Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Bảo hiểm thất nghiệp trong luật việc làm năm 2013 (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.37 MB, 97 trang )


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chỉnh xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Ngọc Minh Thúy


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐÀU............................................................................................................. 1

Chương 1: MỘT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ BẢO HIỂM THẤT


NGHIỆP VÀ Sự ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT......................7

1.1.

Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp................................ 7

1.1.1.

Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp........................................................... 7

1.1.2.

Đặc điểm bảo hiểm thất nghiệp............................................................. 8

1.1.3.

Vai trò, ý nghĩa của bão hiểm thất nghiệp.......................................... 10

1.2.

Sự điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp..........................12

1.2.1.

Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp..................................... 12

1.2.2.

Nguyên tắc pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp................................... 13


1.2.3.

Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp........................................... 16

1.3.

Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp của một số nước trên thế

giói và kinh nghiệm cho Việt Nam................................................... 22
1.3.1.

Bảo hiểm thất nghiệp tại Nhật Bản...................................................... 23

1.3.2.

Bảo hiểm thất nghiệp tại Trung Quốc.................................................26

1.3.3.

Bảo hiểm thất nghiệp tại Thái Lan....................................................... 29

1.3.4.

Những gợi mở cho Việt Nam.............................................................. 30

Kết luận Chương 1.......................................................................................... 33

Chương 2: THỤC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

TRONG LUẬT VIỆC LÀM NĂM 2013 VÀ THựC TIỄN THI

HÀNH Ở VIỆT NAM.........................................................................34

2.1.

Thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp..... 34


2.1.1.

về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp...................................... 34

2.1.2.

Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp........................................................36

2.1.3.

Quỳ bảo hiềm thất nghiệp và sử dụng, quản lý quỹ bảo hiểm
thất nghiệp............................................................................................ 46

2.1.4.

Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm thất nghiệp... 49

2.2.

Thực tiễn thi hành bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam................ 52

2.2.1.


Những kết quả đạt được...................................................................... 54

2.2.2.

Một số vấn đề còn tồn tại.................................................................... 62

2.2.3.

Nguyên nhân của những tồn tại........................................................... 65

Kết luận Chương 2.......................................................................................... 69

Chương 3: MỘT SÓ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THựC HIỆN BẢO HIỂM

THÁT NGHIỆP TRONG LUẬT VIỆC LÀM NĂM 2013 Ở

VIỆT NAM..........................................................................................70
3.1.

Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Việc làm năm 2013...... 70
3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Bảo hiểm thất nghiệp
trong luật Việc làm năm 2013.......................................................... 73

3.3.


Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện băo

hiểm thất nghiệp trong luật Việc làm năm 2013............................77
Kết luận Chương 3.......................................................................................... 83
KẾT LUẬN...................................................................................................... 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 85
PHỤ LỤC......................................................................................................... 90


DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT

ASXH

An sinh xã hôi

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo niêm xã hơi


HĐLĐ

Hợp đồng Lao động

ILO


International Labour Organization -



Tổ chức Lao động Quốc tế
NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

TCTN

Trợ cấp thất nghiệp


MỞ ĐẰU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Mất việc làm, thất nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu khơng chỉ

riêng ở Việt Nam mà cịn là vấn đề chung của toàn thế giới. Đặc biệt, trong
điều kiện kinh tế thị trường và tình hình dịch bệnh Covid -19 bùng phát như

hiện nay, biến động cung - cầu trên thị trường lao động thường xuyên xảy ra,

góp phần gia tăng tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm hàng loạt đối với


người lao động. Điều này đã tác động một cách mạnh mẽ lên ngành hàng
không, du lịch, nhà hàng, khách sạn... khiến nhiều nơi phải cắt giảm nhân sự,

cho nhân viên nghỉ khơng lương hoặc thậm chí đóng cửa vơ thời hạn.

Ngồi việc dịch Covid-19 tác động tức thời đến thu nhập trước mắt,
tình trạng thất nghiệp có thể để lại những hậu quả tiêu cực trong dài hạn.
Thất nghiệp khơng những làm giảm thu nhập, mà có thể làm cho NLĐ mất đi

những kỹ năng, nghiệp vụ nếu không được làm việc. Ngân hàng Thế giới tại
Việt Nam cho rằng, phụ nữ là đối tượng đặc biệt chịu nhiều rủi ro do họ hầu

như đảm nhận những cơng việc có mức lương thấp, khơng u cầu tay nghề
cao - nhóm cơng việc dễ bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 [9]. Tình trạng mất

việc làm của nam giới cũng có thể liên quan đến tình trạng gia tăng bạo lực
đối với gia đình. Do đó, hạn chế thất nghiệp và đảm bảo đời sống ốn định cùa
NLĐ là yêu cầu và cũng là mục tiêu quan trọng của nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, quan điểm, đường lối của Đảng về chính

sách xã hội, đặc biệt là An sinh xã hội được nâng lên tầm cao mới, thể hiện
toàn diện hơn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020:
Phát triến hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và

hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề

nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động


tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm.

