LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung bản Luận văn này là của tơi.
Trong q trình viết bản luận văn này tơi có tham kháo một sổ tài
liệu của một số tác giả và của các tỏ chức, cơ quan có liên quan.
Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chỉnh theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thê báo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm on!
Người cam đoan
Đàm Danh Liêm
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh muc từ viết tắt
MỞ ĐÀU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VÈ GIỚI HẠN QUYỀN
CON NGƯỜI, TẠM ĐÌNH CHỈ QUYỀN CON NGƯỜI............ 8
1.1.
Khái qt vê giói hạn qun con người, tạm đình chỉ quyên
con người............................................................................................. 8
1.1.1.
Khái niệm và nguyên tắc giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ
quyền con người.................................................................................8
1.1.2.
Vị trí, vai trị của nguyên tắc giới hạn quyền con người, tạm đình
chỉ quyền con người........................................................................... 12
1.1.3.
Các điều kiện giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền con người.... 15
1.2.
Pháp luật Việt Nam về giói hạn quyền con người, tạm đình
chỉ quyền con người......................................................................... 18
1.2.1.
Các quy định pháp luật trước Hiến pháp năm 2013........................... 18
1.2.2.
Các quy định của Hiến pháp 2013..................................................... 22
1.3.
Pháp luật quốc tế về giói hạn quyền con người, tạm đình chỉ
quyền con người................................................................................ 27
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG GIỚI HẠN QUYỀN CON NGƯỜI,
TẠM ĐÌNH CHỈ QUYỀN CON NGUỜI QUA THỤC TIỄN
DỊCH BỆNH COVID-19 Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP VÌ QUN CON NGƯỜI................................................... 30
2.1.
Bối cảnh và các chính sách, biện pháp phòng chổng dịch Covid-19... 30
2.1.1.
Bối cảnh dịch Covid-19...................................................................... 30
2.1.2.
Các chính sách, biện pháp phịng chống dịch Covid-19.................... 33
2.2.
Những điểm tích cực và hạn chế về bảo đảm nguyên tắc giói
hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền con người trong
các chính sách, biện pháp phịng, chống dịch Covid-19............... 39
2.2.1.
Những điểm tích cực.......................................................................... 39
2.2.2.
Những điểm hạn chế.......................................................................... 62
2.3.
Một số giải pháp bảo đảm nguyên tắc giới hạn quyền con
ngưòi, tạm đình chỉ quyền con ngưịi............................................. 68
KÉT LUẬN.................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 76
DANH MỤC TÙ VIẾT TẤT
Từ viết tắt
Từ đầy đủ
ICCPR
Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị
ICESCR
Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
UDHR
Tun ngơn quốc tế nhân quyền
MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Ngày 10/12/1948, Bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua, bản tuyên ngôn khẳng định: “Mọi
người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi”. Ý thức về nhân
quyền và việc thực hiện nhân quyền là một quá trình lịch sử lâu dài gắn với
lịch sử phát triển loài người và giải phóng con người qua các hình thái kinh
tế- xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp, qua đó quyền con người trở
thành giá trị chung của nhân loại. Nước ta từ khi thành lập đến nay, Đảng và
Nhà nước ta luôn coi việc bảo đảm quyền con người là bản chất, mục đích của
chế độ xã hội chủ nghĩa và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời gắn
quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội. Quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân là vấn đề quan trong luôn nhận
được sự quan tâm của mồi công dân cũng như các nhà cầm quyền.
Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế. Quyền con người là một nội dung cơ bản trong pháp luật
của một nước, là cơ sở để khẳng định sự phát triển con người, sự tiến bộ
của quốc gia đó.
Tuy nhiên các quyền này khơng phải là tuyệt đối và chúng có thể bị hạn
chế trong một số trường hợp nhất định vì lý do chính đáng, việc tước quyền
nào đó của người dân phải theo trình tự thủ tục pháp lý chặt chẽ. Trong bối
cảnh đại dịch Covid-19 đang gây nhiều tác động tiêu cực chưa từng có tiền lệ
trên phạm vi tồn thế giới cũng như Việt Nam thì việc bảo đảm các quyền con
người lại càng được chú trọng, quan tâm hơn bao giờ hết. Mối nguy hiểm từ
dịch bệnh đã ảnh hưởng lớn đên các mặt kinh tê, chính trị, y tê, đạo đức và cả
pháp luật đe dọa đến cuộc sống của cá nhân, cộng đồng.
Pháp luật với tư cách là phương tiện hóa giá trị xã hội của quyền con
người, là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ quyền
con người, pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp cùa mình đặc biệt khi xã hội lâm vào tình trạng
khẩn cấp ở tầm Hiến pháp cho đến các quy định cụ thể. Hiến pháp năm 2013
làn đau tiên quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân trong một
số trường hợp đặc biệt nhất định liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Việc ghi nhận
trong hiến pháp về hạn chế (giới hạn) quyền con người, quyền công dân là
một bước tiến quan trọng trong quá trình lập hiến của nước ta.
