ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
vo THỊ BICH THAI
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI
TRONG LUẬT TĨ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM
Chun
ngành: Luật
Hình sự• và Tơ tụng
•
•
CT hình sự
•
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC sĩ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN QUANG TIỆP
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tơi, các kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn bảo đảm tỉnh chỉnh xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả
các mơn học và đã thanh tốn tất cả cảc nghĩa vụ tài chỉnh theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đế tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Võ Thị Bích Thái
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Viết tắt
BLHS
Bơ• lt
• Hình sư•
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
BPNC
Biện pháp ngăn chặn
PLHS
Pháp luật Hình sự
PLTTHS
Pháp luật Tổ tụng hình sự
THTT
Tiến hành tố tụng
TAND
Tịa án nhân dân
TNHS
Trách nhiêm
• hình sư•
TPHS
Tư pháp hình sự
TTHS
Tố tụng hình sự
VAHS
Vu• án hình sư•
VKS
Viên
• kiểm sát
11
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Trang
Lịi cam đoan
i
Danh mục từ viết tắt
ii
Mục
• lục
•
iii
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÈ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN BẮT NGUỜI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỤ
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp ngăn
chặn bắt nguôi
7
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt người
7
1.1.2. Đặc điểm biện pháp ngăn chặn bắt người
12
1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn bắt người
16
1.2. Cơ sở cùa việc quy định biện pháp ngăn chặn bắt
người trong tố tụng hình sự
17
1.2.1. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
17
1.2.2. Yêu cầu về chính sách pháp luật tố tụng hình sự
19
1.2.3. Yêu cầu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
1.2.4. Yêu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
20
22
1.3. Khái lược những quy định về biện pháp ngăn chặn
bắt ngưịi
trongCT lịch
sử luật
tố tụng
ơ
•
•
• O hình sự
• Việt
•
Nam
24
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
25
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
26
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
28
1.3.4. Giai đoạn từ 1980 đến năm 2015
29
1.4. Những quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người
111
31
trong pháp luật một sơ nước trên thê giói
1.4.1. Quy định về biện pháp bắt người trong Hiển pháp một
số nước trên thế giới
31
1.4.2. Quy định về biện pháp bắt người trong Luật Tố tụng
hình sự một số nước trên thế giới
33
Kết luận Chương 1
38
Chương~ 2: THựC
PHÁP LUẬT
• TRẠNG
•
• VÀ THựC
• TIỀN ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TĨ TỤNG HÌNH
SỤ VIỆT NAM
39
2.1. Quy định ciía bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bắt người
39
2.1.1. Bắt người phạm tội quả tang
39
2.1.2. Bắt người đang bị truy nã
40
2.1.3. Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
41
2.1.4. Bắt bị can bị cáo để tạm giam
42
2.1.5. Bắt một số đối tượng đặc biệt
43
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người
theo quy
> định
• của luật
• tố tụng
• CT hình sự• Việt
• Nam
46
2.2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người
47
2.2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp
49
2.2.3. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả
tang
51
IV
2.2.4. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy
nã
54
2.2.5. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam
55
2.2.6. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người bị yêu cầu dẫn độ
57
2.2.7. Thực tiễn bắt người trong một số trường hợp đặc biệt
58
2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt người theo quy định cùa luật tố tụng hình sự
Việt Nam
60
2.3.1. Những kết quả đạt được
60
2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót
61
Kết luận Chưong 2
68
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI TRONG LUẬT TỐ
TỤNG
HÌNH Sự
NAM
•
• VIỆT
•
69
3.1. Sự cần thiết phải hồn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quă việc áp dụng biện pháp bắt người trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam
69
3.2. Giải pháp hoàn thiện một số quy định của bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp bắt người
70
3.2.1. về căn cứ áp dụng
71
3.2.2. về trình tự, thủ tục
73
3.2.3. về phạm vi đổi tượng
75
3.2.4. về thấm quyền áp dụng biện pháp bắt người
75
3.2.5. về thời hạn ra quyết định tạm giữ, bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp
V
76
3.3. Giăi pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bãt
ngưịi theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt
Nam
76
3.3.1. Nâng cao trình độ chun mơn của lực lượng chức
76
năng
3.3.2. Tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân
3.3.3. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho cơ quan chức năng
78
80
Kết luận Chương 3
83
KẾT LUẬN
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86
PHỤ LỤC
91
VI
MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của việc nghiên cứu đê tài
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ của tồn xã hội với lực
lượng nịng cốt là các cơ quan cỏ thẩm quyền THTT. Đe bảo đảm ngăn chặn
và phát hiện tội phạm kịp thời, nhanh chóng, xừ lý khách quan, công minh
các hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội,
các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành các hoạt động tố tụng một cách kịp
thời, chính xác, theo đúng quy định của pháp luật, nhất là trong hoạt động
điều tra, thu thập chứng cứ. Trên thực tế, các đối tượng sau khi thực hiện
hành vi phạm tội thường tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách trốn tránh, cản trớ
hoạt động của cơ quan chức năng. Do vậy, cần áp dụng các BPNC kịp thời đế bảo
đảm hoạt động tố tụng được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Trong hệ
thống các BPNC quy định trong PLTTHS, biện pháp bắt người là biện pháp thường
được áp dụng trong q trình THTT. Tuy nhiên, do tính cưỡng che cao của BPNC
này, khi áp dụng cơ quan THTT cần thận trọng, khơng để xảy ra sai sót, xâm hại
đến quyền tự do thân thề của con người.