1


Là một trong những chính sách vê ASXH, quyên được BHTN đã được

ghi nhận tại nhiều văn bản pháp lý quan trọng như: Luật Lao động 2019,

Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Luật việc làm 2013,... góp phần bảo đảm quyền
được BHTN cho người lao động. Quyền được BHTN đã được quan tâm tuy

nhiên trong thực tế thực hiện còn nhiều khỏ khăn, vướng mắc như: đối tượng

tham gia BHTN còn hạn chế dẫn tới một bộ phận NLĐ chưa được bảo đảm
quyền lợi khi họ bị mất việc làm; tình trạng NSDLĐ nợ đóng BHTN; NLĐ

lợi dụng việc chi trả BHTN,... Mặt khác, công tác quản lý nhà nước về

BHTN tuy đã đạt được những bước tiến quan trọng nhưng vẫn chưa đáp ứng
kịp yêu cầu thực tiễn của xã hội về BHTN trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng. Một số chính sách
về BHTN ban hành cịn chậm, chưa đồng bộ và cịn chồng chéo [41], Vì

vậy, việc tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những tình
trạng trên là hết sức cần thiết để bảo đảm quyền được BHTN cho người mất
việc làm, góp phần củng cố niềm tin của NLĐ đối với các chính sách, pháp

luật của nhà nước, ổn định đời sống xã hội.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo hiểm thất nghiệp


trong
ơ Luật
• Việc
• làm năm 2013“ làm Luận
• văn Thạc
• sĩ Luật
• học
• của mình với

mong muốn phân tích để làm rõ, tìm ra những vướng mắc, tồn tại trong q

trình thực hiện các chính sách, pháp luật về BHTN, làm cơ sở để có thể đề xuất
các giải pháp, hướng khắc phục để đảm bâo quyền BHTN cho người lao động.
2. Tình hình nghiên cứu
BHTN là một trong những trụ cột của An sinh và đã được nhiều học giả

nghiên cứu dưới dạng các cơng trình nghiên cứu khoa học, sách, bài báo, giáo

trình,... Có thể kể đến như sau:

- về sách, giáo trình: Giáo trình Luật ASXH Việt Nam - Trường Đại học
Luật năm 2013; Giáo trình Pháp luật ASXH - PGS.TS Lê Thị Hoài Thu;...

2


- Vê cơng trình nghiên cứu: Các đê tài khoa học câp bộ, câp cơ sở, luận
án, luận văn cũng có đề cập đến nội dung BHTN và pháp luật về BHTN tại
Việt Nam. Các đề tài có thể kể đến như: Luận án Tiến sĩ Luật học Lê Thị

Hoài Thu, “Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường Việt

Nam” (2005), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận án Tiến sĩ Nguyễn
Quang Trường “Quản lỷ nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta hiện

nay” (2016); Luận văn thạc sỹ Luật học Ngô Thu Phương, “BHTN trong Luật

bảo hiểm xã hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” (2014) - Khoa Luật ĐHQGHN; Luận văn Thạc sĩ Luật học Lê Nguyễn Việt Hà (2019), “Bảo hiểm
thất nghiệp trong Luật Việc làm năm 2013”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội; Luận văn Thạc sĩ Luật học Nguyễn Thu Hương (2019), “Bảo hiểm

thất nghiệp trong Luật Việc làm năm 2013 từ thực tiễn tại thành phố Hà

Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật học Nguyễn Thanh Tùng (2019), “Pháp luật về
bảo hiêm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hòa Bình”, Trường Đại
học Luật Hà Nội.

- Ngồi ra là các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành về anh sinh xã
hội với những phân tích đa chiều và có nhiều sự so sánh, đối chiếu, tham khảo

với pháp luật các nước khác trên thế giới. Một số bài viết có thể nhắc đến

như: Nguyễn Hồng (2021), Pháp luật về bảo hiềm thất nghiệp của Việt Nam
và Thái Lan trong tương quan nghiên cứu so sánh, Tạp chí Cơng thương sổ

14, tháng 6/2021; Trương Thị Thu Hiền (2021), Hoàn thiện các quy định của

pháp luật về các chế độ bảo hiếm thất nghiệp ở nước ta hiện nay, Tạp chí

nghiên cứu Lập pháp số 12 (436), tháng 6/2021; Tràn Thị Nguyệt Nga,


Nguyễn Thu Hiền (2020), Thực trạng chính sách bảo hiếm that nghiệp tại
Việt Nam, Tạp chí tài chính kì 1 tháng 12/2020.