Trước bối cảnh đại dịch Covid-19 đã diễn biến phức tạp ở nhiều nước,
chính phủ các nước đã ban bố tình trạng khẩn cấp và áp dụng nhiều biện pháp
đặc biệt, trong đó có các biện pháp giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ
quyền con người, điều này ảnh hưởng đến chức năng và thay đổi hành vi của
chính phủ và công dân. Song, hành lang pháp lý cho việc ban bố và hành
động trong tình trạng khấn cấp ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam lại
chưa thật sự hồn thiện. Trong tình huống khi mà sự sống còn của quốc gia
đang bị đe dọa, một so quyền con người có thể bị giới hạn và tạm đình chỉ.
Mặc dù chưa chính thức ban bố tình trạng khẩn cấp tuy nhiên Chính phủ Việt
Nam đã áp dụng những biện pháp nghiêm ngặt phịng chống dịch Covid-19,
trong đó bao gồm các biện pháp hạn chế, kể cả tạm đình chỉ một số quyền con
người, quyền cơng dân.
Trong bối cảnh dịch bệnh bùng nố trên toàn cầu, đất nước Việt Nam
chịu nhiều ảnh hướng từ dịch bệnh cà về mặt con người, sức khỏe, kinh tế...
đòi hởi Đảng và Nhà nước đưa ra những định hướng, chiến lược, chỉ đạo của
2
nhà nước đê có thê đây lùi dịch bệnh, đảm bảo sự an toàn cho người dân.
Bám sát thực tiễn, nắm chắc diễn biến, bất kể ngày đêm và trong nhiều tình
huống khẩn cấp, Đảng và Nhà nước kịp thời ban hành chỉ thị, nghị quyết,
công điện, “thực hiện quyết liệt, đồng bộ, linh hoạt các nhiệm vụ, giải pháp
phòng, chống phù hợp với tình hình diễn biến dịch Covid-19. Những bên
cạnh những sự chỉ đạo đúng đắn đó của nhà nước cịn có những vấn đề nhận
được sự quan tâm của nhiều người đó chính là vấn đề quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của cơng dân đã có những thay đối, ảnh hưởng dưới sự
chỉ đạo điều hành của Đảng và nhà nước như có những hạn chế về quyền,
nghĩa vụ của công dân. Việc nghiên cứu, phân tích quyền con người, quyền
và nghĩa vụ của cơng dân trong tình hình dịch bệnh Covid- 19 cho ta cái
nhìn linh hoạt hơn về sự chỉ đạo và điều hành của Đảng và nhà nước, thấy rõ
quan niệm tôn trọng và bảo vệ nhân quyền là một chủ trương nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta từ trước tới nay.
Các biện pháp được đưa ra này đã chứng minh hiệu quả tích cực trong
việc kiểm sốt việc lây lan Covid-19 trong cộng đồng trên thực tế tuy nhiên
đã giới hạn quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực từ tự do cá
nhân, tự do dân chủ, kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội. Vậy câu hỏi đặt ra
là phạm vi quyền con người, quyền cơng dân có thể bị giới hạn, tạm đình chì
trong những trường hợp nào? Quy định về hạn chế quyền con người theo
Hiến pháp năm 2013 đã bao gồm trường hợp tạm đình chỉ quyền con người
hay chưa? Pháp luật đã trù liệu được hết những tình trạng bất thường, khẩn
cấp như đại dịch và các điều kiện áp dụng phù hợp đế bảo vệ bảo đảm quyền
con người? Qua thực trạng Covid-19 đề tài xem xét về những chính sách, biện
pháp được ban hành ra liệu có phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013
về hạn chế quyền con người, quyền cơng dân và có phù hợp với chuẩn mực
quốc tế hay chưa? Neu chưa phù hợp thì cần có những giải pháp nào để điều
3
chỉnh, thay đôi vê pháp luật và thực thi pháp luật? Xuât phát từ những lý do
trên, học viên lựa chọn đề tài “Giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền
con người trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam" làm đề tài Luận
văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Giới hạn quyền con người, tạm đình chi quyền con người quyền công
dân không phải là một vấn đề mới ở Việt Nam, mà vấn đề này đã được quy
định từ trong Hiến pháp năm 2013. Tuy vậy, đặt trong bối cảnh dịch bệnh
Covid-19 ở Việt Nam còn là vấn đề mới mẻ. Các nghiên cứu, bài viết chủ
yếu tập trung vào giới hạn quyền con người, quyền công dân cùng với sự ra
đời của Hiến pháp 2013 và cịn đối với việc nghiên cứu về giới hạn, tạm
đình chì quyền con người khi xã hội lâm vào tình trạng bất thường, khẩn cấp
trong bối cảnh dịch bệnh thì cịn ít, chưa có cơng trình nghiên cứu cơng phu,
tồn diện nào về vấn đề này. Một số cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này có
thể kể đến như:
- Sách “Giới hạn chính đảng đối với các quyền con người, quyền công
dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam" của TS.Nguyễn Minh
Tuấn chủ biên xuất bản năm 2015.
- Sách “Nguyên tắc hạn chế quyền công dân theo Hiến pháp 2013" của
TS. Nguyễn Văn Hiển và Trương Hồng Quang chủ biên.
- Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hạn chế quyền con người
ở Việt Nam hiện nay’’ do Viện Nhà nước Pháp luật chủ trì, Nguyễn Linh
Giang chủ biên, năm 2017-2018.
- Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội do Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội xuất bản
năm 2009.
