Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo hiến pháp năm 1946 (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.52 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯƠNG DUY HÒA

cơ CHÊ KIỂM SOÁT QUYỂN Lực NHÀ Nước
THEO HIẾN PHÁP NĂM 1946
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN
VĂN
THẠC

LUẬT
HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐẶNG MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận vãn là công trình nghiên cứu của riêng

tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ


cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận vãn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tât cả các

mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chỉnh theo quy định

của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Lương Duy Hòa


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐÀU..................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VÈ cơ CHẾ KIỂM SỐT NHÀ NƯỚC VÀ VỊ

TRÍ, VAI TRỊ CỦA HIẾN PHÁP ĐĨI VỚI KIẾM SỐT QUYỀN
Lực NHÀ NƯỚC......................................................................................... 6
1.1.

Khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước.................................... 6


1.1.1.

Khái quát về quyền lực Nhà nước................................................................. 6

1.1.2.

Cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước....................................................... 13

1.2.

Các cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước.............................................. 21

1.2.1.

Cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy Nhà nước......................... 21

1.2.2.

Cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngồi bộ máy Nhà nước......................... 25

1.3.

Vị trí, vai trị của Hiến pháp đối với việc kiểm soát quyền lực

Nhà nước................................................................................................... 27

1.3.1.

Kiềm soát quyền lực Nhà nước - Lý do ra đời của Hiến pháp................. 27


1.3.2.

Hiến pháp - biểu hiện kiểm soát quyền lực Nhà nước.............................. 36

Kết luận Chưong 1................................................................................................. 47
Chương 2: HIÉN PHÁP NẢM 1946, VÀ nhũng giá trị của co

CHẾ KIẺM SOÁT QUYỀN LỤC NHÀ NUỚC TRONG HIẾN
PHÁP NĂM 1946.......................................................................................48

2.1.

Bối cảnh và các nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1946..................48

2.1.1.

Bối cảnh của Hiến pháp năm 1946 ............................................................. 48

2.1.2.

Nội dung cơ bản cùa Hiến pháp năm 1946................................................. 57

2.2.

Đặc điểm cơ chế kiểm soát quyền lực Nhànước trong Hiến pháp

năm 1946................................................................................................... 61

2.2.1.


Kiểm soát quyền lực Nhà nước nhằm bảo đảm quyền lực Nhà nước

thuộc về Nhân dân...................................................................................... 61


2.2.2.

Cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực theo Hiến pháp 1946 - hạn
chế quyền lực Nhà nước...............................................................................68

2.3.

Các phương thức kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp
năm 1946..................................................................................................... 74

2.3.1.

Cơ phương thức kiểm soát quyền lực Nhà nước bên trong bộ máy
Nhà nước..................................................................................................... 74

2.3.2.

Cơ phương thức kiếm soát quyền lực Nhà nước bên ngoài bộ máy
Nhà nước..................................................................................................... 83

2.4.

Một số giá trị tham khảo của cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà
nước trong Hiến pháp năm 1946 đối vóí việc hồn thiện cơ chế


kiểm sốt quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 2013.................. 87
2.4.1.

Quyền lực Nhân dân trong Hiến pháp 2013 và sự kế thừa từ Hiến pháp

1946 trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước.............................................. 87
2.4.2.

Cơ chế phân cơng, phối hợp, kiểm sốt trong việc kiểm sốt quyền
lực Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013..................................................... 91

2.4.3.

Tiếp tục xây dụng và hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực theo Hiến
pháp năm 2013.............................................................................................. 94

Kết luận chưong 2.................................................................................................... 98

KẾT LUẬN............................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................101


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẲT

ĐHQGHN:

Đại học Quốc gia Hà Nội

HĐND:


Hội đồng nhân dân

HP:

Hiến pháp

ICCPR:

Các quyền dân sự, chính trị

ICESCR:

Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

MTTQVN:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

QLNN:

Quyền lực Nhà nước

ƯBHC:

ủy ban hành chính

VNDCCH:

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỎ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên cùa nước VNDCCH, đã trải

qua 75 năm (2021 - 1946) lịch sử của đất nước. Sau hơn 80 năm làm nô lệ dưới sự
cai trị của thực dân Pháp, và đế quốc Nhật, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành

công đã đưa đất nước ta sang một kỷ nguyên mới, đất nước được khai sinh và hồi
sinh với một nền độc lập, tự chủ tự cường của một dân tộc đã chịu nhiều đau thương
và tủi nhục. Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã trả lại cho dân tộc Việt Nam một nền

độc lập tự do mà dân tộc ta có quyền được hưởng, không một thế lực nào được xâm

phạm hay cưỡng bức nền độc lập tự do này. Toàn dân tộc Việt Nam quyết tâm gìn
giữ và bảo vệ nền độc lập tự do độc lập ấy bằng cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và

của cải. Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba

Đình lịch sử với những khẳng định như vậy trước tồn thể nhân dân. Sau đó Chính
phủ cách mạng lâm thời được thành lập, người đứng đầu chính phủ là Hồ Chí Minh,

với tầm nhìn chiến lược
• về một

• đất nước với một
• nền độc
• lập
• 1 tự• do cùng với mục
• tiêu
là đảm bảo quyền con người, Hồ Chí Minh đã chủ chương chỉ rõ: “Trước chúng ta
đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần

chuyên chế, nên nước ta khơng có Hiến pháp. Nhân dân ta khơng được hướng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phái có một nền Hiến pháp dân chủ ” [24, tr.365]. Có thế coi

lời nói này của Hồ Chí Minh là một lời tuyên ngôn về sự ra đời một bản Hiến pháp đầu

tiên của đất nước ta. Tuy nhiên bản Hiến pháp năm 1946 ra đời nhưng do đất nước
bước vào một cuộc chiến tranh, nên Hiến pháp không được áp dụng trong thời gian

này, nhưng giá trị trong Hiến pháp vẫn là một lịch sử của ngành khoa học pháp lý.
Kiểm soát quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp là các hoạt động có chủ đích

của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với xã hội bằng những quy định của Hiến pháp
và pháp luật trong việc hạn chế quyền lực Nhà nước, đế việc tố chức và thực hiện
quyền lực Nhà nước được thực hiện đúng mục đích, phù hợp với một quy định bắt

buộc và nâng cao hiệu quả quyền làm chủ, lợi ích của nhân dân. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực Nhà nước là một chính thể với các cơ sở pháp lý chặt chẽ để đảm bảo


quyên lực Nhà nước được tô chức và thực hiện đúng với mục đích và thật sự hiệu

quả. Cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước theo quy định trong Hiến pháp chỉ có

thể mang lại hiệu quả và hiệu lực khi nó được xây dựng một cách chặt chè bằng một

hệ thống pháp luật. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về cơ chế kiểm soát

quyền lực Nhà nước qua các bản Hiến pháp khác nhau, nhưng đã 3/4 thế kỷ trôi qua

với những bản Hiến pháp ra đời sau này của đất nước ta, việc xây dựng cơ chế kiềm

soát quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp rất sau này đã chú trọng và được xây dựng
rất khoa học và có tính pháp lý cao. Việc học viên lựa chọn đề tài “Co chế kiểm soát

quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp năm 1946” để nghiên cứu viết luận văn tốt

nghiệp thạc sĩ, và làm cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học, so sách với cơ chế kiểm

soát quyền lực Nhà nước với các bản Hiến pháp sau này của nước ta sau này.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài






2.7. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu lịch sử ra đời và nội dung của Hiến
pháp nước Việt Nam DCCH năm 1946, trong đó nghiên cứu trọng tâm về cơ chế

kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp. Theo đó, nghiên cứu cơ chế tổ
chức Nhà nước VNDCCH với nhừng quy định trong Hiến pháp, cùng với những


quy tắc phân quyền theo quy định của Hiến pháp. Làm sáng tò những cơ sở lý
luận về cơ chế kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 1946, từ đó phân tích
được những giá trị kế thừa, xây dựng và phát triển cơ chế kiểm soát quyền lực

Nhà nước sau này.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cúu của luận văn

Để thực hiện được mục đích trên đây, luận văn cỏ những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất'. Nghiên cứu tư tưởng lập hiến cùa Hồ Chí Minh, phân tích hồn

cảnh ra đời, và những nội dung tổ chức Nhà nước của Hiến pháp năm 1946.

Thứ hai'. Nghiên cứu cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước và cách thức

phân quyền theo Hiến pháp năm 1946
Thứ ba: Nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa
cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 1946,.

2


Thứ tư: Phân tích, đánh giá cơ chê pháp lý vê kiêm soát Nhà nước theo Hiên

pháp năm 1946 với những giá trị trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cún
Luận văn nghiên cứu các quan điểm lý luận khoa học, với những tư tướng,

quan điểm đã trở thành các học thuyết kinh điển trong khoa học pháp lý về tổ chức
QLNN, cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước nói chung và cơ chế kiểm sốt QLNN

theo Hiến pháp năm 1946 nói riêng. Nội dung được quy định trong Hiến pháp là cơ
đối tượng nghiên cứu những vấn đề về Nhà nước Việt Nam DCCH và cơ chế kiểm

soát quyền lực Nhà nước theo những quy định của Hiến pháp năm 1946.

3.2. Phạm vi nghiên cún

Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu cơ chế kiềm soát QLNN theo Hiến

pháp năm 1946, trong đó tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2013.
Phạm vỉ về nội dung: Nghiên cứu tư tưởng lập hiến cùa Hồ Chí Minh, bối
cảnh ra đời bản Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đơng. Cơ chế pháp lý kiểm sốt

QLNN qua những quy định trong Hiến pháp năm 1946, trong đó nghiên cứu nguồn

gốc của cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước qua các học thuyết của các nhà triết
học châu Âu qua các thời kỳ, bên cạnh đó luận văn cũng có những nhận xét và rút

ra được những giá trị tham khảo của cơ chế kiểm soát QLNN theo Hiến pháp năm
1946 đối với việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát QLNN theo Hiến pháp năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cún

Để đạt được các mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. Luận văn sử







2









dụng phương pháp chú nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
triết học Mác - Lênin để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.

Trong từng phương diện cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp sau đây:

Phương pháp phân tích: Phương pháp phân tích được áp dụng đế phân tích

các tài liệu bao gồm; Hiến pháp năm 1946, các bài báo, tạp chí khoa học, các nhận
định của các tác giả thực hiện việc nghiên cứu và phát hành trên phương tiện truyền

3


thơng vê cơ chê kiêm sốt qun lực Nhà nước, tác phâm nước ngoài được dịch
sang tiếng Việt, sách chuyên khảo của các tác giả Khoa Luật - ĐHQGHN.

Phương pháp lịch sử: Phương pháp này là nghiên cứu những vấn đề lịch sử
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn với những giai đoạn ra đời bản Hiến pháp

đầu tiên của đất nước ta. Thống kê những giá trị lịch sử để có dẫn chứng việc ra đời

Hiến pháp năm 1946.
Phương pháp phân tích tổng họp: Phương pháp này được sử dụng trong suốt
quá trình nghiên cứu luận văn, thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, phương

pháp này hệ thống hóa và làm sáng tở cơ sở khoa học của cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp năm 1946.

Phương pháp luật học so sánh: Phương pháp này được sử dụng để nghiên
cứu so sánh mơ hình, cơ chế, kinh nghiệm của một số nước, từ đó rút ra nhừng giá

trị tham khảo cho Việt Nam.
5. Những đóng góp của đề tài

Đánh giá và nhận xét những nhận thức cơ bản trên phương pháp và lý luận
trong cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước theo bản Hiến pháp năm 1946 của nước

VNDCCH. Cách tổ chức quyền lực Nhà nước, và cơ chế kiểm soát QLNN trong

Hiến pháp năm 1946. Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất các giải pháp tiếp tục
xây dựng và hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước đối với việc hồn

thiện cơ chế kiểm sốt QLNN.
Mặc dù đã có nhiều học giả, luận văn nghiên cứu về vấn đề kiểm soát quyền

lực Nhà nước, tuy nhiên luận văn của tác giả cũng góp phần phân tích đầy đủ và
tồn diện về cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 để từ
đó tạo ra những giải pháp cho việc nghiên cứu việc kiềm soát quyền lực Nhà nước


qua các bản Hiến pháp sau này, cũng như việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực

cho những nghiên cứu khoa học pháp lý sau này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
6.1. Ỷ nghĩa lỷ luận của luận văn
\'è mặt lý luận, luận văn kế thừa những cơng trình nghiên cứu khoa học
trước đây để bồ sung vào hệ thống lý luận các khái niệm về kiềm soát QLNN. Việc

4


nghiên cứu đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận vê cơ chê kiêm soát QLNN giữa các cơ

quan thực hiện quyền lực Nhà nước.
về mặt phân tích, luận văn cũng nêu ra được những vấn đề đặc điểm, khái
niệm, cơ chế, vai trò, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa cơ chế kiểm soát

QLNN qua việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tiếp theo đó là

chỉ ra nhừng quan điềm và giải pháp hồn thiện cơ chế pháp lý về kiềm sốt QLNN
trong việc thực thi quyền lực này. Cùng với đó là việc xây dựng và hồn thiện cơ

chế kiểm sốt QLNN theo Hiến pháp năm 2013.
6.2. Ỷ nghĩa thực tiễn của luận văn
về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu

tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong trinh xây
dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước ta. Kết quả nghiên cứu của luận vàn cũng là

tài liệu tham khảo bố ích cho việc giảng dạy, học tập và nghiến cứu trong lĩnh vực


khoa học pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gôm 2 chương, và các nội dung khác gôm phân mở đâu, kêt luận,

danh mục tài liệu tham khảo.