Qua các cơng trình nghiên cứu trên cho thấy, những vấn đề liên quan
đến nội dung cơ bản của Bào hiểm thất nghiệp đã được phân tích rõ. Tuy

3


nhiên, trong tình hình dịch bệnh Covid-19 tồn câu như hiện nay, cơ chê giải

quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật về BHTN vần chưa được quy định

một cách rõ ràng, chưa thực sự đầy đủ, chưa sát với tình hình thực tế của đất
nước hiện nay. Vì vậy, tác giả mong muốn đề tài “Bảo hiểm thất nghiệp trong

Luật Việc làm năm 2013” sẽ làm sáng tở thêm những vấn đề lý luận về
BHTN cũng như thực trạng BHTN ở nước ta hiện nay.

3. Mục
đích và nhiệm
vụ• nghiên cứu


3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm rõ thêm một số vấn đề lý luận pháp luật về BHTN và
phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về BHTN tại Việt Nam hiện nay. Luận
văn cũng đề xuất giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng

cao hiệu quà áp dụng pháp luật về BHTN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận văn làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm
thất nghiệp như: đối tượng tham gia, điều kiện hưởng BHTN, quỹ BHTN,...

- Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trong

luật Việc làm năm 2013;
- Luận văn đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong đại dịch Covid-19;

- Luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp

luật và nâng cao hiệu quả thực hiện BHTN trong luật Việc làm năm 2013 ở
Việt Nam.

4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung, vai trị, mục đích của pháp

luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay; Các yếu tố tác động đến pháp luật
BHTN; Những kinh nghiệm của pháp luật về BHTN trên thế giới để Việt

4


Nam có thê học hỏi kinh nghiệm; Phân tích các quy định vê BHTN của pháp
luật Việt Nam - lý luận và thực tiễn thực hiện BHTN tại Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN
ở Việt Nam hiện nay, chính sách BHTN bao gồm: hồ trợ về tài chính khi mất

việc làm; hồ trợ đào tạo nghề; hồ trợ tìm kiếm, giới thiệu việc làm mới và hỗ

trợ đào tạo, nâng cao tay nghề đề duy trì việc làm cho người lao động.

về không gian nghiên cứu: Trên phạm vi toàn quốc
về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu trong khoảng thời gian từ từ khi
Luật BHTN có hiệu lực và đặc biệt trong khoảng thời gian dịch bệnh Covid 19 trên toàn cầu.

về nội dung nghiên cứu: Luận văn làm sáng tỏ các vấn đề lý luận

pháp luật về BHTN, thực trạng pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện
pháp luật về BHTN.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, phép biện chứng duy vật của Triết học

Mac - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh được sử dụng với tư cách là phương

pháp luận.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như sau:

Chương 1: Phương pháp phân tích, bình luận, ... được sử dụng khi
nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp: Khái niệm, đặc

điểm của BHTN; Khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về BHTN,..

Chương 2: Phương pháp đánh giá, tổng hợp, so sánh,... được sử dụng
khi nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN của Việt Nam qua các
giai đoạn phát triển;
9

Chương 3: Phương pháp tông hợp, quy nạp...được sử dụng khi nghiên
cứu, đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật BHTN.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: góp phần làm sáng tỏ khung lý thuyết của pháp luật
về BHTN trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay, nhất là về nội dung, phương thức, công cụ và biện pháp

tăng cường quản lý nhà nước về BHTN.

- Ý nghĩa thực tiễn: góp phần nâng cao nhận thức, thúc đẩy sự tham gia
của NLĐ đối với chính sách BHTN; Việc thực hiện pháp luật về BHTN của

các cơ quan, tổ chức liên quan đến quyền được BHTN; Tăng cường và hoàn
thiện quản lý nhà nước về BHTN nhằm bảm đảm ASXH, xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh ở Việt Nam.

Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật BHTN ở Việt Nam hiện nay,
đặc biệt trong thời kỳ dịch bệnh tồn cầu, Luận văn chỉ ra những khó khăn,
bất cập trong công tác áp dụng, thực hiện pháp luật BHTN. Từ đó, luận văn


cũng đề ra một số giải pháp nhằm hồn thiện hệ thống pháp luật BHTN, góp
phàn định hướng sửa đổi những thiếu sót của quy định trong pháp luật BHTN
hiện tại, đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

BHTN trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp và sự điều
chỉnh của pháp luật

Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Việc
làm năm 2013 và thực tiễn thi hành ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quá thực hiện bảo hiểm thất nghiệp trong luật Việc làm năm 2013 ở Việt Nam.

6


Chương 1
MỘT
• SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
• VỀ BẢO HIẾM THẤT NGHIỆP
• VÀ
sụ ĐIÈU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp


1.1.1. Khái niệm bảo hiếm thất nghiệp
Thất nghiệp được coi là một vấn đề trọng tâm trong xã hội ngày nay, là

vấn nạn chung mà hầu hết các nước trên thế giới phải đối mặt. Đó là hiện

tượng người có năng lực lao động khơng có cơ hội tham gia lao động, bị tách
khởi tư liệu sản xuất. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ồn định kinh

tế, chính trị và xã hội của mồi quốc gia là rất lớn, làm cho tình hình chính trị
xã hội bất ổn, tội phạm và các tệ nạn xã hội gia tăng.
Thất nghiệp là hiện tượng tất yếu, khách quan trong nền kinh tế thị

trường, nhưng nếu tỷ lệ thất nghiệp vượt quá giới hạn cho phép thì nó sẽ trở
thành vấn đề xã hội gay cấn, để lại hậu quả trên các mặt kinh tế, xã hội, tâm

lý. Chính vì vậy, BHTN ra đời như một yếu tố đóng vai trị thăng bằng trong

nền kinh tế, đối với NLĐ, NSDLĐ, đối với Nhà nước và xã hội, hạn chế thất
nghiệp và bảo đảm đời sống cho NLĐ trong trường hợp bị thất nghiệp được
ổn định là mục tiêu chung của các quốc gia và các tổ chức quốc tế và khu vực.

Thực tế hiện nay, do ảnh hưởng của ý thức hệ và nhận thức xã hội

nên có rất nhiều khái niệm về thất nghiệp được đưa ra bởi các tổ chức, các
nhà khoa học khác nhau. Tuy nhiên, các lý thuyết về thất nghiệp đều cho

thấy một điều cơ bản là trong nền kinh tế thị trường vẫn có một bộ phận
NLĐ thất nghiệp [35].
Điều 20 Công ước số 102 (1952) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)


đã đưa ra khái niệm thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là hiện tưẹmg NLĐ bị

ngừng thu nhập do khơng có khả năng tìm được việc làm thích họp trong

7


trường hợp người đó cỏ khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” [37], Như

vậy, với cách hiếu chung nhất, thất nghiệp là tình trạng NLĐ muốn có việc
làm mà khơng tìm được việc làm.
Tình trạng thất nghiệp là một trong những vấn đề nan giải, chính vì vậy

cần phải có những biện pháp và chính sách thích hợp để giúp cải thiện, cân

bằng đời sống xã hội. Từ đó, BHTN ra đời và đóng vai trị nhằm hồ trợ NLĐ
khi rơi vào tình trạng thất nghiệp, có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây

dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN trong đời sống xã hội cũng như
việc xác định vị trí, vai trị của cơ quan quản lý nhà nước về BHTN.
Ờ Việt Nam, tình trạng NLĐ thất nghiệp vẫn còn ớ mức cao, điều này

làm ảnh hưởng khơng nhị đển sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Để hạn
chế những tác hại từ tình trạng thất nghiệp gây ra, ngày 01/01/2009, chế độ

BHTN chính thức được thơng qua và trở thành chính sách mang tính nhân

văn, chia sẻ cộng đồng. Chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy


định cụ thể về định nghĩa BHTN trước khi Luật Việc làm 2013 ra đời. Theo
khoản 4 Điều 3 Luật Việc làm 2013 quy định: “BHTN là chế độ nhằm bù đắp

một phần thu nhập của NLĐ khi bị mất việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy
trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN”.

Như vậy, từ quy định của pháp luật có thể hiểu, BHTN là một trong
những biện pháp hỗ trợ NLĐ khi NLĐ bị mất việc làm thông qua việc tạo lập

một quỳ tiền tệ tập trung do NLĐ, NSDLĐ đóng góp và có sự hỗ trợ từ phía
Nhà nước. Nhìn chung, BHTN chính là cơng cụ bảo vệ quyền và lợi ích của

NLĐ một cách hữu hiệu, là một chính sách của thị trường lao động tích cực
nhằm ngăn chặn tình trạng thất nghiệp.