Những năm qua, các cơ quan có thấm quyền THTT đã ln chủ động
phối hợp chặt chẽ, nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng trong việc áp dụng
các BPNC. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn tồn tại một số vướng mắc
trong việc áp dụng các BPNC, nhất là biện pháp bắt người như các cơ quan
THTT chưa thống nhất được quan điểm “Việc thi hành Lệnh bắt người trong
trường hợp khẩn cấp được thực hiện tại trụ sở Cơ quan điều tra hay Nhà tạm
giữ, Trại tạm giam”...; còn một số hạn chế trong việc thực hiện trình tự, thủ tục
bắt người. Những tồn tại, thiếu sót này là một trong những nguyên nhân làm
giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn cả nước,
ảnh hưởng khơng nhở tới lịng tin của nhân dân vào các cơ quan có thẩm quyền
THTT.
1
Bên cạnh đó, khơng thê khơng nhăc tới sự ra đời của BLTTHS năm
2015 và có hiệu lực từ 01/01/2018 với nhiều thay đổi lớn so với BLTTHS
năm 2003, nhất là các quy định về BPNC bắt người. Từ những vấn đề lý luận
và thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc nghiên cứu, góp phần
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và pháp lý về biện pháp bắt người cũng như
thực tiễn áp dụng trên địa bàn cả nước. Chính vì vậy, tác giã lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “Biện pháp ngăn chặn bắt người trong Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam ” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hình sự và TTHS
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Bắt người là biện pháp cưỡng chế, được áp dụng trong nhiều giai đoạn
TTHS; tuy nhiên việc áp dụng BPNC này còn gặp nhiều vướng mắc do quy
định của luật thực định dẫn đến thực tiễn áp dụng không thống nhất. Từ cách
tiếp cận vấn đề này, trong thời gian qua đã có một số sách, báo pháp lý ở
nước ta tiến hành nghiên cứu, có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu như
sau:
* Ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn và sách
chuyên khảo có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu:
- Sách tham khảo “Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm
giam đủng pháp luật”, Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Sự
thật, 1993;
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Bat người trong trường họp khan cap theo
pháp luật tổ tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Nguyễn
Thị Hoàng Huế, Học viện Khoa học xã hội, 2016;
- Phạm Thị Hợp (2012), “Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam - Một sổ vẩn đề lý luận và thực tiễn ”, Luận văn
Thạc sỳ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2
* Ớ cấp độ các bài viết nghiên cứu khoa học trên các tạp chí chun
ngành có thể kể đến:
- Bài viết “Những vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và kiến nghị sửa đơi, bơ sung”,
Phùng Văn Tài, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2012;
- Bài viêt “Bao đám quyên con người trong việc băt, tạm giữ, tạm
giam”, Nguyễn Tiến Đạt, Tạp chí khoa học pháp lý, (3), Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh (2006);
- Bài viết “Quy định của pháp luật về bắt, giữ người trong trường hợp
khẩn cấp ”, Minh Thắng, Tạp chí Tịa án, số ra ngày 31/08/2020.
Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu đưa ra nhiều
quan điểm đóng góp, xây dựng các giải pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các
BPNC nói chung, biện pháp bất người nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay,
chưa có cơng trình nghiên cứu nào về BPNC bắt người một cách hệ thống và
trực tiếp gắn BLTTHS năm 2015. Mặt khác, về nội dung, cịn rất ít các văn
bản hướng dẫn về BPNC bắt người. Điều này cũng đưa đến những thách thức
cho thực tiễn THTT và cần có một cơng trình hồn thiện hơn về vấn đề này
trên cơ sở thực tiễn áp dụng trên phạm vi toàn quốc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đổi tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng BPNC nói chung, BPNC bắt người nói riêng; trên cơ sở nghiên cứu các
quan điểm học thuật, các quy định pháp luật TTHS nói chung và BPNC nói
riêng cụ thể là BPNC bắt người, đồng thời nghiên cứu cũng tập trung khảo
nghiệm thực tế ở địa bàn cả nước với hai nội dung chính gồm các thống kê
hình sư và các vu án điển hình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3
Luận văn đi sâu nghiên cứu pháp luật thực định vê BPNC băt người
theo quy định luật BLTTHS Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn áp
dụng BPNC này của các cơ quan THTT trên địa bàn cả nước.