-Bài viết “Hiến pháp hỏa nguyên tắc giới hạn quyền con người: cần
4
nhưng chưa đủ” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp sô 6/2015 và
“Nguyên tắc giới hạn quyền con người: Ý nghĩa, nhu cầu giải thích và định
hướng áp dụng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, kỳ 1 tháng 10/2017 của tác
giả TS. Bùi Tiến Đạt.
- Bài viết “Giới hạn về hạn chế quyền con người và quyền công dân
trong Hiển pháp năm 2013 ” cùa Hoàng Hải Yen, đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 17 năm 2014.
- Bài viết “Nhu cầu giải thích quy định về hạn chế quyền con người,
quyền công dãn của Hiến pháp năm 2013 ” cùa Trương Hồng Quang, đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2018
Gần đây nhất Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội phối họp với Trung
tâm Nghiên cứu Luật châu Á thuộc trường Luật đại học Melbourne và Viện
Nghiên cứu lập pháp đã phát hành Kỷ yếu hội thảo quốc tế với chủ đề “Pháp
luật về tình trạng khẩn cấp”- nội dung mà nhiều quốc gia trong đó có Việt
Nam đang cùng quan tâm. Hội thảo trong đó có đề cập các khung pháp lý về
tun bố tình trạng khẩn cấp - và hạn chế quyền theo quy định của Pháp lệnh
về tình trạng khẩn cấp năm 2000.
3. Mục
vụ• nghiên
cứu
• tiêu và nhiệm
•
“
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích làm rõ sự phù hợp hay không phù họp của các chính sách,
biện pháp được ban hành trong thời gian dịch bệnh Covid-19 ở nước ta so với
các nguyên tắc hiến định 2013 cũng như các chuẩn mực quốc tế về giới hạn,
tạm đinh chi quyền con người.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận chung về giới hạn quyền con
người, tạm đình chỉ quyền con người.
Xem xét các quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về giới
hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền con người.
5
Trên khuôn khô pháp lý chung, đê tài đi phân tích thực trạng ban hành
chính sách, biện pháp trong thực tiễn dịch bệnh Covid-19 diễn ra ở Việt Nam
để xem xét sự phù hợp hay không phù hợp so với quy định của Hiến pháp và
pháp luật quốc tế.
Đe xuất một số giải pháp có tính chất gợi mở nhàm bảo đảm nguyên tắc
giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền con người ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp luật về giới hạn quyền con
người, tạm đình chỉ quyền con người như: Các khái niệm, cơ sở pháp lý, hệ
thống nguyên tắc, nội dung các quy định pháp luật, những điểm hạn chế và
quan điểm, giải pháp bảo đảm nguyên tắc giới hạn, tạm đình chỉ quyền con
người ờ Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19.
4.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về khuôn khố pháp
luật quốc tế, pháp luật Việt Nam về giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ
quyền con người gắn với thực trạng ban hành các quyết định giới hạn, tạm
đình chỉ quyền con người được đưa ra bởi chính quyền trung ương và địa
phương trong bối cảnh đối phó với dịch Covid-19.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cách tiếp cận dựa trên quyền con người, các nguyên tắc,
chuẩn mực quốc tế về quyền con người, chủ nghĩa hiến pháp và nhà nước
pháp quyền. Đồng thời, Đề tài sử dụng phương pháp luận và phép duy vật
biện chứng cùa chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học
khác nhau, bao gồm: phương pháp tổng hợp, phân tích, chứng minh, thống kê,
so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn ....
6
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 2 chương:
Chương ỉ: Lý luận và pháp luật về giới hạn quyền con người, tạm đình
chỉ quyền con người.
Chương 2\ Thực trạng giới hạn quyền con người, tạm đinh chỉ quyền
con người qua thực tiễn dịch Covid-19 ở Việt Nam và một số giải pháp vì
quyền con người.
7
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIỚI HẠN QUYỀN CON NGƯỜI,
TẠM ĐÌNH CHỈ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái quát về giói hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền
con người
1.1.1. Khái niệm và nguyên tắc giói hạn quyền con người, tạm đình
chỉ quyền con người
Giới hạn quyền con người (limitation of rights) là quy định được ghi
nhận trong một số điều ước quốc tế về quyền con người mà cho phép các quốc
gia thành viên áp đặt một số điều kiện, giới hạn với việc thực hiện/hưởng thụ
một số quyền con người nhất định. Hay nói một cách khác, các quyền con
người được thực hiện trong một khuôn khổ nhất định. Trong xã hội pháp
quyền và tự do, hầu hết các quyền đều có những giới hạn nhất định. Tuy vậy,
khơng phải tất cả mọi quyền con đều có thể bị giới hạn. Một số quyền không
thể bị giới hạn được gọi là các quyền tuyệt đối, theo ICCPR gồm quyền
không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục (Điều 7), quyền
không bị bắt giữ làm nô lệ hay nô dịch (Điều 8), quyền không bị bở tù chỉ vì
lý do khơng hồn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (Điều 11), quyền không bị áp
dụng hồi tố trong tố tụng hình sự (Điều 15), quyền được công nhận là thể
nhân trước pháp luật (Điều 16) [1].