1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm thất nghiệp
BHTN là tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, đòi hởi mồi

quốc gia phải có các chính sách điều chỉnh vừa nhằm đám bảo quyền lợi cùa

8


NLĐ khi bị thât nghiệp, vừa duy trì và phát triên nên kinh tê. BHTN có những
điểm đặc trưng riêng biệt, khác so với BHXH hay các loại bảo hiểm thương

mại, cụ thể như sau:
về đoi tượng: Đối tượng được hường chế độ BHTN là những người

trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng bị mất việc làm, tạm


thời khơng có thu nhập, có nhu cầu tìm việc làm và sẵn sàng quay trở lại làm
việc. Như vậy, khác với đối tượng của các chế độ BHXH khác là những

NLĐ vẫn đang tồn tại quan hệ lao động như chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản;
hoặc chấm dứt quan hệ lao động do khơng cịn khả năng tiếp tục làm việc

như hưu trí, tử tuất [14],
về mục đích: BHTN cũng hướng tới việc bù đắp một phần nào đó về

lợi ích cho đối tượng hưởng bảo hiểm cũng giống như các chế độ bảo hiểm
khác. BHTN xuất phát từ quan hệ lao động, tuy nhiên khi thực hiện chủ yếu

thuộc về lĩnh vực việc làm. BHTN khác các chế độ bảo hiểm khác ở chỗ,
ngoài việc giúp hồ trợ về kinh tế đổi với NLĐ bị mất việc cịn giúp họ xúc

tiến những hoạt động tìm kiếm, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề để họ có thể

quay trở lại và tham gia vào thị trường lao động. Ngồi ra, BHTN khơng
nhằm mục đích lợi nhuận, sinh lời mà chỉ mang mục đích bù đắp một phần về

lợi ích đối với đối tượng người được thụ hưởng. Bên cạnh đó, BHTN là chế
độ bảo hiểm ngắn hạn, chỉ xuất hiện khi NLĐ thất nghiệp, không chi trả dài

hạn như chế độ hưu trí.

về cơ chế quản lý và tô chức thực hiện của BHTN: Việc thực hiện chế
độ BHTN trên thực tế rất phức tạp và khó quản lý, khác hẳn việc quản lý đối

với các loại bảo hiểm khác. NLĐ bị mất việc từ nhiều ngun nhân nên khơng


thế dự tính trước được quy mơ và tỷ lệ thất nghiệp một cách chính xác, do đó,
gây ra khó khăn lớn trong việc hạch tốn và cân đối thu - chi của quỳ BHTN.

Việc xác định điều kiện hưởng TCTN cũng bất cập hơn so với các chế độ

9


BHXH khác. Thực tê, việc thực hiện đăng kí, thơng kê và phân loại người thât
nghiệp để đưa ra các biện pháp hồ trợ phù hợp với từng đối tượng là khá khó

khăn, một phần nguyên nhân là do khó xác định và kiểm tra ranh giới phân

định giữa có việc làm và khơng có việc làm, giữa có thu nhập và khơng có thu
nhập. Hoạt động của BHTN có mối quan hệ mật thiết với hệ thống đào tạo

nghề, các trung tâm giới thiệu việc làm, đòi hỏi cần có sự phối hợp đồng bộ,
linh hoạt giữa cơ quan quản lý BHTN với các cơ quan khác trong lĩnh vực lao
động việc làm [15]. Cơ quan BHTN vừa có trách nhiệm hồn thành tốt

chun mơn trước khi trả TCTN, vừa phải nắm bắt kịp thời các thông tin về
thị trường lao động để giới thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp đối với NLĐ

bị thất nghiệp.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp
BHTN đóng vai trị rất lớn trong việc đảm bảo mục tiêu ASXH và phát

triển kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia. Khơng chỉ dừng lại ở việc đảm bảo
đời sống cho cá nhân người thất nghiệp, tạo cơ hội cho họ quay trở lại với thị

trường lao động mà BHTN cịn góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển bền

vừng của mỗi quốc gia.