Chương 1* Lý luận vê cơ chê kiêm soát quyên lực Nhà nước và vị trí, vai trị
A

r

7

-

x

của Hiên pháp đơi với việc kiêm soát quyên lực Nhà nước.
Chương 2\ Hiến pháp năm 1946 và những giá trị của cơ chế kiểm soát quyền
lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1946.

5


Chương 1
LÝ LUẬN VÈ Cơ CHẾ KIẾM SOÁT NHÀ NƯỚC VÀ


VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA HIẾN PHÁP ĐỐI VỚI

KIỂM SỐT QUYỀN LỤC NHÀ NƯỚC

1.1. Khái niệm cơ chê kiêm soát quyên lực Nhà nước
1.1.1. Khái quát về quyền lực Nhà nước
1.1.1. ỉ. Quyền lực Nhà nước

Quyền lực (power), theo Từ điển Oxford, là “khả năng hoặc năng lực làm

một việc nhất định hoặc hành động theo một cách thức nhất định”, hoặc là “năng
lực hay khả năng điều khiển hay tác động đến thái độ của người khác hoặc đến diễn

biến của một sự việc” [33, tr.23].
Quyền lực Nhà nước “là quyền lực dựa trên sức mạnh của bộ máy nhà

nước; là khả năng sử dụng nhà nước để thực hiện ý chí của giai cấp thong trị (hoặc
của nhân dân) buộc xã hội phải phục tùng ỷ chí đỏ” [19].

Quyền lực Nhà nước là một bộ phận chú yếu, cơ bản và cốt lõi cùa quyền lực
chính trị. QLNN tồn tại trong mối quan hệ giữa các tổ chức cá nhân, tổ chức trong
xã hội với Nhà nước và phục tùng Nhà nước. Theo một cách hiểu khác thì quyền
lực Nhà nước là quyền lực chính trị và của giai cấp thống trị được thực hiện bàng

Nhà nước, hoặc “quyền lực nhà nước là khả năng sử dụng nhà nước đế thực hiện ỷ

chỉ của giai cấp thổng trị (của nhân dãn) buộc xã hội phải phục tùng ỷ chí đó.
QLNN là quyền lực chỉnh trị được thực hiện bằng nhà nước” [1]. QLNN là một


dạng quyền lực đặc biệt của quyền lực chính trị. Sở dĩ là quyền lực đặc biệt là bởi vì
đó là quyền lực nhân danh cộng đồng thực hiện một cách công khai trong mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội. QLNN được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế nhằm bắt

buộc các chủ thể khác phải phục tùng quyền lực này, và biện pháp cưỡng chế bằng
nhân danh Nhà nước và được thực hiện bởi bằng cơ quan Nhà nước.

Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng về chính trị - triết học đà cho rằng
quyền lực Nhà nước là cái vốn có trong xã hội. Nguồn gốc của quyền lực Nhà nước

6


được các nhà triêt học giải thích theo nhiêu cách khác nhau qua các thời kỳ khác
nhau nhưng vẫn có sự kế thừa và phát triển từ các ý niệm qua các học thuyết và các

tác phẩm về quyền lực Nhà nước. Trong thời kỳ phong kiến, QLNN có thể được

giải thích và hiểu là do hiện tượng siêu nhiên, là ý niệm tuyệt đối, hoặc là sản phẩm
của Thượng đế, Chúa trời, hoặc do các hiện tượng trong xã hội ... Quan niệm của
Aristotle thì quyền lực Nhà nước là sự hình thành một cách tự nhiên do con người

sống trong xã hội tạo nên, do vậy trong xã hội tất yếu sẽ tồn tại một trật tự tự nhiên
là có một số người ra lệnh và một số người phải phục tùng.
Đến thời kỳ khai sáng (thời kỳ cận đại) cùng với đòi hởi của con người về sự

tự do, dân chủ, giai cấp tư sản đã chống lại sự chuyên quyền độc đoán của Nhà

nước phong kiến, địi hỏi và tìm kiếm sự bình đẳng trong việc tham gia và nắm giữ

quyền lực Nhà nước. Mục đích của quyền lực Nhà nước là giữ gìn các quyền tự
nhiên và khơng thể tước bỏ của con người. Chính quyền Nhà nước phải được thành

lập gồm những người lấy quyền lực chính đáng cùa mình từ sự nhất trí của nhân

dân. Điều quan trọng là nhân dân lại trao cho mình quyền có thể thay thế Nhà nước

nếu như nó khơng thực hiện khế ước đã ký. Tư tường về quyền lực Nhà nước trong
thời kỳ này bắt đầu khởi nguồn từ một nhà triết học người Anh, John Locke là

người theo trường phái chủ nghĩa kinh nghiệm Anh trong lĩnh vực nhận thức luận,
trong tác phẩm “Hai khảo luận về chínlĩ quyền” của John Locke chính là nền tảng

về nguồn gốc của quyền lực Nhà nước trong thời kỳ này, đó cũng mang tính bước
ngoặt của cách mạng tư sản ở châu Âu, những luận điểm của ông sau này được các
nhà tư tưởng sau này kể thừa và phát triển trong thời kỳ khai sáng như; Voltaire,

Montesquieu, J.J Rousseau ...
Ke thừa những tư tưởng từ học thuyết cùa John Lock, một nhà khai sáng

vĩ đại Montesquieu người Pháp đã giải thích quyền lực trong mỗi một quốc gia
đều có 3 quyền:

Trong mồi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi

hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những
điều trong luật dân sự. Với quyền thứ nhất, Nhà vua hay pháp quan làm

7



ra các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay hủy bỏ

luật này. Với quyền thứ hai, Nhà vua quyết định hòa hay đinh chiến, gửi
đại sứ các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược. Với quyền thứ ba,
Nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các

cá nhân. Người ta sẽ gọi đây là quyền tư pháp, vì trên kia là quyền hành

pháp quốc gia [25, tr.lOOJ.
Theo quan điểm về triết học của chủ nghĩa Mác - Lê nin, QLNN vừa có bản
chất giai cấp vừa có bản chất xã hội. Bản chất về giai cấp thể hiện là quyền lực

chính trị của giai cấp, hoặc liên minh giai cấp chiếm địa vị thống trị về kinh tế trong
xã hội, là cơng cụ bạo lực có tổ chức của một giai cấp này để trấn áp một giai cấp

khác, về bản chất xã hội là do QLNN là một dạng quyền lực cơng cùa tồn xã hội
và được lập nên đế thực thi những chức năng công này trong việc duy trì lợi ích

chung cùa xã hội. Bởi vậy, QLNN có thể coi là quyền lực do nhân dân úy quyền,

không phải “quyền tự nhiên

được thiết lập và duy trì bằng pháp luật.