Các nguyên tắc của việc giói hạn quyền con người dựa trên
• Ngun tắc bảo vệ quyền con người
Mục đích của giới hạn quyền con người cũng là để bão vệ quyền con
người. Bởi lẽ “việc giới hạn và hạn chế quyền là những yêu cầu xuất phát từ
thực tế cuộc sống mà đã được luật nhân quyền quốc tế ghi nhận, với mục đích
chính là để ngăn ngừa sự tùy tiện của các nhà nước trong việc thực thi quyền
con người, chứ không phải là để cung cấp công cụ cho các nhà nước vi phạm
8
các qun đó” [6], Chính vì vậy, bảo vệ qun con người là một trong nguyên
tắc trong tổ chức, vận hành cơ chế giới hạn quyền con người. Nguyên tắc này
được thể hiện ớ chồ:
Thứ nhất, các thiết chế nhà nước có thẩm quyền giới hạn quyền con
người phải được tố chức và hoạt động đảm bảo nguyên tắc phân quyền trong
tổ chức kỳ thuật quyền lực nhà nước (ở Việt Nam là nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp trong việc thực hiện quyền lập
pháp hành pháp và tư pháp).
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ quyền con người trong cơ chế giới hạn
quyền con người đòi hởi cần minh định thẩm quyền của các cơ quan, cá nhân đại
diện cho quyền lực nhà nước. Trong tiếng Pháp, “thấm quyền” - competence,
được hiểu là quyền của một cơ quan nhà nước, hành chính hay tư pháp, một
quan chức hành chính hay tư pháp được làm một số việc, được quyết định và
ra một số văn bản về một số vấn đề trong phạm vi được pháp luật cho phép.
Như vậy, về mặt ngôn ngữ thuật ngữ “thẩm quyền” trong ngôn ngữ tiếng Việt
và tiếng Pháp có điểm tương đồng là đều được quan niệm là quyền xem xét,
quyết định, giải quyết một vấn đề, hay vụ việc nào đó [15].
Thứ ba, nguyên tắc vận hành của cơ chế hạn chế đòi hòi phải có cơ chế
bảo vệ quyền con người.
ờ Việt Nam thì cơ chế bảo vệ quyền con người bằng tòa án trước các vi
phạm về giới hạn quyền con người còn rất mờ nhạt. Nguy cơ xâm phạm đến
quyền con người trong việc giới hạn quyền con người được thực hiện trước
hết đến từ các các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật. Thực
tiễn Việt nam thời gian qua cho thấy đã xuất hiện đạo luật có dấu hiệu vi hiến
trong việc giới hạn quyền con người (Điều 5, Thông tư 01/2016 của Bộ Công
an quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung kiểm tra, kiểm sốt
giao thơng đường bộ của cảnh sát giao thơng, lực lượng này có quyền trưng
9
dụng các loại phương tiện giao thông, phưong tiện liên lạc, các phương tiện,
thiết bị kỳ thuật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Điều này có nghĩa, bất cứ
loại phương tiện hay các thiết bị nói trên đều nằm trong diện có nguy cơ bị
CSGT trưng dụng bất cử lúc nào). Tuy nhiên, cơ chế đế xử lý các văn bản quy
phạm pháp luật như vậy không do Tòa án phán quyết mà bằng các cách như:
cơ quan ban hành văn bản tự hủy bở, cơ quan cấp trên, quốc hội, Hội đồng
nhân dân đình chỉ, hủy bở. Thực tế cho thấy việc hùy bỏ các văn băn quy
phạm pháp luật có dấu hiệu vi hiến như trên là rất ít.
• Ngun tấc giới hạn quyền con người không được trái Hiến pháp
và pháp luật (giới hạn quyền con người trên cơ sở luật định)
Điều 29 của Tuyên ngơn tồn thế giới về quyền con người 1948 đã
tun bố:
Trong việc thực thi các quyền và tự do, mọi người chỉ phải chịu
những hạn chế do pháp luật quy định, nhằm mục tiêu bảo đảm sự
thừa nhận và tôn trọng quyền, và quyền tự do của những người khác,
cũng như nhằm thỏa mãn những địi hỏi chính đáng về đạo đức, trật
tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.
Cụ thể hóa tư tưởng này, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận:
Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an
ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khởe của
cộng đồng (khoản 2, Điều 14).
Quan điểm có tính chất chì đạo ở đây đó là việc giới hạn quyền con
người khơng thể tùy tiện mà phải được hiến định và được luật hóa. Hiến pháp
2013 của Việt Nam đã hiến định nguyên tắc này. Theo đó, khơng ai được tùy
tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường họp càn thiết nói trên do
Luật định. Điều này xác lập nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ
10
bị hạn chê băng Luật chứ không phải các văn bản dưới luật. Đây được coi là
điếm sáng của Hiến pháp 2013 và kỳ vọng sẽ hạn chế tình trạng giới hạn
quyền con người một cách tùy tiện nhất là trong bối cảnh Việt Nam hiện nay
khi luật cần có các văn bản hướng dẫn dưới luật mới thi hành được. Và thực
tế ở Việt Nam cho thấy, một khi các đạo luật đang còn quá phụ thuộc vào sự
chi tiết hóa của các văn bàn dưới luật, khơng thể không cho phép các vãn bản
dưới luật hạn chế quyền [3].