- Đổi với người lao động
BHTN là chồ dựa cả về tinh thần và vật chất cho NLĐ trang trải cuộc
sống, đáp ứng những nhu cầu tối thiểu trong thời gian họ bị mất việc làm, mất

đi nguồn thu nhập. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, tình trạng NLĐ
bị mất việc làm là điều khơng thể tránh khỏi, từ đó, việc thực hiện BHTN góp
phần đảm bảo mục tiêu ASXH. Khơng chì vậy, BHTN cịn giúp NLĐ có cơ

hội được học nghề, tìm kiếm những cơng việc mới phù hợp hơn để có thể tiếp

tục tham gia vào thị trường lao động, tiếp tục phấn đấu vươn lên.
Có thể nói, BHTN chính là “bà đỡ” về kinh tế, giúp NLĐ khơng may vì

một lý do nào đó mà bị mất việc làm, giúp họ giữ được trạng thái cân bằng về

10


tâm lý, hạn chê được những cú sôc vê tinh thân. Khi NLĐ mât thu nhập, lúc

này cuộc sống của họ khơng chỉ dừng lại ở những khó khăn về tài chính mà
cịn có thể là những sự bất hạnh, trầm uất về mặt tinh thần [35]. Cuộc sống

của NLĐ bị mất việc làm sẽ trở nên hết sức nặng nề về tất cả mọi mặt nếu
như khơng có TCTN. Nhờ vào chính sách BHTN mà trong khoảng thời


gian nhất định, NLĐ sẽ được hỗ trợ một khoản chi phí, tuy khơng lớn
nhưng cũng tạo điều kiện góp phần giúp cho NLĐ có thêm cơ hội tìm kiếm
việc làm phù hợp.
BHTN là một chế độ quan trọng và cần thiết đối với NLĐ, thể hiện tính

nhân văn sâu sắc bởi nó khơng chỉ giúp người thất nghiệp đảm bảo mức sống
tối thiểu mà còn là sự chia sẻ rủi ro đối với NLĐ bị mất việc làm. Thực hiện

tốt chính sách này sẽ góp phần cải thiện ASXH, góp phần nâng cao chất

lượng cuộc sống.

- Đổi với người sử dụng lao động
Khi tham gia BHTN, NSDLĐ sẽ không phải chi trả một khoăn chi phí
lớn để giải quyết chế độ cho NLĐ. Nhờ vậy, gánh nặng tài chính của doanh
nghiệp sẽ được san sẻ.

Ngoài ra, BHTN là một trong những biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp
trong quá trình sản xuất kinh doanh, mở rộng hoạt động và thu hút nguồn

nhân lực. Khi NSDLĐ đảm bảo được các chế độ ASXH và NLĐ nắm rõ mình
được tham gia BHTN, nắm rõ quyền được hưởng trợ cấp thất nghiệp, họ sẽ

yên tâm làm việc, tạo ra năng suất và chất lượng cao, cống hiến được nhiều

hơn cho doanh nghiệp. Từ đó, NSDLĐ sẽ ln giữ được cho doanh nghiệp

mình những NLĐ vừa có tay nghề cao, vừa có kinh nghiệm và gắn bó lâu dài,

góp phần tăng lợi nhuận và hiệu quả sử dụng sức lao động.

Mặt khác, các chính sách BHTN cịn cung cấp thơng tin, tư vấn giúp

kết nối cho những người cần việc làm và người cần lao động tìm thấy nhau, từ
đó hiệu quả lao động được tạo ra cao hơn [16].

11


- Đơi với Nhà nước và xã hội

BHTN đóng vai trò làm thăng bằng nền kinh tế, là liều thuốc “hạ nhiệt”
sự căng thẳng xã hội do tình trạng thất nghiệp gây ra. Nền kinh tế của mồi

quốc gia đều có sự góp sức của mồi cá nhân lao động. Neu cá nhân nào cũng
có việc làm, thu nhập ốn định tức xã hội đó sẽ ổn định, kinh tế sẽ ngày càng
vững vàng hon. Ngược lại, nếu quốc gia nào có nhiều người khơng có việc

làm, khơng tạo ra thu nhập thì trước tiên, bản thân họ sẽ rơi vào cảnh nghèo
đói, cực khổ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc quốc gia đó sẽ khơng thể

phát triển lớn mạnh. Vì vậy, BHTN đã đóng vai trị làm cân bằng nền kinh tế,
hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ
bạc,... là do thiếu việc làm và thất nghiệp gây nên bởi khi NLĐ mất việc làm,

điều này sẽ tác động rất lớn đến tâm lý, tinh thần cùa họ. Từ đó, BHTN khơng

chỉ có chức năng hỗ trợ về thu nhập mà cịn tạo điều kiện để người thất
nghiệp có thế tìm cơng việc mới phù hợp hơn, từ đó tạo ra thu nhập đảm bảo

cuộc sống cho bản thân, gia đình và giữ gìn sự ổn định xã hội.