3.3. về thời gian nghiên cứu: Từ đầu năm 2017 đến cuối tháng 6 năm
2021.
4. Mục
cứu
• đích và nhiệm
• vụ• nghiên
o
4.1. Mục đích nghiên cứu
Ngồi mục đích hệ thống lại cơ sở lý luận phục vụ công tác thực tiễn,
Luận văn làm rõ một số vấn đề còn vướng mắc về quan điểm và áp dụng
khơng thống nhất; từ đó đánh giá những hạn chế, thiếu sót, nguyên nhân và
đặc biệt luận văn tập trung xây dựng các kiến giải pháp lý, các kiến nghị hoàn
thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, Luận văn triển khai thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về BPNC bắt người
như khái niệm, đặc điếm, đối tượng... và các quan điểm học thuật qua đó phân
tích đối chiếu, tìm ra những giá trị cốt lõi cần quán triệt trong thực tiễn áp
dụng.
Thứ hai, phân tích, nhận xét, đánh giá thực trạng áp dụng BPNC bắt
người của các cơ quan THTT, đặc biệt là Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát
nhân dân, qua đó chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế, thiếu sót cũng như nguyên
nhân của chúng.
Thử ba, kiến nghị các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả, phát huy
tốt vai trò của các Cơ quan TPHS khi áp dụng BPNC bắt người trong thời
gian tới.
4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác-Lênin; các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật cùa Nhà nước về chức năng
quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền THTT; lý luận về vai trò của các cơ
quan này đối với việc áp dụng BPNC bắt người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu điển hình, lấy ý kiến
các chuyên gia...
6. Điểm mói đóng góp cua Luận văn
Luận văn có một số đóng góp sau:
Thứ nhất, tổng hợp một cách hệ thống các quy định pháp luật tạo nên
hành lang pháp lý quy trình áp dụng BPNC bắt người theo quy định PLTTHS
tại Việt Nam.
Thứ hai, phân tích các quan điếm dưới góc độ lý luận và thực tiễn về
quy trình tố tụng khi áp dụng BPNC bắt người.
Thứ ba, qua việc nghiên cứu số liệu, thực tiễn áp dụng BPNC bắt người
trong giai đoạn năm 2016 đến năm 2020, Luận văn làm rõ những vướng mắc
hạn chế trong quá trình áp dụng những quy định của PLTTHS về BPNC bắt
người.
Thứ tư, đề tài đề ra các giải pháp khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả áp
dụng BPNC bắt người theo quy định của PLTTHS hiện hành ở nước ta hiện
nay.
7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nghiên cứu đề tài
5
7.1. Y nghĩa lý luận
Qua nghiên cứu lý luận về BPNC bắt người và thực tiễn áp dụng biện
pháp bắt người trên phạm vi cả nước, Luận văn đã phân tích một cách có hệ
thống các khái niệm, phạm trù pháp lý về biện pháp bắt người, các quan điếm
khác nhau về biện pháp bắt người, qua đó góp phần hoàn thiện lý luận và
nâng cao hiệu quả vận dụng lý luận về biện pháp bắt người vào thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
7.2. Ỷ nghĩa thực tiền
Trên cơ sở phân tích, đánh giá lý luận và thực tiễn, Luận văn đưa ra
những giải pháp, kiến nghị mang tính khoa học và khả thi, có thể giúp cán bộ
làm cơng tác thực tiễn tháo gỡ một cách có hiệu quả những hạn chế, thiếu sót
về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động áp dụng BPNC
bắt người theo quy định của Luật TTHS Việt Nam. Ket quả nghiên cứu của
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đổi với công tác nghiên
cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở giáo dục và đào tạo chuyên ngành
Luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu làm 03 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn bắt người
trong TTHS.
Chương 2: Những quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng biện pháp
ngăn chặn bắt người theo quy định cua Luật TTHS Việt Nam.
Chương 3: Yêu cầu hoàn thiện và giải pháp nâng cao hiệu quá của việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người theo quy định của Luật TTHS Việt
Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGÀN CHẶN
BẤT NGU ỊÌ TRONG TĨ TỤNG HÌNH sụ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA BIỆN PHÁP
NGẤN CHẶN BẮT NGƯỜI
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt người
Việc nghiên cứu và làm sáng tỏ khái niệm biện pháp bắt người có ỷ
nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cho các cơ quan, cá nhân,
người có thẩm quyền THTT, đồng thời bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp
này đúng pháp luật, bảo vệ được quyền cơ bản của con người, cùa công dân.