• Ngun tắc bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích chính đáng
của cá nhân, cơng dân
Ngun tắc này hướng tới mục đích của giới hạn quyền con người nói
chung và mục đích hướng tới của cơ chế giới hạn quyền con người là nhằm
bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của người khác theo đúng triết lý của hạn
chế quyền nguyên tắc này là thừa nhận sự xung đột giữa quyền của người này
với quyền của người khác cũng như với lợi ích chung của tồn xã hội. Đây là
điều khơng thể tránh khỏi vì bảo vệ phạm vi tự do chính đáng của người này
cũng chính là sự hạn chế tự do của người khác. Nguyên tắc này đảm bảo một
không gian hợp lý để cơng dân “tự do” thực hiện quyền của mình, miễn là
không lấn vào những phần bị nhà nước “hạn chế”. Các quyền “tự do” không
phải là tự do tuyệt đối. Ở thời đại ngày nay, mọi quốc gia giống nhau ớ chồ
đều công nhận các quyền và tự do cơ bản và chi khác nhau ở phạm vi các
quyền bị hạn chế và phương pháp đặt ra vùng bị hạn chế đó.
Lợi ích nhà nước khơng xuất hiện trong Hiến pháp Việt Nam cũng rất
hiếm trong Hiến pháp các nước trên thế giới trong khi quy định giới hạn
quyền (Điều 51 Hiến pháp Trung Quốc: “Công dân nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa khi thực hiện quyền tự do và quyền lợi của mình khơng được
xâm hại đến tự do và quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, xã hội, tập thể và
công dân khác”). Nhưng trong pháp luật Việt Nam lại rất hay được nhắc
11
đên. Vân đê quan trọng mà nguyên tăc này đòi hỏi đó chính là làm rõ thê
nào là lợi ích nhà nuớc? Và mối quan hệ ưu tiến giữa lợi ích nhà nước và lợi
ích của cá nhân?
Giới hạn quyền con người khác với tạm đình chi quyền con người, về
nguyên tắc, các nghĩa vụ quốc gia trong việc thực hiện quyền con người mang
tính liên tục; tuy nhiên, Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (ICCPR) quy định rằng, trong những bối cảnh khẩn cấp đe dọa sự sống còn
của đất nước (state of emergency), các quốc gia có thể áp dụng những biện
pháp tạm đình chỉ việc thực hiện các quyền con người (Derogation of rights)
nêu trong Công ước này. Những quy định kể trên chính là sự tạm đình chỉ
thực hiện một số quyền dân sự, chính trị trong một thời gian nhất định do bối
cảnh khẩn cấp của quốc gia, thông qua một số biện pháp cụ thể như: thiết
quân luật (trên cả nước, ở một khu vực hay một địa phương); cấm biểu tình,
hội họp đơng người; cấm hoặc hạn chế hoạt động của một số cơ quan thông
tin đại chúng như truyền hình, phát thanh, báo..; cấm đi lại ra, vào một khu
vực hoặc xuất, nhập cảnh (với một số cá nhân hay nhóm)... Việc đình chỉ
quyền con người mạng tính tạm thời như là giải pháp khả thi cuối cùng đề
giải quyết vấn đề đe dọa đến quốc gia, cịn giới hạn quyền con người mang
tính chất như là vạch ra ranh giới, phạm vi quyền được bảo vệ [2], Việc tạm
đình chỉ cũng có thể áp dụng đối với hầu hết các quyền con người (trừ các
quyền tuyệt đối như đã nêu ớ trên).
1.1.2. Vị trí, vai trị của ngun tắc giới hạn quyền con người, tạm
đình chỉ quyền con người
Trong một xã hội luôn luôn tồn tại rất nhiều mối quan hệ, chúng qua lại
tác động lẫn nhau. Sự xuất hiện nhà nước, pháp luật là để điều chỉnh những
mối quan hệ ấy, định hướng cho xã hội phát triển theo một mục tiêu, trật tự
phù hợp. Nhà nước đóng một vai trị quan trọng trong xã hội. Không chỉ duy
12
trì trật tự xã hội nhà nước cịn phải đảm bảo cho môi người được thụ hưởng,
thực hiện quyền của mình. Để dung hịa các mối quan hệ trong xã hội thì cần
phải có sự hạn chế quyền này để không ảnh hưởng tới những quyền khác. Với
quyền con người, nếu mồi quyền đều là tuyệt đối thì dễ xảy ra tình trạng xã
hội hồn loạn, khó kiếm sốt. Với những cá nhân khác trong xã hội thì nó sẽ là
vi phạm quyền của họ. Với mồi quốc gia thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới trật
tự, an ninh quốc gia.
Có những lý do hiến nhiên mà chúng ta khơng thể khơng giới hạn
quyền con người. Ví dụ, mọi người có quyền tự do đi lại nhưng khơng có
nghĩa quyền này cho phép được đi tự do đi vào các khu vực cấm của nhà
nước hay nơi ở của một người khác. Quyền tự do ngơn luận có thể bị lợi dụng
để bơi nhọ danh dự, uy tín cùa người khác.
Giới hạn quyền con người mặc dù là vi phạm quyền con người nhưng
điều này là chính đáng để mà bảo vệ những mục tiêu nhất định như:
- Bảo vệ quyền lợi của người khác: Giới hạn quyền của người này
chính là bảo vệ quyền của người khác. Do vậy cần có sự giới hạn quyền để
khơng xảy ra xung đột giữa hai bên.