Khơng chỉ vậy, BHTN có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị. Thực hiện
chính sách BHTN giúp NLĐ thấy được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, từ
đó giúp họ yên tâm lao động sản xuất, góp phần ổn định chính trị đất nước.

Từ đó, quan hệ giữa NLĐ với Doanh nghiệp, Nhà nước cũng hạn chế căng

thẳng hơn, các cuộc bãi cơng, biểu tình cũng được giảm thiểu.
1.2. Sự điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiếm thất nghiệp
Hệ thống pháp luật đầu tiên về BHTN được hình thành trong thập kỷ
đầu tiên của thế kỷ XX tại Na Uy và Đan Mạch. Từ đó, pháp luật về BHTN

lần lượt được hình thành tại các nước Châu Âu khác và được đưa vào áp dụng
và thực hiện đầu tiên là tại Vương Quốc Anh (1911), tiếp sau đó là Italia [16].

12


Pháp luật vê BHTN là một chê định trong hệ thông các chê định

BHXH, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên

quan đến BHTN, được hình thành do có sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ dưới
sự bảo trợ cùa Nhà nước. Quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHTN thường bao

gồm: quan hệ giữa NLĐ bị mất việc làm với NSDLĐ, giữa người thất nghiệp
với cơ quan quản lý BHTN và các mối quan hệ khác liên quan [8],


BHTN có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo thu nhập cho

NLĐ khi bị mất việc làm. Nếu như thất nghiệp là một hiện tượng khách quan
của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng hệ thống pháp luật về BHTN

cũng là việc làm vô cùng cấp thiết đối với mồi quốc gia, nhàm đảm bảo đầy
đủ quyền lợi của NLĐ cũng như duy trì sự ổn định và phát triển kinh tế. Pháp

luật của nhiều nước đã ghi nhận chính sách này và điều chỉnh ở nhiều nội

dung khác nhau như về đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, chế độ
hưởng,... Do điều kiện kinh tế, xã hội của các nước khác nhau nên pháp luật

về BHTN của các nước cũng là khác nhau.
Có thể khái quát khái niệm pháp luật về BHTN như sau:

Pháp luật về BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ về
việc đóng góp và sử dụng quỳ BHTN, chi trà trợ cấp thất nghiệp để
bù đắpJL thu nhập
mất việc làm và thực
• ± cho NLĐ bị••
• hiện
• các biện


pháp hồ trợ nhằm đưa người thất nghiệp trở lại thị trường lao động


và tìm được việc làm [39],

1.2.2. Nguyên tắc pháp luật về bảo hiếm thất nghiệp
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật BHTN là những tư tưởng chủ đạo
xuyên suốt, chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật BTHN. Ngoài

những nguyên tắc chung của pháp luật An sinh và Bảo hiểm xã hội, BHTN có
những nguyên tắc đặc trưng riêng. Nhìn chung, việc cụ thể hoá các quy định

về BHTN dựa trên 5 nguyên tắc cơ bàn sau:

13


Thứ nhât, bảo đảm sự chia sẻ rủi ro giữa những những người tham gia BHTN

BHTN có tính chất tương trợ, lấy số đơng bù số ít. Khi NLĐ bị mất
việc làm, BHTN giúp người thất nghiệp tạm ổn định cuộc sống trong một thời

gian nhất định đế họ có cơ hội tìm kiếm việc làm mới phù hợp hơn. Tuy

nhiên, không phải bất cứ ai tham gia BHTN cũng được hưởng TCTN bởi có
nhũng người trong q trình cơng tác không bị mất việc làm, không nghỉ việc
cho đến khi họ nghỉ hưu, do đó họ khơng được hưởng khoản trợ cấp này.

Đối với NSDLĐ, nhằm chia sẻ rủi ro đối với NLĐ, NSDLĐ cũng tham

gia đóng BHTN cho NLĐ của mình. NSDLĐ cũng nhận thức được rằng khi
Doanh nghiệp không may bị phá sản hoặc giảm thiểu nhân sự, bản thân chủ