Trước khi làm sáng tỏ khái niệm bắt người, cần làm rõ khái niệm
BPNC. Sách bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 đã đưa ra quan điểm về
khái niệm của BPNC: “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp do cơ quan, người
có thâm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đổi với người bị tình nghi là thực
hiện tội phạm, bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn việc người đỏ bỏ trốn, tiêu hủy
chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tổ, xét xử, thi hành án hoặc
tiếp tục phạm tội
Các BPNC khác các biện pháp cưỡng chế TTHS không những ở bản
chất pháp lý mà cịn ở mục đích áp dụng. Mục đích của BPNC là: 1) Kịp thời
ngăn chặn tội phạm; 2) Ngăn chặn bị can, bị cáo gây khó khăn cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử; 3) Không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh
pháp luật; 4) Bảo đảm việc thi hành án. Trong khi đó, các biện pháp cưỡng chế
TTHS như áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản không hạn chế
quyền tự do về thân thể của người bị áp dụng mà chỉ có mục đích bảo đảm hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
7
Từ sự phân tích ở trên, có thê đưa ra khái niệm BPNC như sau: BPNC
là biện pháp mang tính chất cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn
cứ, tạm thời hạn chế tự do về thân thể của của bị can, bị cáo hoặc người chưa
bị khởi tố trong trường hợp khấn cấp hoặc phạm tội quả tang nhằm ngăn chặn
tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc gây khó
khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, các BPNC gồm: Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Các trường hợp bắt người
gồm: 1) Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; 2) Bắt người phạm tội
quả tang; 3) Bắt người đang bị truy nã; 4) Bắt bị can, bị cáo đế tạm giam; 5)
Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Có nhiều định nghĩa về thuật ngữ bất, theo Từ điển tiếng Việt của
Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội xuất bản năm 1992 thì: “Bắt là một động
từ diễn tả sự nắm lại, giữ lại một người hay một sinh vật nào đó không đế cho
tự do hoạt động hoặc cử động” [53, tr.60]. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb.
Đà Nằng xuất bản năm 2001, “Bắt là nắm lại, giữ lại, không để cho tự do hoạt
động hoặc cử động” [54, tr.44]. Còn theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm
Từ điển học Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nằng năm 2003 có định
nghĩa về thuật ngữ này như sau: “Bắt là động từ chi hoạt động nấm lấy, giữ
lại, không đê cho tự do hoạt động hoặc cử động ” [55, tr.46J.
Theo cách định nghĩa như trên, bắt được hiểu là một hoạt động của con
người, được thể hiện bằng việc chủ động nắm lấy, nắm lại, giữ lại một đối
tượng có thể là người hoặc vật nhằm mục đích khơng cho đối tượng ấy tự do
hoạt động hoặc cử động. Hoạt động này bắt đầu ngay khi một người chủ động
thực hiện hành động nắm, giữ một đối tượng khác đồng thời trong suốt q
trình đó, người này thực hiện việc giám sát, kiểm sốt đối tượng khơng cho
8
đôi tượng ây tự do hoạt động hoặc cử động và hoạt động băt chỉ kêt thúc khi
hành động nắm, giữ, kiểm soát chấm dứt.
Mặt khác, khi tiếp cận dưới góc độ pháp lý, khái niệm bắt gắn liền với
các BPNC trong TTHS tuy nhiên khái niệm này còn chưa được ghi nhận một
cách thống nhất trong các văn bản pháp luật, việc này gây ra nhiều mâu thuẫn,
tranh cãi giữa các nhà khoa học. Hiện nay, dưới góc độ pháp lý, có nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm của BPNC bắt như:
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân của Nhà xuất bản Công an
nhân dân xuất bản năm 2005: “Bắt người phạm tội là một BPNC trong TTHS,
được tiến hành theo quy định của pháp luật và theo lệnh của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và khơng gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc đảm bảo thi hành luật”
[2, tr.35]. Khái niệm trên về cơ bản đã nêu được mục đích áp dụng cũng như
các chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC bắt người tuy nhiên việc xác định
chủ thế có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người vẫn chưa đầy đủ bởi
ngoài các chủ thể là Cơ quan điều tra, Tòa án và Viện Kiểm sát ra cịn có các
chủ thể khác cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp này như trong trường
hợp đối với bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã thì
bất kỳ người nào cũng có quyền bắt.