- Sức khỏe cộng đồng: Bảo vệ sức khỏe cùa mỗi người là trách nhiệm
của cả cộng đồng. Một người bị mắc bệnh lây nhiễm thì có thể dễ dàng lây
cho những người khác khi người này được phép di chuyển một cách tự do. Vì
vậy, luật quốc tế cho phép các quốc gia giới hạn quyền của con người vì mục
đích sức khỏe cộng đồng.
- An ninh quốc gia: Tự do không giới hạn sẽ dễ dàng ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia. Nhiều đối tượng sẽ lợi dụng quyền của mình như tự do ngôn
luận, tự do lập hội, tự do đi lại để nhằm mục đích chống chính quyền nhà
nước. Tuy vậy, chính phủ cũng có thể lơi dụng lý do vì an ninh quốc gia để
phá hoại tính dân chủ.
13
- Đạo đức xã hội: đạo đức trong một cộng đông thê hiện qua những
quy tắc ứng xử đuợc áp dụng từ việc hợp với đạo lí xưa nay và phong tục
của địa phương, cộng đồng đó. Đạo đức của cả một xã hội cần phải được
xem xét trên tất cả các yếu tố cơ bản nhất. Để duy trì một đạo đức xã hội
tốt đẹp các quốc gia có thể đưa ra các quy định giới hạn quyền con người
vì mục đích này. Ví dụ, có thể giới hạn quyền tự do ngôn luận để ngăn
chặn những nội dung khiêu dâm.
- Thúc đẩy sự công bằng trong xã hội: Khoản 2 điều 29 Tuyên ngôn
nhân quyền nêu ra mục đích của giới hạn quyền con người trong đó việc giới
hạn phải nhàm đáp ứng phúc lợi chung (general welfare) trong xã hội dân
chủ. Bản chất của phúc lợi chung chính là các chính sách, các chương trình và
các dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của xã hội hoặc các nhóm
xã hội khác nhau về đời sống, kinh tế, văn hoá, tinh thần, giáo dục và chăm
sóc sức khoẻ... Các chính sách và giải pháp phúc lợi chung thường tập trung
vào nhóm người yếu thế, nhóm người thiệt thòi trong xã hội. Do vậy, suy cho
cùng thì các chính sách về phúc lợi chung là nhằm hướng tới sự cơng bằng
trong xã hội.
Trong tình trạng khẩn cấp, việc áp dụng các biện pháp khấn cấp bao
gồm việc tạm đình chỉ các quyền con người là cần thiết để các quốc gia đối
đầu với tình trạng khẩn cấp. Tạm đình chỉ quyền con người là biện pháp áp
dụng tiêu cực bậc nhất đối với các quyền con người, vì vậy việc áp dụng
chúng cần dựa trên những điều kiện khắt khe và chỉ sau khi nhà nước tuyên
bố tình trạng khấn cấp. Mức độ, phạm vi áp dụng các giới hạn, tạm đình chỉ
quyền con người trong mỗi tình trạng khẩn cấp là khác nhau dựa trên các tiêu
chuẩn quốc tế, pháp luật quốc gia và điều kiện thực tế.
Việc quy định nguyên tắc giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ
quyền con người cũng có ý nghĩa quan trọng để phòng tránh và xử lý các giới
14
hạn, đình chỉ các quyên con người trái với các tiêu chuân quôc tê và quôc gia.
Trên cơ sở của pháp luật quốc tế, các quốc gia thường quy định trong Hiến
pháp nguyên tắc giới hạn, tạm đình chỉ quyền con người, trong đó một trong
những nội dung quan trọng nhất đó là quy định các điều kiện giới hạn, tạm
đình chi quyền con người. Việc quy định ở tầm Hiến pháp chính là sự giới
hạn quyền lực nhà nước, nghiêm cấm sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước
trong việc đặt ra các giới hạn, tạm đình chỉ quyền con người.
Tóm lại, giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ là một tất yếu mà
khơng thể phủ nhận trong cuộc sống. Đây là một trong những nhân tố giúp xã
hội phát triển ổn định. Nhưng đồng thời, việc quy định nguyên tắc giới hạn
quyền con người, tạm đình chỉ quyền con người với các điều kiện áp dụng
chặt chẽ có ý nghĩa phịng tránh và xử lý các lạm dụng, vi phạm của nhà nước
đối với các quyền con người.
1.1.3. Các điều kiện giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền
con người
Việc giới hạn quyền con người phải đảm bảo những điều kiện hết sức
chặt chẽ và cụ thể, một số điều ước, ví dụ như ICESCR dành hẳn một điều
riêng (Điều 4) đề cập đến vấn đề này, gọi là điều khoản giới hạn chung (general
limitation clause) áp dụng cho tất cả các quyền trong Công ước; trong khi ở
một số điều ước khác, việc giới hạn được đề cập ở quy định về các quyền.
Theo Điều 4 ICESCR, các quốc gia thành viên có thể đặt ra những giới hạn
với các quyền ghi nhận trong Công ước, với các điều kiện sau:
- Thứ nhất, những giới hạn đó phải được quy định trong pháp luật
quốc gia. Yêu cầu này nhằm để tránh sự tùy tiện trong việc áp đặt các giới
hạn về quyền. Ở đây cũng cần hiểu ràng, kể cả khi những điều kiện hạn chế
được quy định trong pháp luật quốc gia thì chúng cũng không được trái với
nội dung của ICESCR.