Trong Nhà nước hiện đại sau này, về cơ bản thi QLNN được xây dựng và tồ

chức thực hiện bằng 3 quyền năng cụ thể gồm; Quyền lập pháp, quyền hành pháp

và quyền tư pháp.

Quyền lập pháp
Thuật ngữ quyền lập pháp trong quan niệm của các nhà khoa học trên thế

giới đã xuất hiện từ rất sớm. Đó là “cơ quan quyền lực lập pháp là nơi có quyền

định hướng việc sử dụng sức mạnh của cơng quốc như thế nào cho sự bảo tồn cộng
đồng và thành viên của nó” [17, tr.197].

Cùng với sự phát triển của xã hội, ngày nay các nhà khoa học pháp lý cũng

có các quan điểm khác nhau về quyền lập pháp, theo Giáo sư Nguyễn Đăng Dung -

Khoa Luật ĐHQGHN thì: “Quyền lập pháp thủa ban đầu được dùng để chỉ các
hành vi thảo luận và ban hành các vãn bản chứa đựng quy phạm pháp luật, quyền
này còn được gọi là quyền làm luật (ra luật), nhưng sau đó theo thời gian quyền làm
luật được mở rộng sang các lĩnh vực khác như: giám sát, thành lập Chính phú hành pháp, bỏ phiếu tín nhiệm hành pháp, thậm chí cịn là xét xử cả quan chức cao

8


cấp ... Tất cả những hành vi nói trên đều được hiểu trong phạm vi của quyền lập

pháp, quyền của cơ quan được thành lập từ sự ủy thác của cử tri ” [3, tr.82J. Cũng
với quan điểm ở cách tiếp cận khác, Giáo sư Trần Ngọc Đường thì cho rằng: “quyền
lập pháp là quyền đại diện cho Nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Những

người được nhân dân trao cho quyền này là những người do phồ thông đầu phiếu

bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội ” [411.
Quyền lập pháp là quyền được đại hiện cho ý chí của mọi tầng lóp Nhân dân


thông qua việc biểu quyết hay đại diện bằng một đạo luật, một quy định của chính

sách quốc gia đó, cùng với việc giám sát việc thi hành chính sách của quốc gia.
Trong thực tế, bản chất của quyền lập pháp là mang tính đại diện cho ý chí chung
của tập thể trong việc biểu quyết thông qua luật chứ không thống nhất với quyền

xây dựng và làm luật. Hiến phấp của các quốc gia trên thế giới đều trao quyền này
cho Quốc hội hoặc Nghị viện, vì thế mà cơ quan này được gọi là cơ quan lập pháp

hay cơ quan thực hiện quyền lập pháp.
Quyền hành pháp:

Cũng như quyền lập pháp, quyền hành pháp là thuật ngữ được hình thành từ
rất sớm của các nhà khoa học trên thế giới. Trong cuốn; “Tinh thần pháp luật”

Montesquieu cho rằng quyền hành pháp là quyền mà; “quyết định việc hòa hay chiến,

gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh và đề phòng xâm lược” [25, tr.lOO]. Cơ quan
hành pháp phải được thành lập bởi cơ quan lập pháp và cơ chế hoạt động dựa trên

nguyên tắc dân chủ, mọi người dân đều có thể tham gia vào việc quản lý Nhà nước

thơng qua quyền của mình bằng cơ quan lập pháp. Theo J. Jacques Rousseau: “ý

chí riêng thường tác động ngược lại ý chí chung, cho nên Chính phủ cũng thường hay
có ỷ hướng làm trái với quyền lực tối cao của dân chúng ” và những người nắm quyền
lực chính trị “phải làm đủng theo pháp luật, chỉ cho phép làm những điều mà pháp

luật cho phép ” [ 16, tr. 131 ]. Theo từ điển luật học, “quyền quản lỷ hành chính nhà nước

về mọi lĩnh vực đời Sống xã hội như chỉnh trị, kinh tế, vãn hóa, xã hội, giáo dục, quốc

phịng, an ninh, đối ngoại ... trên phạm vi tồn lãnh thơ quốc gia” [2, tr.651]

9


Cũng theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung ông cho rằng quyền hành pháp chính
là “quyền hoạch định và điều hành chính sách quốc gia ” [40].

Quyền hành pháp, theo Giáo sư Phạm Hồng Thái - Khoa Luật ĐHQGHN thì:

Quyền điều hành đất nước là nhánh quyền lực hình thành sớm hơn so với
các nhánh quyền lực khác, nó gắn liền với lịch sử nhà nước. Do vậy, trên
thực tế quyền hành pháp luôn nổi lên là trung tâm của quyền lực nhà

nước. Thực tiễn đã chứng minh rằng: hành pháp mạnh biết quản lý, biết
dẫn dắt các quá trình xã hội phát triển phù hợp với các quy luật cùa tự

nhiên và xã hội tất yếu dẫn đất nước tới sự phát triển, phồn vinh, cịn khi
hành pháp yếu khơng có khả năng quản lý tất yếu dẫn đất nước tới những

cuộc khủng hoảng về chính trị - kinh tể - xã hội [42].

Ở mỗi quốc gia trên thế giới, theo Hiến pháp thì quyền hành pháp được trao

cho Chính phù, do đó mà Chính phũ cịn được gọi là cơ quan hành pháp hay cơ
quan thực hiện quyền hành pháp.

Quyền tư pháp:

Montesquieu cũng trong tác phấm “Tinh thần pháp luật” đã giải thích quyền
tư pháp trên cơ sở phân biệt quyền lập pháp và hành pháp, theo ơng thì quyền tư

pháp là quyền: “Nhà vua hay phán quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp

giữa các cá nhân ” [25, tr.100]. Tư pháp dùng để chi các cơ quan tòa án trong hoạt
động xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt

động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án [26].
Cũng có những quan điểm khác khi đưa ra khái niệm về quyền tư pháp,

GS.TS Lê Hồng Hạnh cho rằng:

Trong cơ chế phân công quyền lực, quyền tư pháp được hiểu là quyền của
Nhà nước xác định và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và thực thi công

lý thông qua các thể chế phù họp. Thiết chế này có chức năng cơ bản nhất,
nếu khơng muốn nói là chuyện duy nhất, thay mặt xã hội thực thi công lý và
nó phải được tố chức, được giao nhiệm vụ, quyền hạn thực thi trong mắt
nhân dân. Thiết chế thực thi công lý bao gồm các thẩm phán [14].

