháp quan trọng góp phần đẩy mạnh các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm


soát việc thực hiện quyền lực nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa [17].
1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự

1.2.1. To tụng dân sự và sự cần thiết tham gia của Viện kiếm sát trong
tố tụng dân sự
Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi một cá nhân hay một cơ quan, tổ

chức phải sử dụng quyền khởi kiện đến Tòa án để bào vệ quyền và lợi ích họp
pháp cùa mình. Khi đó sẽ phát sinh một quy trình tố tụng mà trong đó Tịa án

là cơ quan đại diện cho Nhà nước có trách nhiệm giải quyết vụ việc. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân khởi kiện (nguyên đơn dân sự), cơ quan, tổ chức, cá nhân bị
kiện (bị đơn dân sự), người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người phiên
dịch, người làm chứng, người giám định, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự... là những chủ thể tham gia tố tụng. Và Tố tụng dân sự
cơ bản được hiểu là toàn bộ hoạt động của các bên có liên quan đến việc giải

quyết một vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật.
Và VKS có vị trí và vai trị tương đối đặc biệt trong tố tụng dân sự.

Điều 107 Hiến pháp 2013, Điều 21 BLTTDS 2015 đã khẳng định Viện KSND

là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự. Theo đó, các hoạt tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng và

13



những người tham gia tô tụng dân sự là đôi tượng kiêm sát của VKSND.

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là giám sát, kiểm tra

tính hợp pháp, tính có căn cứ của các hành vi của các chủ thể tiến hành và
tham gia tố tụng, đối với các văn bản được các chủ thể tiến hành tố tụng áp
dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và đó cũng là một hình thức thực

hiện quyền lực nhà nước, một trong những hoạt động nhằm thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Theo đó, mục đích của hoạt

động kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là nhằm bảo đảm
cho các hành vi xử sự của các chủ thế tiến hành, tham gia tố tụng và việc áp

dụng các văn bản pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án được đúng theo

quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiếm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp

lý do Hiến pháp, BLTTDS quy định để kịp thời pháp hiện và loại bố những vi
phạm của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng

nhằm đảm bảo cho việc pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự.

về nguyên tắc, so với Luật TCVKSND 2002 và các văn bản pháp luật
tố tụng trước đây, chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự của VKSND theo Luật TCVKSND 2014 và BLTTDS 2015 tiếp tục
khẳng định, bên cạnh đó Luật có nhiều sửa đổi, bổ sung: Viện trưởng VKS và

KSV là người tiến hành tố tụng dân sự; đồng thời bổ sung quy định Kiểm tra

viên cũng là người tiến hành tố tụng và bổ sung 01 điều luật (Điều 59) quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn cùa Kiểm tra viên để bảo đàm phù hợp với Luật
TCVKSND 2014; phạm vi tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát mở rộng hơn
(các điều 21, 232, 296, 367 và 374); việc phát biểu ý kiến của VKSND tại

phiên tòa, phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 262

14


và Điêu 369 cũng đôi mới, KSV không chỉ phát biêu vê việc châp hành pháp

luật tố tụng của Thấm phán, Hội đồng xét xử như trước đây mà còn phát biểu
ý kiến về việc giải quyết vụ án; thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng
cứ của Viện kiểm sát, bên cạnh việc tiếp tục kế thừa quy định của BLTTDS

2015 thì có bổ sung quy định KSV khi được Viện trưởng VKS phân công thực
hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự cịn có nhiệm vụ,
quyền hạn “u cầu Tịa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; ” và sửa đồi quy định về

thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, theo đó: Bỏ thẩm
quyền kháng nghị theo thũ tục giám đốc thẩm,tái thẩm của Chánh án Tòa án

nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng VKSND cấp tỉnh đối với bản án, quyết định

đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân dân cấp huyện, bồ sung quyền kháng


nghị cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao..
Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 BLTTDS 2015 thì cơ quan tiến

hành tố tụng gồm TAND và VKSND. Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra bản án, quyết định giãi quyết vụ

việc dân sư. Trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng TAND phải thực

hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính mình. Cũng là cơ quan tiến hành tố

tụng nhưng hoạt động của Viện kiểm sát hoàn toàn khác. VKSND thực hiện
việc kiếm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, những người tiến hành tố

tụng và nhũng người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTDS. Do đó,
việc VKS tham gia trong tố tụng dân sự có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, cần khẳng định việc VKS tham gia tổ tụng dân sự đã được
ghi nhận trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và

là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự.
Ngay từ khi Hiến pháp 1960, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt

15


Nam dân chủ cộng hòa đã ghi nhận vê chê định VKSND. Tuy vị trí, chức năng
của VKS trải qua các thời kỳ Hiến pháp 1960, 1980, 1992 và mới nhất là Hiến

pháp 2013 có nhiều thay đổi nhưng về cơ bản đều ghi nhận VK.S có “nhiệm vụ


bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ chế độ xã hội chủ nghĩa và

quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sán của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tinh mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhãn phẩm của công dân ” [22]. Tại bản
Hiến pháp 2013 đã dành các Điều 107, 108 và 109 quy định về vị trí, chức

năng, nhiệm vụ và mơ hình VKSND, trong đó xác định chức năng của

VKSND là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Neu như Hiến pháp đã ghi nhận một trong hai chức năng cơ bản của
VKSND là kiểm sát hoạt động tư pháp thi đã BLTTDS 2015 cụ thể hóa điều

này thành nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
quy định tại Điều 21. Theo đó: “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tổ tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị
theo quy định của pháp luật nhằm bảo đám cho việc giải quyết vụ việc dân sự

kịp thời, đủng pháp luật ” [24, Điều 21].
Với việc quy định kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là một

nguyên tắc cơ bản của BLTTDS cho thấy tầm quan trọng, vai trò của VKSND
trong tố tụng dân sự. Đây chính là tư tướng pháp lý cơ bản, xuyên suốt trong

quá trình xây dựng và thực hiện BLTTDS. Việc vi phạm nguyên tắc này được

coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến hậu quả chính là vụ việc
phải được xem xét lại ngay cả khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.


Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là một
hoạt động tố tụng dân sự do cơ quan duy nhất thực hiện chính là VKSND.

Như đã nói ở trên thì theo quy định của Hiến pháp, Luật TCVKSND thì
VKS là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của mình VKS thực hiện quyền lực

16


nhà nước, trực tiêp tham gia giám sát các hoạt động tư pháp, góp phân bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa quyền làm chủ của
nhân dân và bảo đảm trật tự xã hội. VKS thực hiện chức năng của mình thơng
qua các hoạt động như: nhận thông báo, quyết định, bản án của Tịa án và các
văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự, kiểm sát hoạt động của

Tòa án trong khi tiến hành tố tụng, kiểm sát hoạt động tố tụng của bị đơn,

nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan... Pháp luật quy định
về nhiều cơ chế giám sát các hoạt động tố tụng dân sự nhưng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự thi chỉ có duy nhất VKS mới đủ thấm

quyền, được giao đầy đủ các công cụ pháp lý để thực hiện công việc này. Cụ

thể BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định thì VKS có
quyền u cầu, quyền kiến nghị và quyền kháng nghị [24, Điều 21], kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc


dân sự của Tòa án, Kiếm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham

gia tố tụng, thực hiện kiểm sát bản án, quyết định cả Tòa án, tham gia phiên
tòa, phiên họp...

Thứ ba, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự phải tuân theo những quy định của pháp luật về trình tự và thủ tục.

Vì hoạt động kiểm sát của VKS nhằm mục đích bảo đảm hoạt động của

Tòa án, của đương sự và những người tham gia tố tụng phải tuân thủ đúng
quy định của pháp luật nên hoạt đọng kiểm sát cả VKS không thể nằm ngoài

pháp luật.
Với các quy định trên đây, luật hiện hành vẫn tiếp tục khẳng định chức

năng và địa vị pháp lý của cơ quan VKS là cơ quan tiến hành tố tụng, thực

hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, vì vậy,

tát cà các quyết định mang tính chất giải quyết, xữ lý vụ việc dân sự của cơ
quan xét xử phải được gửi cho VKS để thực hiện chức năng kiểm sát trong

17


một thời hạn rât nghiêm ngặt. Một trong những phương thức hoạt động chủ
yếu để thực hiện chức năng nói trên là phải tập trung kiểm sát các bản án và


quyết định giải quyết, xử lý vụ việc dân sự của Tịa án để góp phần đảm bão
các quyết định này có căn cứ và hợp pháp; trong trường hợp phát hiện có vi

phạm pháp luật, VKS được thực hiện các quyền: quyền yêu cầu, quyền kiến
nghị và quyền kháng nghị nhàm đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự kịp
thời, đúng pháp luật.