15
- Thứ hai, những giới hạn đặt ra phải không trái với bản chât của các
quyền có liên quan. Yêu cầu này nhằm bảo đảm những giới hạn đặt ra không
làm tốn hại đến khả năng của các cá nhân có liên quan trong việc hưởng thụ
các quyền đó. Do bản chất của một số quyền con người, đặc biệt là các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa là khá trừu tượng nên việc đánh giá là một giới hạn
đặt ra có trái hay khơng với bản chất của một quyền thường phải dựa vào việc
xem xét vấn đề trong bối cảnh cụ thể.
- Thứ ba, nếu việc đặt ra các hạn chế về quyền là cần thiết trong một xã
hội dân chủ và nhằm mục đích duy nhất là để thúc đẩy phúc lợi chung của
cộng đồng. Liên quan đến điều kiện này, trong một số điều ước khác, danh
mục các mục đích được bổ sung thêm một số yếu tố như để bảo vệ an ninh
quốc gia (national security), để bảo đảm an toàn cho cộng đồng (public
safety), để bảo vệ sức khỏe hay đạo đức của cộng đồng (public health or
moral), và để bảo vệ các quyền, tự do hợp pháp của người khác (rights and
freedoms of others).
Một số quyền trong ICCPR và ICESCR mà cho phép các quốc gia
thành viên hai cơng ước này có thế đặt ra những giới hạn áp dụng, bao gồm:
Quyền thành lập, gia nhập cơng đồn và quyền đình cơng (Điều 8 ICESCR),
Quyền tự do đi lại, cư trú, xuất nhập cảnh (Điều 12 ICCPR), Quyền được xét
xử công khai (Điều 14 ICCPR), Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo
(Điều 18 ICCPR), Quyền tự do ngôn luận (Điều 19 ICCPR), Quyền hội họp
hịa bình (Điều 21 ICCPR), Quyền tự do lập hội (Điều 22 ICCPR).
Để áp dụng các biện pháp tạm đình chỉ các thực hiện các quyền con
người trong tình trạng khẩn cấp, Điều 4 Cơng ước về các quyền dân sự và
chính trị địi hỏi:
ĩTií? nhất, các biện pháp áp dụng phải thực sự xuất phát từ tình huống
khẩn cấp, do tình hình bắt buộc phải làm để cứu vãn sự sống còn của quốc
16
gia. Liên quan đên vân đê này, Uy ban quyên con người của Liên Hợp Quôc
đã đưa ra các nguyên tắc hướng dần dùng để xác định tính hợp lý của tuyên
bố về tình trạng khẩn cấp của các quốc gia.
Thứ hai, các biện pháp áp dụng không được trái với những nghĩa vụ
khác xuất phát từ luật pháp quốc tế, và đặc biệt là khơng được mang tính chất
phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, ngơn ngừ hoặc
nguồn gốc xã hội.
Thứ ha, các biện pháp này không được trái với quy định trong các Điều
6, 7, 8, 11, 15, 16 và 18 của ICCPR. Nói cách khác, kể cả trong tình huống
khẩn cấp, các quốc gia cũng khơng được tạm đình chì việc thực hiện các
quyền ghi nhận ở các Điều đã nêu, bao gồm: Quyền sống (Điều 6), quyền
không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục (Điều 7), quyền
không bị bắt giữ làm nô lệ hay nô dịch (Điều 8), quyền không bị bở tù chỉ vì
lý do khơng hồn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (Điều 11), quyền không bị áp
dụng hồi tố trong tố tụng hình sự (Điều 15), quyền được cơng nhận là thể
nhân trước pháp luật (Điều 16), quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tơn giáo
(Điều 18). Những quyền này được gọi là những quyền khơng thể bị đình chỉ
(non-derogatable rights).
Thứ tư, khi áp dụng các biện pháp này, phải thông báo ngay cho các
quốc gia thành viên khác của ICCPR thơng qua Tổng Thư ký Liên hợp quốc,
trong đó nêu rõ những biện pháp cụ thể đã áp dụng và thời gian dự định sẽ
chấm dứt áp dụng các biện pháp này.
về tính họp lý của các biện pháp áp dụng trong bối cảnh khẩn cấp cùa
các quốc gia, ủy ban Quyền con người Liên hợp quốc đã xác định những
nguyên tắc định hướng cho các quốc gia mà sau đó được nêu trong văn kiện
có tên là “Các nguyên tac Siracusa về các điều khoản giới hạn và tạm đình chì
trong ICCPR”. Có thể tóm tắt như sau:
17
Thứ nhât, các biện pháp áp dụng phải mang tính chât băt buộc như là
phương thức cuối cùng và việc áp dụng chỉ mang tính tạm thời, chỉ trong thời
gian quốc gia bị đe dọa. Hay nói cách khác đây là các biện pháp tạm đình chỉ
các quyền con người.
Thứ hai, việc áp dụng các biện pháp đó khơng làm ảnh hưởng đến việc
thực hiện các quyền con người khác, đặc biệt là các quyền khơng thể bị tạm
đình chỉ. Thậm chí trong khi áp dụng các biện pháp đó, cần phải tăng cường
bảo vệ các quyền không thể bị tạm đình chỉ.