10


Quyên tư pháp là một trong ba quyên của QLNN (quyên lập pháp, hành

pháp, và tư pháp) ba quyền này hợp thành và tạo nên một thiết chế nhằm bảo đảm
cân bằng quyền lực Nhà nước, và chống lại sự lạm quyền trong việc thực hiện

QLNN. Có thể hiểu rằng quyền tư pháp là một trong ba bộ phận quyền lực để họp

thành một QLNN, quyền tư pháp có nhiệm vụ duy trì, bảo vệ cơng lý, trật tự xã hội
do tịa án thực hiện với hoạt động chính là hoạt động xét xử trên nguyên tắc tuân thủ

Hiến pháp và pháp luật.

1.1.1.2. Đặc trưng của quyền lực Nhà nước
QLNN là một quyền lực đặc biệt trong xã hội, mặc dù tồn tại rất nhiều dạng
quyền lực trong xã hội và do cũng do nhiều chủ thể khác nhau nắm giữ quyền lực

này. Chính vì QLNN là quyền lực đặc biệt trong các dạng quyền lực, nên quyền lực
Nhà nước cũng có những đặc trưng đặc biệt, đó là:

Thứ nhất: QLNN là quyền lực chính trị mang tính giai cấp.

Theo quan điểm của Mác - Lê nin thì khi xã hội phát triển đến giai đoạn nhất
định thì dẫn đến sự phân hóa thành giai cấp có lợi ích mâu thuẫn nhau, và xung đột

lẫn nhau, Để giải quyết những mâu thuẫn giai cấp này để duy trì xã hội có một trật
tự thì phải có một thứ quyền lực công là quyền lực Nhà nước. Sự ra đời và tồn tại

của quyền lực là yếu tố khách quan, và chỉ xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử

nhất định và sẽ mất đi khi xã hội khơng cịn giai cấp. c. Mác cho rằng giai cấp nào
thống trị về kinh tế thì sớm hay muộn cũng trở thành giai cấp thống trị về chính trị,
khi có đấu tranh giai cấp thì quyền lực kinh tế lại khơng có đủ sức mạnh để duy trì

mồi quan hệ và giải quyết những mâu thuẫn giữa các giai cấp. Do đó, quyền lực
kinh tế cần đến quyền lực chính trị, một loại quyền lực dựa vào sức mạnh bạo lực,

được tổ chức chặt chẽ dưới hình thức bộ máy “bạo lực có tơ chức ” [22] để duy trì

trật tự trong xã hội, và cũng ngăn chặn sự xâm hại đến trật tự đó. Ngược lại, giai cấp

nào đã có quyền lực chính trị thì cũng phải sử dụng nó để chiếm lấy quyền lực kinh

tế, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình.
Như vậy bản chất quyền lực Nhà nước là một hiện tượng chính trị và phụ
thuộc vào giai cấp thống trị và đề phục vụ cho giai cấp đó, Mác - Lênin đã chỉ ra

vấn đề này; vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền.

11


Thứ hai: QLNN được hình thành từ sự ủy quyên

QLNN là quyền phái sinh bắt nguồn từ quyền lực của Nhân dân, quyền lực

này trải qua sự phát triển của thời gian thông qua các học thuyết của các nhà triết
học như John Locke, Montesquieu ... theo đó, QLNN được hình thành từ sự ủy
quyền của nhân dân cho Nhà nước thay mặt mình dưới hình thức dân chủ đại điện
hoặc dân chủ trực tiếp. QLNN được hình thành từ sự ủy quyền như vậy thì quyền
lực của mỗi cá nhân đà được chuyển sang thành quyền lực công (quyền lực Nhà

nước), khi có sự chuyển giao như vậy thì quyền lực đó khơng cịn phụ thuộc vào ý
trí của mỗi cá nhân đó nữa mà phụ thuộc vào ý chí của chung của cả Nhà nước, khi

này thì các cá nhân lại phải chịu sự chi phối và phục tùng quyền lực Nhà nước khi
Nhà nước thực hiện quyền lực của mình.

Thứ ha: Chủ thể chính thực thi QLNN chỉ có các cơ quan Nhà nước

Nhà nước là tố chức đặc biệt trực tiếp mang quyền lực Nhà nước và thực thi
quyền lực đặc biệt này với một bộ máy Nhà nước hùng hậu được tổ chức có hệ

thống quản lý từ trung ương tới địa phương với đội ngũ công chức, viên chức và các

thành phần khác. Bộ máy Nhà nước có trách nhiệm rất lớn và nặng nề trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, do đó bộ máy Nhà nước có những quyền năng đặc biệt để
tổ chức quản lý điều hành các vấn đề về đối nội, đối ngoại. Các quyền năng này

được phân công một cách hợp lý cho các tố chức cá nhân trong bộ máy Nhà nước

để thực hiện quyền hạn, và chịu trách nhiệm trong quyền hạn được thực thi. Là một
tổ chức mà có đủ ba quyền là lập pháp, hành pháp và tư pháp nên pháp luật do Nhà

nước ban hành có tình bắt buộc chung và mọi chủ thề tham gia phải tôn trọng và
bảo vệ pháp luật.
Thứ tư: QLNN thực hiện chức năng quản lý hầu hết các lĩnh vực trong đời
sống xã hội

Là một quyền lực công đặc biệt, nên tương ứng với quyền này cũng giữ một
vị trí, vai trị rất quan trọng trong xã hội với hầu hết các lĩnh vực quan trọng của xã
hội như; Thực hiện công việc đối ngoại, ngoại giao trên khắp lĩnh về chính trị và

kinh tế để phát triển quốc gia; Các chính sách quốc gia và xây dựng, ban hành pháp

12


luật, tơ chức thực thi chính sách của pháp luật, đảm bảo cho một xã hội mà pháp


luật được công bàng và nghiêm minh; Quản lỷ điều hành các lĩnh vực quan trọng
trong xã hội; Đảm bảo anh ninh chính trị, an toàn xã hội; Bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân bằng luật pháp; Trọng tài cho các tranh chấp trong xã
hội và xét xử các vi phạm pháp luật; Tổ chức thanh tra, kiếm tra, giám sát các hoạt

động của việc thực hiện chính sách pháp luật. Khi Nhà nước tham gia ngày càng

nhiều hon vào các hoạt động xã hội thì sứ mệnh của Nhà nước đối với xã hội ngày
càng lớn hơn.
Thứ năm: Quyền lực Nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy và cơng cụ

đặc biệt

Đó là các cơ quan Nhà nước và pháp luật do Nhà nước ban hành, Nhà nước
và pháp luật là những thiết chế với công cụ có tính cường chế rất cao, và có những

tác động rất mạnh, tác động trực tiếp và rất hiệu quả đế thực hiện quyền lực Nhà
nước. Cưỡng chế vừa mang yếu tố QLNN vừa mang tính quyết định để thực hiện
quyền lực này. So với các quyền khác có trong xã hội, có thể khẳng định QLNN là
quyền lực có được lợi thế và bảo đảm thực thi một cách hiệu quả và tốt nhất.