Từ những phân tích trên cho thấy, trước hết phải khẳng định việc tham

gia tố tụng của VK.SND trong tố tụng dân sự bảo đảm tính thượng tơn pháp

luật. Đây là mục đích được xác định ngay từ ngày đầu khi thành lập cơ quan
kiểm sát và vai trị này ln được khẳng định qua các lần sửa đổi, bổ sung

luật. Trong hệ thống bộ máy nhà nước, VKSND có chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật cho thấy tầm quan trọng của VKSND trong bảo đảm pháp
chế xã hội chú nghĩa. Quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo pháp luật được
thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật

và VKS có nhiệm vụ giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan tư pháp,
báo đảm cho pháp luật được tôn trọng trong các hoạt động của cơ quan tiến

hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng.

Bên cạnh việc bảo đảm tính thượng tơn pháp luật, việc tham gia TTDS
của VKSND cịn góp phần phát hiện, hạn chế những tiêu cực, sai sót trong

hoạt động tố tụng, nâng cao tinh thần trách nhiệm cùa những người tiến hành

tố tụng trong giải quyết các vụ việc dân sự. BLTTDS quy định thẩm phán và

hội thẩm nhân dân khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, bên cạnh đó

là quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Muốn đàm bảo
những điều đó thì nhất thiết phải có sự kiểm sát của VKSND, bởi hoạt động

tố tụng của người tiến hành tố tụng do nhiều nguyên nhân khác nhau có thể

khơng khách quan. Và nhiều khi vì lý do lịch sử để lại, không phải người tiến

18


hành tô tụng nào cũng nhận thức vân đê giông nhau, do đó cân có sự giám sát
của VKSND đế bảo đảm cho hoạt động tố tụng đúng trình tự, thủ tục theo
đúng quy định của pháp luật.

Cuối cùng, hoạt động kiếm sát của VKSND trong tố tụng dân sự đảm
bảo cho việc dân sự được giải quyết nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy
đủ và kịp thời, đảm bảo cho bản án, quyết định của Tịa án có căn cứ và đúng

pháp luật, đảm bảo quyền lợi của người tham gia tố tụng. Sự tham gia của

VKSND thể hiện hoạt động kiểm sát của VKSND từ giai đoạn thụ lý hồ sơ,
điều tra xác minh thu thập chứng cứ đến khi xét xử. Tùy vào từng giai đoạn,

từng nội dung cơng việc cụ thể mà VKSND có quyền ra các văn bản đề nghị,
kiến nghị, hay kháng nghị nhằm giúp cho việc giải quyết vụ việc ở các cấp
TAND được nghiêm túc, đúng trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Thực

tiễn thể hiện đó là, khi có sự tham gia của VKSND trong tố dân sự cho thấy

khi có văn bản đề nghị, kiến nghị của VKSND thì số lượng các vụ án quá hạn,

kéo dài giảm đi đáng kể. Và TAND cũng đã khắc phục nhưng thiếu sót theo ý

kiến của VKSND cũng làm giảm đáng kể vụ việc phải kháng nghị theo trình

tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Điều này không chỉ đảm bảo cho các
bên tham gia tố tụng mà còn giúp cho vụ án được giải quyết nhanh chóng,

khách quan và đúng pháp luật.

1.2.2. Khái quát về vai trò của Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự qua từng thời kỳ

1.2.2.1. Viện công tổ (tiền thân của Viện kiếm sát nhân dân) trong tố

tụng dân sự giải đoạn 1945 đến 1959

Ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường ba Đình, Hà Nội, Chù tịch
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân

chủ cộng hịa - nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Trong bối

cảnh muôn vàn khó khăn của chính quyền non trẻ, Chính phủ lâm thời đã

19


×