Thứ ba, chỉ áp dụng các biện pháp đó khi có mối đe dọa thực sự và cấp
thiết với quốc gia. Mối đe dọa đó phải tác động đến toàn bộ quốc gia và thực
sự ảnh hưởng đến đời sống bình thường cùa dân chúng mà việc áp dụng các
biện pháp khắc phục bình thường sẽ khơng mang lại kết quả.
1.2. Pháp luật Việt Nam về giói hạn quyền con người, tạm đình chỉ
quyền con người
1.2.1. Các quy định pháp luật trước Hiến pháp năm 2013
Các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đều chỉ quy định về quyền
công dân mà chưa nhắc tới “quyền con người”. Do vậy những hạn chế đối với
quyền trong những bản Hiến pháp trước đều là hạn chế với quyền công dân.
Ngày 9/11/1946 sau hơn 10 ngày làm việc khẩn trương quốc Hội đã
thông qua bản Hiển pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.Tuy
nhiên vào ngày 19/12/1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn
cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 khơng được chính thức cơng bố, việc tổ
chức tổng tuyền cử bầu nghị viện nhân dân khơng có điều kiện thực hiện. Tuy
nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh cùng với ban thường vụ
Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều
hành mọi hoạt động của nhà nước.
Hiến pháp 1946 đã cỏ quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân
18
ở chương II với 18 điêu. Với bản Hiên pháp đâu tiên này Việt Nam đã ghi
nhận các quyền cơ bản nhất của mồi người: Quyền binh đẳng, quyền tự do
ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi
lại, cư trú trong nước và ra nước ngồi, quyền khơng bị giam cầm một cách
tùy tiện, quyền bí mật thư tín... Tuy nhiên hầu hết các quy định khơng nêu ra
sự giới hạn, chỉ duy nhất có điều 15 “Trường tư được mở tự do và phải dạy
theo chương trình Nhà nước
Mặc các quyền đều được quy định không giới
hạn tuy nhiên điều này khơng có nghĩa là khơng có sự giới hạn. Nhà nước vẫn
sẽ giới hạn vì những mục đích, lý do chính đáng. Có những mục đích hiển
nhiên mà chúng ta có thể thấy như là quyền tự do xuất bản không cho phép
mọi người được phép xuất bản ra những ấn phấm có nội dung đồi trụy, hay
nội dung về chống phá nhà nước.
Mặc dù, vần cịn có những thiếu sót và vì hồn cảnh nên khơng thể
chính thức được thi hành nhưng đây chính là một bước tiến vượt bậc ở Việt
Nam. Hiến pháp 1946 cho đến nay vẫn được công nhân là một bản Hiến pháp
thực sự là tiến bộ [11].
• Giới hạn quyền con người theo Hiến pháp 1959
Sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội nói trên đã làm cho Hiến
pháp 1946 khơng có điều kiện áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặt khác, nhiều
quy định của Hiến pháp 1946 cũng khơng cịn phù họp với điều kiện cách
mạng nước ta ở miền Bắc lúc bấy giờ. Vì vậy, việc yêu cầu sửa đổi Hiến pháp
1946 đã được đặt ra. Ngày 01/4/1959, Bản dự thảo Hiên pháp mới đã được
cơng bố để tồn dân thảo luận và đóng góp ý kiến. Đến ngày 31/12/1959, tại
kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I đã thơng qua bản Hiến pháp mới thay thế
Hiến pháp năm 1946; và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh
cơng bố bản Hiến pháp này - Hiến pháp năm 1959.
về cơ bản thì giống như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 không quy
19
định về sự giới hạn đối với hầu hết các quyền ngay cả những quyền mà cần
phải giới hạn do hàm chứa những mỗi nguy hại nếu như không được giới hạn.
Tuy nhiên Hiến pháp 1959 đã có nhưng quy định làm cơ sở cho việc giới hạn
quyền con người. Ví dụ như
Điều 38: Khơng ai được lợi dụng cảc quyền tự do dân chủ đê xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước và của nhăn dãn.
Điều 39: Công dân nước Việt Nam dãn chủ cộng hồ có nghĩa vụ tuân
theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng, và những quy
tắc sinh hoạt xã hội.
_
-
ư
w
-
-
ĩ
r
Quy định trên không cho phép mọi người được tự do thụ hưởng qun
của mình một
cách tự• do mà xâm Xphạm
tới lợi
ích nhà nước và nhãn dân.
•
•
•
Trên cơ sở những quy định này thì nhà nước Việt Nam có thể giới hạn
quyền công dân bằng cách đặt ra các điều kiện thụ hưởng cho quyền.Đây là
một bước tiến mới so với Hiến pháp 1946 [12],
• Giới hạn quyền con người theo Hiến pháp 1980
Ngày 30/4/1975 đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, đất nước hoàn tồn thống nhất, non sơng thu về một mối. Ngày
25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu đã bầu
ra 492 vị đại biểu Quốc hội (khóa VI). Từ ngày 24/6 đến 03/7/1976, Quốc hội
khóa VI tiến hành kỳ họp đầu tiên. Tại kỳ họp này, ngày 02/7/1976, Quốc hội
đã quyết định đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; đồng thời ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập
Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ
tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch ủy ban dự thảo Hiến pháp
mới. Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thơng
qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với Hiến pháp
năm 1980, lần đầu tiên vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được
20