Hay theo Từ điển luật học định nghĩa khái niệm này như sau: “Bắt là
một trong những BPNC mà Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Toà án áp
dụng khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi thấy cần để bảo đảm
việc thi hành án”. Cũng tương tự như cách định nghĩa theo Từ điển Bách khoa
Công an nhân dân, cách định nghĩa này vẫn chỉ dừng lại ở việc xác định chủ
thể, thẩm quyền, mục đích áp dụng biện pháp bắt nhưng chưa nêu đầy đủ
được các chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp này.
9
Trong giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội, biện pháp bắt người được hiểu như sau: “Bắt người là biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị
truy nã và trong trường hợp khãn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng đối
với người chưa bị khởi tổ về hình sự, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm
tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc điều tra, truy tổ, xét xử và thi hành án hình sự"" [57, tr.204].
Ngồi ra, có rất nhiều tác giả, nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn đề
này kèm theo đó là các quan điểm, các cách định nghĩa khác nhau về khái
niệm bắt người có thể kể đến như:
Theo tác giả Nguyễn Trọng Phúc, khái niệm bắt được hiểu đon giản
như sau: “Bắt người trong tố tụng hình sự là giữ người có hành vi phạm tội,
khơng để cho họ tiếp tục phạm tội"" [35, tr.5O]. Có thể thấy, cách định nghĩa
của tác giả còn sơ sài, nội hàm của khái niệm này quá đơn giản, chỉ nêu được
đối tượng bị áp dụng là người có hành vi phạm tội và mục đích của việc áp
dụng biện pháp bắt người là không để cho họ tiếp tục phạm tội.
Hay theo quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Điệp lại cho rằng: “Bắt là biện
pháp cưỡng chế được quy định trong luật tố tụng hình sự do cơ quan, người có
thâm quyền do luật định áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố;
người đang có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do
BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị
cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án"" [23, tr.12-13].
Theo cách định nghĩa này, tác giả đã làm rõ được bản chất, chủ thể, đối tượng,
căn cứ áp dụng biện pháp bắt người. Đặc biệt, tác giả đã làm rõ đối tượng bị áp
dụng biện pháp này là các bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố, người có
hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Có thế thấy tác giả đã làm rõ và
chi tiết các đối tượng có thể bị áp dụng BPNC này.
10
Theo tác giả Trân Quang Tiệp lại có cách nhìn nhận khác vê định nghĩa
này: “Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do người có
thẩm quyền áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với bị can, bị cảo
hoặc người chica bị khởi tố (trong trường họp khăn cấp hoặc phạm tội quả
tang) theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định,
nhằm ngăn chặn tội phạm, người thực hiện tội phạm tron tránh pháp luật,
báo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án"
[51, tr.73-74]. Khái niệm này đã xác định được bản chất của biện pháp bắt
người là việc tạm thời hạn chế tự do thân thế của đối tượng bị áp dụng, theo
những trình tự, thủ tục cụ thể do pháp luật TTHS quy định. Tuy nhiên, khái
niệm này lại bị thiếu sót trong việc xác định đối tượng bị áp dụng biện pháp
này, ngoài bị can, bị cáo, người chưa bị khởi tố ra còn có người bị yêu cầu
dần độ cũng là đối tượng bị áp dụng BPNC này.
Theo quan điểm của tác giả Phạm Mạnh Hùng, khái niệm bắt được định
nghĩa như sau: “Bắt người là biện pháp ngăn chặn, áp dụng đổi với người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, bị can, bị cáo, người
đang bị truy nã hoặc người bị yêu cầu dẫn độ" [28, tr.206]. Tuy khái niệm này
phản ánh đầy đủ, rõ ràng đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người, nhưng
chưa thế hiện được chủ thể, căn cứ và mục đích áp dụng BPNC này.
Mỗi tác giả, mỗi nhà khoa học lại có quan điểm, cách nhìn nhận khác nhau
về vấn đề này. Với các phân tích ở ưên cũng như kế thừa, phát huy các quan điểm,
có thể rút ra khái niệm về BPNC bắt người trong TTHS Việt Nam như sau:
“Bắt người là BPNC trong TTHS, do cơ quan, người có thẩm quyền
theo luật định áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với bị can, bị cáo,
người bị yêu cầu dẫn độ hoặc người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang) theo những trình tự, thủ tục do PLTTHS quy
định, nhàm ngăn chặn tội phạm, chủ thế của tội phạm trốn tránh pháp luật,
11
cản trở hoạt động tô tụng, bảo đảm cho việc tiên hành hoạt động điêu tra, truy
tố, xét xử và thi hành án”.
1.1.2. Đặc điểm biện pháp ngăn chặn bắt người
Qua việc phân tích những dấu hiệu của nội hàm khái niệm BPNC bắt
người, có thể thấy bắt người có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, bắt người là một BPNC mang tính cưỡng chế nhà nước trong TTHS.