Ttó sáu: QLNN gắn liền với chủ quyền quốc gia, dân tộc.
QLNN một mặt mang tính giai cấp tồn tại trong mơi trường chính trị, khơng
những chỉ duy trì và bảo vệ trật tự xã hội có lợi cho giai cấp, mà cịn phải mang lại

lợi ích chung cho tồn xã hội, bảo đảm một sự cơng bằng cho tồn bộ xã hội.
QLNN gắn liền với phạm vi trong lãnh thổ quốc gia, không những chỉ làm hình

thành, củng cố chủ quyền quốc gia mà cịn thiết lập nên phạm vi khơng gian của
QLNN, điều này dẫn đến tính chú quyền của quốc gia, dân tộc trong việc thực hiện

chính sách đối nội và đối ngoại, nhằm duy trì bảo vệ sự tồn tại, và sự phát triển của

đất nước, cùng những lợi ích có được và sự phát triển chung của xã hội.
1.1.2. Cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước

1.1.2.1. Sự cần thiết phải kiêm soát quyền lực Nhà nước
Lý thuyết về kiểm soát quyền lực Nhà nước đã được phát triển bởi các học

giả tư sản phương Tây từ nhiều thế kỷ trước. QLNN là một dạng quyền năng đặc

13


biệt mang tính chính trị và có đây đủ tính xã hội giai câp, QLNN được hình thành từ
ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, và được nhận lại từ nhân dân

thơng qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ đại diện, như vậy QLNN là
quyền phái sinh từ một số đông nhân dân trao lại cho Nhà nước sử dụng quyền này,
khi đó Nhà nước với số ít sẽ được sử dụng trực tiếp quyền lực này, do đó số ít người

được sử dụng quyền này sẽ tác động lên số đông nhân dân đã trao quyền cho họ. c.

Mác gọi hiện tượng này là sự “tha hóa của quyền lực Nhà nước". Đe chống lại
những tiêu cực trong việc sử dụng QLNN, và những sự địi hỏi sự cơng bàng cho

một xã hội thì cần thiết phải kiểm sốt việc sử dụng QLNN bởi các lý do sau:

Thử nhất: Quyền lực Nhà nước được ủy nhiệm lại từ Nhân dân, đó khơng
phải là quyền lực tự nhiên mà có được hay từ đấng siêu nhân ban phát, mà là quyền


lực có nguồn gốc từ Nhân dân và của Nhân dân. Xét trên khía cạnh pháp luật về sự

cơng bằng thì Nhà nước phải phục vụ nhân dân bằng quyền lực này chứ không thế
dùng quyền lực này chấn áp hay cường bức Nhân dân. Do đó, xét từ khía cạnh đạo
đức, các công chức trong bộ máy Nhà nước

phải là người đầy tớ trung thành

của nhân dân. Tất cả cán hộ đều phải một lịng mót dạ phục vụ nhân dân " [23].
Cũng chính vì vậy mà quyền lực dễ bị một số người làm trái với sự ủy nhiệm của

Nhân dân đã trao quyền đó cho họ. Hành động của con người thì ln chịu sự tác

động của các loại tình cảm và dục vọng và những ham muốn khiến cho lý trí cùa

con người có những lúc bị chìm xuống trong những tác động đó.
Thứ hai: Quyền lực Nhà nước bao giờ cũng chỉ được một số ít người nắm
giữ, nên sẽ dẫn đến số ít người này thao túng, lạm dụng quyền lực này. Trong mỗi

con người luôn tồn tại hai thái cực là tính vị tha và tính ích kỷ, nó thể hiện một mặt
vì con người trong xã hội lồi người, mặt trái ngược là vì bản thân mình. Ngồi việc

con người bị chi phối bởi các lý tưởng, niềm tin tốt đẹp, thì con người cịn bị chi
phối bởi những toan tính cá nhân hay những cám dỗ bởi xã hội, cũng bởi một nhóm

người cùng bị những cám dỗ ấy chi phối thì sẽ dẫn đến những tiêu cực trong việc sử
dụng quyền lực công một cách vơ tội vạ nhằm mục đích mưu lợi riêng cho cá nhân

rất dễ xảy ra.


14


Thứ ha: Quyên lực Nhà nước là ý chí chung của xã hội nhưng lại được giao

cho một số ít người với những khả năng có hạn. Đã là con người, ai cũng có thể
mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm có thể sửa chữa được, có những sai lầm không
thể sửa chữa được do hậu quả của sai lầm đó là rất lớn cho một cộng đồng trong xã
hội phải gánh chịu. Người nắm quyền lực có thể dẫn dắt cả một tổ chức QLNN đi

theo những nhận thức với những mục tiêu chính trị sai lầm của mình, và do đó có thể

dẫn tới sự đố vỡ của cả một hệ thống. Lịch sử thế giới đã chứng kiến khơng ít các

trường hợp QLNN bị các cá nhan lạm dụng đã dẫn đến hậu quả khôn lường cho nhân
loại, mà khơng thể bằng mọi cách có thể sửa chữa lại được, cụ thể như sự tin tưởng
vào Hitler của người Đức trong chiến tranh thế giới thứ II, hay sự ham muốn khát

vọng của Pol Pot với sự diệt chủng một cách tàn độc đối với Nhân dân Campuchia,
... Do đó để chống lại những sai lầm đó, quyền lực đó cần phải được kiếm sốt.

Thứ tư: Quyền lực Nhà nước giữ quyền cưỡng chế hợp pháp. QLNN thường
được dùng để thực thi công việc bằng sự phục tùng, trong đó có quyền cưỡng chế
hợp pháp, những hành vi gây cản trờ cho việc thực hiện lợi ích chung cùa cộng

đồng, xã hội. Nếu quyền lực này được áp dụng một cách đúng đắn thì sẽ mang lại
cho xã hội một kết quả tốt đẹp, nhưng ngược lại, nếu nó bị sử dụng sai hoặc nó bị
lạm dụng thì hậu quả sẽ ngược lại cho cả một xã hội với một hậu quả tai hại vô

cùng. Không phải bao giờ việc cưỡng chế và can thiệp một cách đúng đắn cũng

mang lại hiệu quả một cách tích cực, lịch sử cũng đã chứng minh sự việc này trong
việc thực hiện chính sách đất đai ở miền Bắc nước ta trong năm 1956.