Cưỡng chế là một tính chất cơ bản của pháp luật, nó tạo nên sự khác
biệt giữa pháp luật với đạo đức xã hội và phong tục tập quán. Cưỡng chế nhà
nước được hiểu là việc thực hiện quyền lực nhà nước của cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền theo trinh tự thủ tục luật định buộc cá nhân, pháp nhân phải thực
hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm nhất định. Cưỡng chế nhà nước trong TTHS
được hiểu là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước do cơ quan, người có
thẩm quyền THTT áp dụng theo những trình tự thủ tục được pháp luật TTHS
quy định, tác động tới người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện trách
nhiệm, nghĩa vụ nhất định nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được
thực thi thuận lợi, đúng pháp luật.
Bản chất pháp lý của BPNC trong TTHS nói chung và biện pháp bắt
người nói riêng cũng chính là sự cưỡng chế nhà nước. Nó mang tính ngăn chặn
các hành vi cản trở hoạt động tổ tụng, áp dụng trong các trường hợp pháp luật
TTHS quy định nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng diễn ra thuận lợi, nhanh
chóng và đúng pháp luật, thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm. Việc áp dụng biện pháp bắt người là sự tác động trực tiếp của cơ
quan, cá nhân được nhà nước trao quyền lên đối tượng bị áp dụng. Sự tác động
này thể hiện ý chí đơn phương của nhà nước mà không phải phụ thuộc vào ý
chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Tính cưỡng chế thể hiện thơng qua
quan hệ mệnh lệnh - phục tùng, các cơ quan, cá nhân đại diện cho quyền lực
nhà nước thi hành các mệnh lệnh (lệnh, quyết định), buộc người bị áp dụng
12
phải phục tùng mệnh lệnh đó. Các lệnh, quyêt định băt người của cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền THTT có tính chất bắt buộc đối với đối tượng bị áp dụng.
Các đối tượng bị áp dụng biện pháp này không thể chống đối, từ chối thực hiện
bởi các mệnh lệnh này được đưa ra bởi người đại diện cho quyền lực nhà nước,
được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp chế tài. Các lệnh, quyết định này
làm thay đổi và phát sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa một bên là chủ thể có
thẩm quyền áp dụng đại diện cho ý chí của nhà nước và một bên là chủ thể bị
áp dụng, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên.
Theo quy định của pháp luật TTHS, chủ thể có thẩm quyền áp dụng
BPNC bắt người chù yếu là người có thẩm quyền THTT. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp đặc biệt như bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị
truy nã, chủ thể áp dụng BPNC này cịn có sự tham gia của chính quyền địa
phương, cơ quan, tố chức hay bất kỳ một cá nhân nào khác. Những người này
sẽ ngay lập tức nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp bắt người,
áp đặt quyền lực nhà nước, buộc người bị áp dụng phải tuân theo và bị bắt giữ,
bảo đảm cho hoạt động tố tụng được diễn ra nhanh chóng theo đúng quy định
của pháp luật. Việc áp dụng biện pháp bắt người thực chất chính là sự tác động
lên thân thể qua đó tác động lên tư tưởng và tâm lý của chính người bị bắt
nhằm hạn chế quyền tự do cá nhân của người này. Trong quá trình bắt giữ,
trường hợp người bị bắt có hành vi chống đối, cản trở, chống trả thì các chù thể
có thẩm quyền áp dụng biện pháp này được phép sử dụng các chế tài nhà nước,
thậm chí là vũ lực để khống chế, trấn áp và vơ hiệu hóa sự chống cự của đối
tượng, buộc đối tượng phải chấp hành mệnh lệnh. Như vậy, mức độ tác động
lên đối tượng bị bắt phụ thuộc vào chính tâm lý, ý thức và hành vi chấp hành
của họ. Do đó, biện pháp bắt người có tính cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc.
Thứ hai, bắt người do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình
tự, thủ tục chặt chẽ, rõ ràng.
13
Khoản 1 Điêu 20 Hiên pháp năm 2013 cùa nước ta quy định: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm ”. Khi áp dụng biện pháp bắt người, các quyền
thiết thân nhất của người bị bắt bao giờ cũng bị hạn chế ờ mức độ nhất định.
Có thể thấy việc bắt người tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể cùa
công dân, một trong các quyền nhân thân tối quan trọng cùa con người được
quy định trong Hiến pháp. Do đó, khi áp dụng biện pháp bắt người phải được
áp dụng với đầy đủ các căn cứ luật định, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định
về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục cụ thể. Ngay trong Hiến pháp cũng quy định
rõ ràng việc áp dụng biện pháp này cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, thận
trọng trước khi quyết định việc bắt cụ thể tại khoản 2 Điều này quy định:
“Khơng ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiếm sát nhân dãn, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định
Ngoài ra, để bảo đảm quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của cơng dân, ngồi việc quy định mang tính
ngun tắc cơ bản trong hiến pháp, các luật chuyên ngành cũng quy định rất
rõ ràng, cụ thể. Đặc biệt trong pháp luật TTHS quy định rất chặt chẽ trình tự
thủ tục, căn cứ, thẩm quyền, đổi tượng bắt người. Khi áp dụng BPNC bắt
người, cơ quan, người có thấm quyền THTT cũng chỉ được thực hiện quyền
lực trong khuôn khổ pháp luật cho phép, ở mức độ tối thiểu, trong những
trường hợp cần thiết, không được áp dụng một cách tùy tiện, ra các lệnh,
quyết định bắt người trái pháp luật.
Ngoài ra, các chủ thế có thẩm quyền áp dụng biện pháp này phải có
nghĩa vụ tơn trọng và bảo đàm các quyền cơ bản của người bị bắt, như:
Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
quyền được yêu cầu người bào chữa;... Bên cạnh đó, như đã phân tích ở trên,
bởi việc áp dụng BPNC này mang tính cưỡng chế nhà nước, được nhà nước
14
bảo đảm thực hiện băng hệ thông chê tài nên vê phía người bị băt có nghĩa vụ
và buộc phải chấp hành lệnh, quyết định bắt người của cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền bắt người. Trong trường hợp người bị bắt có hành vi chống đối,
cản trờ, khơng chấp hành lệnh, quyết định bắt người thì chủ thể có thẩm
quyền áp dụng có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế, chế tài cần thiết để
bảo đảm thực thi lệnh, quyết định này.
Thứ ba, tạm thời hạn chế tự do thân thể của đối tượng bị áp dụng.
Hạn chế tự do thân thể là nội dung của BPNC bắt người, cá nhân có
thẩm quyền tác động lên một số quyền thiết thân của người bị bắt, đưa họ
vào quản lý bằng các biện pháp cưỡng chế mang tính chất tức thời. Yeu tố
này được thể hiện chủ yếu ở 02 khía cạnh: (i) Thứ nhất, khả năng cưỡng
chế về mặt hành vi hay nói cách khác là tác động trực tiếp lên cơ thể người
bị bắt; (ii) Thứ hai, khả năng kiểm soát người bị bắt bằng biện pháp giam
giữ. Mặc dù vậy, yếu tố tức thời vẫn luôn được đề cập là đặc trưng của biện
pháp bắt người trong mọi giai đoạn TTHS do khả năng có thể tác động lớn
đến thân thể người bị bắt; đồng thời, tạo nên sự khác biệt với các BPNC
khác. Yếu tố này được thể hiện rõ ràng hơn ở thời hạn áp dụng BPNC bắt
người trong TTHS.
T/zỉ? tư, bắt người chỉ được áp dụng trong các trường hợp cụ thể.
Điều này phù hợp với các quy định tố tụng khác và nguyên tắc pháp
chế nhằm hạn chế sự tuỳ tiện trong việc áp dụng BPNC bắt người. Mặt
khác, bắt người là BPNC cho phép nhiều chủ thể áp dụng; do vậy các
trường hợp cụ thể giúp cho PLTTHS có thể kiểm soát, hay đưa nội dung
này vào quản lý hiệu quả nhưng vẫn bảo đảm các yêu cầu về đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Các trường hợp cụ thể trong việc áp dụng BPNC bắt người cho phép
cơng dân có thể tham gia vào việc ngăn chặn tội phạm một cách chủ động.
15
Đồng thời cũng phản ánh nội dung quan trọng về trách nhiệm đấu tranh,
phịng ngừa tội phạm của tồn dân.
ỉ.1.3. Ý nghĩa cùa biện pháp ngăn chặn bắt người
Bắt người là BPNC được áp dụng ở nhiều giai đoạn TTHS, với mục
đích thống nhất là kịp thời ngăn chặn tội phạm; ngăn chặn bị can, bị cáo gây
khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; không để bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội, trốn tránh pháp luật; bảo đảm việc thi hành án. Tuy nhiên, ở mồi
giai đoạn tố tụng, việc áp dụng BPNC bắt người được quy định cụ thể với
những mục đích riêng nhằm góp phần tạo nên một cơng cụ pháp lý hữu hiệu
mang tính chất cưỡng chế trong TTHS.
Trước hết, bắt người trong TTHS góp phần quan trọng đáp ứng u cầu
tồn dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm khi Luật TTHS trực tiếp
trao quyền cưỡng chế này cho người dân trong trường hợp phát hiện người
phạm tội quả tang hay trong trường hợp người phạm tội bị truy nã.