Thứ năm: Bản chất con người là lịng tham lực và khơng muốn có trách
nhiệm. Con người với những ham muốn về vật chất là không giới hạn, khi đó để có
vật chất thì con người cần phải có quyền lực, để sử dụng quyền này chiếm lấy vật

chất một cách theo mong muốn của con người. Bên cạnh đó là khi có quyền lực thì

con người bản chất cũng khơng muốn chịu trách nhiệm gì, khơng muốn nhận trách

nhiệm và gánh hậu quả do chính mình đế lại, do đó những quyền lực này được sử
dụng vào mục đích trốn tránh những trách nhiệm với mình, quyền lực càng cao thì

trách nhiệm càng giảm, do vậy mà quyền lực được con người ham mê và sự tham

15


lam vơn có trong bản chât của con người là khó mà xóa bở. Do đó QLNN cân phải

được kiểm soát chặt chè ngay trong những ý thức của con người, ý thức này đã
được hình thành từ rất sớm trong mỗi con người.
Tóm lại tất cả mọi quyền lực nói chung và đặc biệt là QLNN nói riêng rất

cần thiết phải có sự kiếm sốt, việc kiếm sốt phải theo một quy trình với một
khung pháp lý hồn tồn phù hợp, việc kiểm soát QLNN chủ yếu tập trung vào các

vấn đề cơ bản sau:
- Kiểm sốt tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động QLNN, kiểm soát các


vãn bản, các quyết định, các hoạt động, các hành vi của cơ quan sử dụng quyền lực

Nhà nước xem có phù hợp với những quy định đó khơng.
- Kiểm sốt phạm vi hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà

nước, kiểm soát việc thực hiện đúng nhiệm vụ trong quyền hạn được giao hay
khơng, có lộng quyền hay lạm quyền hay không, khi các cá nhân hay tổ chức Nhà

nước thực hiện QLNN trong nhiệm vụ của mình.
- Kiểm sốt các quy trình, thủ tục của các hoạt động QLNN trong các cơ

quan Nhà nước có đúng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật không.
1.1.2.2. Khái quát về cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước
a) Khái niệm cơ chế kiêm soát QLNN

Từ “cơ chế"" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le
Petit Larousse (1999) giảng nghĩa “mécanisme” là "cách thức hoạt động của một
tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Cịn Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngơn ngữ

học 1996) giảng nghĩa cơ chế là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện"". Từ
“cơ chế"" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối những năm
1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh tế,
với nghĩa như là những qui định về quản lý. Cách hiểu đơn giản này dẫn tới cách
hiểu tách rời cơ chế với con người như nêu trên [47].
Theo từ điển Tiếng Việt của GS Hồng Phê thì cơ chế có nghĩa là “cách

thức, sắp xếp tô chức đê làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện"" [28, tr.234J
Theo Từ điển Tiếng Việt, “kiểm sốt” có nghĩa là: “Xem xét để phát hiện,


16


ngăn chặn những gì trái với quy địnhTừ một góc độ khác, kiêm sốt có nghĩa là:
“Đặt trong phạm vi quyền hành của đối tượng nào đó” [32, tr.674]. Bản chất của

kiểm sốt nói chung hay kiểm sốt QLNN nói riêng nó là một hành động phịng

ngừa với mục đích ngăn chặn từ xa trước khi nó xảy ra làm cản trở hành vi làm trái
với quy định của pháp luật hay những hành vi lạm dụng quyền lực, “... quyền làm

cho quyết định của người khác trở thành vô hiệu” [25, tr.l 13J
Co chế kiểm soát quyền lực Nhà nước là “cơ cấu tơ chức bộ máy và quy

trình, thủ tục pháp lỷ nhằm ngăn ngừa và xử lý những hành vi vi phạm, lạm dụng
của các chủ thế nắm giữ quyền lực Nhà nước”. Theo nghĩa rộng hơn, khái niệm cơ
chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước nói đến “tập họp các quỵ định pháp luật của một

quốc gia về quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thê nắm giữ quyền lực Nhà nước, cũng
như các quyền và những quy tắc, thủ tục mà người dân, các tô chức xã hội và bản
thân các cơ quan Nhà nước có thế áp dụng đê giám sát và ngăn ngừa, xử lý những

hành vi lạm dụng quyền lực Nhà nước” [11, tr.12].

Cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước là một khái niệm rộng, với nhiều cách
định nghĩa đế hiểu theo các cách khác nhau, tùy vào hoàn cảnh mà cho ra các ngữ

nghĩa của khái niệm là khác nhau. Theo cách hiểu chung và cơ bản nhất thì: Cơ chế
kiêm soát quyền lực Nhà nước là một hệ thống bao gồm các thê chế, thiết chế trong


xã hội có liên quan đến việc chung là kiêm soát quyền lực Nhà nước, liên kết chặt

chẽ với nhau, cùng vận hành và hành động đê đám bảo cho quyền lực Nhà nước
được tổ chức, thực hiện theo đúng mục đích và thật sự có hiệu quả.

Cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước trước hết là một cơ chế pháp lý. Điều
này được hiểu là bởi quyền lực Nhà nước cơ bản là một phạm trù khoa học pháp lý.

Khi cần xác định tính chất, giới hạn và cách thức kiểm soát quyền lực Nhà nước
trong Hiến pháp, pháp luật của hầu hết quốc gia trên thế giới cho thấy rõ điều đó.
Mặc dù vậy, cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước vừa mang tính chính trị và cũng
mang tính xã hội cao. Điều đó thể hiện ở việc quyền lực Nhà nước là một biểu hiện

của quyền lực chính trị, vì thế kiểm sốt quyền lực Nhà nước thực chất là kiểm sốt

quyền lực chính trị, Kiểm sốt QLNN thể hiện tính chất dân chủ và cơng bằng của

17


xã hội, có sự tham gia của đơng đảo người dân và các tơ chức, có tác động tích cực

đến tình hình chính trị, xã hội cùa mỗi quốc gia.
Với mỗi nhà nghiên cứu khoa học pháp lý thì sẽ có một khái niệm hay quan

niệm khác nhau về khái niệm cơ chế kiểm soát QLNN, tuy nhiên những nội dung
căn bản và hình thức trong khái niệm đó là tương đối sẽ được hiếu theo một cách
khá giống nhau trên phương diện khoa học pháp lý.