BPNC bắt người tạo điều kiện để Cơ quan điều tra hoặc cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng BPNC khác như
tạm giam. Đồng thời, bắt người cũng nâng cao hiệu quà hoạt động hợp tác
quốc tế và tương trợ tư pháp, nhất là trong công tác dần độ. Cụ thể: Trong
trường hợp bị can bị, cáo được áp dụng các BPNC ít nghiêm khắc như cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh... có dấu hiệu trốn tránh, gây khó khăn cho hoạt
động tố tụng, khi xét thấy cần thiết cơ quan THTT có thể xem xét áp dụng
BPNC tạm giam thay thế BPNC cũ; đồng thời ra quyết định bắt bị can, bị cáo
để tạm giam. Đối với trường hợp, bị can, bị cáo,... hoặc người bị kết án bỏ
trốn hoặc không biết đang ở đâu, cơ quan THTT có thể ra quyết định truy nã;
BPNC bắt người trong trường họp này được áp dụng với vai trị là "cơng cụ"
của quyết định truy nã nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phịng chống tội
phạm nói chung và bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
16
Với tính chât là BPNC mang tính phịng ngừa cao, băt người có ý nghĩa
quan trọng trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm và bảo đảm các quyền
tự do của cơng dân ở các góc độ sau:
Thứ nhất, bắt người tạo cơ sớ pháp lý vững chắc không chỉ trong TTHS
mà còn trong Hiến pháp và các luật chuyên ngành khác cho việc bảo đảm
quyền công dân, quyền con người không bị tội phạm xâm hại.
Thứ hai, bắt người góp phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật đối với những tội phạm
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời tạo ra khá năng áp dụng
các BPNC một cách linh hoạt với những trường họp phạm tội ít nghiêm trọng.
Thứ ba, quy định về bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã tạo điều kiện để người dân, cộng đồng chung tay phòng chống
tội phạm một cách trực tiếp và hữu hiệu.
1.2. Cơ SỞ CỦA VIỆC
BIỆN
• QUY ĐỊNH
•
• PHÁP NGĂN CHẶN
•
BẮT NGƯỜI TRONG TĨ TỤNG HÌNH sự
1.2.1. u cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm
Thực hiện triệt để chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật cùa Nhà nước, trong thời gian qua, nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao... Đặc
biệt, cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội được
đẩy mạnh. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng
định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, tình hình tội phạm
ở nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp. Mỗi năm, nước ta phát hiện trung bình
trên 80 nghìn vụ phạm tội các loại, trong đó khoảng 50 nghìn vụ phạm tội về
trật tự xã hội, trên 10 nghìn vụ phạm tội về kinh tế và gần 10 nghìn vụ phạm
tội về ma tuý, còn lại là các loại tội phạm khác. Các loại tội phạm ngày càng
17
trở nên nguy hiêm hơn, các tội phạm hình thành các băng, nhóm, hoạt động
có tố chức phức tạp, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ngày
càng nghiêm trọng, gây tâm hoang mang lo sợ ảnh hưởng đến trật tự an toàn
xã hội.
Thời gian gần đây, tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng gia tăng,
một số băng, nhóm tội phạm là người nước ngồi, hoặc các đối tượng là
người Việt Nam câu kết với các đối tượng người nước ngoài để thực hiện các
hành vi phạm tội như giết người, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép các
chất ma tuý, đưa người ra nước ngoài bất hợp pháp....
Để bảo đảm, tạo cơ sở pháp lý cho cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm, PLTTHS nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau trong
đó có BPNC bắt người. Biện pháp này đã thể hiện sự cứng rắn, nghiêm khắc
của nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
về bàn chất, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoặc
đe doạ xâm phạm đen những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Chúng
trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến trật tự an toàn xã hội, sự ổn định của chế
độ. Do đó, nước ta đặc biệt coi trọng cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh nhằm tiến tới loại trù’ tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội. Việc quy định và thực hiện nghiêm túc các BPNC trong
BLTTHS nói chung và biện pháp bắt người nói riêng đã bảo đảm cho hoạt
động của các cơ quan có thẩm quyền THTT được thuận lợi từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả của cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm.
Việc áp dụng biện pháp bắt người giúp cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
THTT hạn chế việc người phạm tội hoặc đồng bọn thực hiện các hành vi cản
trở hoạt động tố tụng, che giấu, trốn tránh sự phát hiện và trừng phạt của pháp
luật. Việc áp dụng biện pháp bắt người giúp ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả
ngay từ đầu các hành vi tiếp tục thực hiện tội phạm, hạn chế tối đa hành vi
18