b) Chủ thê kiêm soát quyền lực Nhà nước

Các chủ thể kiểm soát quyền lực Nhà nước trong cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực Nhà nước của các cơ quan Nhà nước được quy định khá đa dạng, ở mồi

quốc gia khác nhau với mỗi thời điểm khác nhau sẽ tương ứng với những quy định
khác nhau, nói cách khác chủ thể này được xác định theo thể chế pháp luật của mỗi

quốc gia theo từng giai đoạn. Ở Việt Nam thì chủ thể quan trọng nhất trong cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực Nhà nước là Quốc hội. Quốc hội được thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng cùa đất nước và bên

cạnh đó là giám sát tối cao với hoạt động cùa Nhà nước. Chính phủ là chủ thể tiếp
theo, thực hiện quyền hành pháp, và tổ chức thực hiện thi hành Hiến pháp, luật,

nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội, thi
hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, cùng với việc tổ chức thanh tra, kiểm tra
và giải quyết khiếu nại và tố cáo của công dân, chống tham nhũng trong bộ máy,

lãnh đạo, chỉ đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,

ủy ban nhân dân các cấp, kiểm tra hướng dẫn trong việc thực hiện văn bản pháp

luật của cơ quan Nhà nước cấp trên. Bên cạnh đó cịn tham gia vào cơ chế kiểm sốt
quyền lực Nhà nước là tịa án, Tịa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước,

thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền công dân,
quyền con người, bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi
ích họp pháp của cá nhân và các tồ chức.

c) Đối tượng kiêm soát quyền lực Nhà nước


Đối tượng kiểm soát quyền lực Nhà nước trong cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực Nhà nước của cơ quan Nhà nước là cá nhân, tổ chức nắm giữ, được giao,

18


và thực hiện qun lực đó, đó chính là tât cả các nhân viên, cơ quan Nhà nước. Như

vậy đối tượng kiểm soát quyền lực Nhà nước là những người phải làm trong Nhà
nước với số lượng ít được quyền thực hiện quyền lực Nhà nước. Theo nhận xét một
cách tiêu cực thì, con người với những bản chất khơng trong sáng, khi nắm giữ và
thực hiện quyền lực Nhà nước cũng có khả năng dẫn đến sự lạm quyền, và lộng
quyền. Lý thuyết và thực tiễn đều nhận định rằng quyền lực đều có xu hướng tự mở

rộng, và tăng cường vai trị của nó, do đó việc đề phòng với những hạn chế, những

cái xấu trong sự tiêu cực từ việc nắm giữ và thực hiện quyền lực là cần thiết vì tất cả
mọi thứ đều có thể xảy ra. Chính vì những lý do đó mà phải cần xây dựng một cơ

chế kiểm sốt và phịng ngừa thường xuyên để tránh sai lầm, tránh và ngăn chặn

được những hành vi tiêu cực có thề xảy ra của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào trong
suốt quá trình mà con người nám giữ và thực hiện quyền lực Nhà nước được giao.

d) Thê chế kiểm soát quyền lực Nhà nước
Thể chế kiểm soát quyền lực Nhà nước được quy định theo Hiến pháp và

pháp luật liên quan đến việc tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực Nhà nước
bao gồm những quy định pháp luật về tố chức bộ máy Nhà nước, các quy định pháp


luật về kiềm tra, thanh tra, và giám sát, quy định pháp lý về nội dung, hình thức,
thẩm quyền kiểm sốt quyền lực Nhà nước đã được quy định rõ trong Hiến pháp.

Các luật tố chức chính phủ, luật bầu cử, luật tố chức chính quyền địa phương, luật

thanh tra giám sát, các quy định trong điều ước, công ước, và tập qn quốc tế ...
Bên cạnh những quy định đó cịn có những ngun tắc và nội dung, hình thức để
kiểm soát quyền lực Nhà nước.

- Các nguyên tắc kiểm soát QLNN

Thực hiện việc kiềm soát QLNN bắt buộc phải tiến hành theo những nguyên
tắc cụ thể nhất định, theo quy định riêng của mỗi quốc gia. Với Việt Nam theo Hiến

pháp năm 2013 thì việc kiểm sốt quyền lực Nhà nước được quy định tại Điều 2 của
Hiến pháp, theo đó tất cả QLNN thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. QLNN là
thống nhất, có sự phân cơng, phối họp, kiểm soát giữa cơ quan Nhà nước trong việc

19


thực hiện các quyên lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hiên pháp năm 1946 thì quy định

tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam.
- Nội dung kiểm soát quyền lực Nhà nước
Với nội dung kiểm soát QLNN tại các quốc gia khác nhau thường quy định

theo nội dung cơ bản như sau:


Cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước; quá trình lựa chọn bằng nhiều cách
như bầu cử, bổ nhiệm, thừa kế cho những người thực hiện QLNN. Vì liên quan đến
chính thể Nhà nước nên cách thức tổ chức QLNN là vô cùng quan trọng, trong bộ

máy từ trung ương đến địa phương được tổ chức với hệ thống như thế nào cho phù

hợp, quyền lực tối cao được phân quyền cho cơ quan nào đảm nhận, nguyên tắc

phân quyền được thực hiện theo một ngun tắc đã được chọn. QLNN được kiểm
sốt được thơng qua là việc tổ chức và hoạt động là chủ yếu, 'yếu tố tơ chức có ỷ

nghĩa quan trọng nhất, bởi vì đây là khởi điêm cho việc sử dụng cũng như kiêm sốt
quyền lực” [18].

Q trình lựa chọn người nắm giữ và thực hiện quyền lực Nhà nước có ảnh
hưởng rất lớn đến mục đích, hiệu quả thực hiện quyền lực Nhà nước và hiệu quả kiểm
soát. Do vậy, quyền lực Nhà nước do ai nắm giữ, nắm giữ bàng cách nào, trong điều

kiện nào và nhằm mục đích gì ... ln là một trong những nội dung quan trọng cần
phải được kiểm sốt, nếu khơng sẽ dẫn đến tình trạng tha hóa quyền lực [9, tr. 141].
- Hình thức kiêm soát quyền lực Nhà nước

Trong cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN của các cơ quan Nhà nước thường có
sự xác định chính xác các hình thức kiểm sốt QLNN. Pháp luật quy định việc kiểm

sốt QLNN thơng thường tiến hành thông qua các hoạt động cơ bản như: ban hành
các văn bản pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp, pháp luật, bồ nhiệm những chức vụ

quan trọng trong bộ máy Nhà nước bằng các hình thức bổ nhiệm hoặc bầu cử; hoạt
động báo cáo của các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước; hoạt động thanh tra,

kiểm tra, giám sát; hoạt động chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm ... cùng với đó là các
hoạt động khác mà tùy theo Hiến pháp và luật pháp của các nước quy định, việc quy

định và sử dụng hình thức và cách thức nào đều phụ thuộc vào mỗi quốc gia ở mỗi

20


×