Doanh nghiệp, NSDLĐ khó có thể chi trả cho nhiều NLĐ mất việc làm cùng
lúc. Do đó, NSDLĐ nộp khoản tiền nhất định vào quỳ tập trung để khi có rủi

ro xảy ra, quỳ này sẽ được rút ra để giải quyết. Việc tham gia BHTN là điều

kiện bắt buộc đối với cả NLĐ và NSDLĐ khi giao kết hợp đồng.
Chính vì vậy, ngun tắc này xuất phát từ sự tương trợ giữa những

người tham gia, đặt lợi ích cộng đồng, tập thể lên trên lợi ích của một cá nhân,
những người tham gia BHTN đang chia sẻ rủi ro cho nhau. Đây là một trong
những nguyên tắc vơ cùng quan trọng trong BHTN và mang tính nhân văn,

tính xã hội sâu sac. Neu nguyên tắc này khơng được đảm bảo thì các khoản
TCTN sẽ chỉ đơn thuần là một khoăn “tiền tiết kiệm trả muộn ” và ý nghĩa xã
hội của BHTN sẽ mất đi [7],
77iớ hai, mức đóng BHTN được tính trên cơ sở tiền lương của NLĐ

Mức đóng BHTN khơng phải là mức đóng cố định pháp luật đặt ra cho

tất cả những người tham gia BHTN, mà mức đóng này được xác định trên cơ
sở tiền lương của NLĐ. Nếu NLĐ thuộc đối tượng hường lương do Nhà nước

quy định thì mức đóng BHTN là tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ
trách chức vụ và thâm niên công tác. Đối với trường hợp NLĐ đóng theo mức

14


do NSDLĐ đê ra thì mức đóng BHTN là tiên lương đã được thông nhât trong


HĐLĐ mà NLĐ và NSDLĐ đã kí trước đó.

Tham gia BHTN là một trong những biện pháp nhằm bảo đảm cho
người bị mất việc làm về vấn đề tài chính, cụ thể là phần thu nhập giúp họ
trang trải cuộc sống trong giai đoạn khó khăn. Ngun tắc mức đóng BHTN

được tính trên cơ sở tiền lương cùa NLĐ là một trong những nguyên tắc có ý

nghĩa vơ cùng quan trọng và hợp lý, bởi nếu mức đóng q cao sẽ khơng thu
hút được NLĐ tham gia.
Thứ ba, mức hưởng của BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHTN

Nguyên tắc này dựa trên mối quan hệ giữa sự đóng góp và hưởng thụ
của NLĐ và thể hiện được sự công bằng của BHXH nói chung. Với tính chất

là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia đóng bảo hiểm, việc đưa ra các

quy định về mức đóng, thời gian đóng sẽ quyết định đến mức hưởng BHTN.

TCTN là khoản tiền chi trả cho người bị mất việc làm khi đáp ứng được đầy
đủ các yêu cầu, NLĐ đóng mức BHTN như thế nào thì sẽ được hưởng theo

mức đóng như vậy. Tuy nhiên mức chi trả cũng cần vừa phải đảm bảo được
mức sống tối thiểu cho NLĐ, vừa phải đảm bảo sự ổn định của quỹ BHTN,

tránh tình trạng Nhà nước phải bù đắp, hỗ trợ quá nhiều.
Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng có mối quan hệ khăng khít với
ngun tắc chia sẻ rủi ro, lấy số đơng bù số ít. BHTN mang tính chất xã hội


sâu sắc, có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng nhằm giúp đỡ người khơng

có việc làm vượt qua giai đoạn khó khăn.
Thứ tư, việc thực hiện BHTN phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, đảm
bảo kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia

BHTN cần phải đảm bảo được quyền lợi của những người tham gia.
Khi mất việc làm, NLĐ không tạo ra thu nhập, cuộc sổng trở nên khó khăn;

15


do đó, BHTN cần được giải quyết đơn giản, dễ dàng, thuận tiện nhằm giúp bù

đắp, hồ trợ kịp thời cho NLĐ, giúp đỡ họ vượt qua trong thời gian chờ tìm
kiếm việc làm mới.

Các quy định về trình tự, thủ tục, quy trình giải quyết chế độ BHTN
cần được hướng dẫn đơn giản, phù hợp, thuận tiện cho NLĐ. Các thủ tục cần

tránh việc tạo ra sự phức tạp hoặc gây khó khăn trong việc hưởng BHTN, dần
đến tâm lý e ngại thực hiện hoặc tư tưởng BHTN chỉ mang tính hình thức, gây

mất thời gian cho NLĐ.
Thứ năm, quỹ BHTN được quản lý tập trung, thống nhất, công khai,

minh bạch, bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ.

Theo nguyên tắc này, quỹ BHTN dùng để chi trả cho những người


được hưởng BHTN phải được quân lý một cách tập trung, thống nhất, tránh
sự manh mún, tản mạn khó quản lý. Để đảm bảo thực hiện hài hòa các nội

trung trên và đạt được đúng mục tiêu mà BHTN đặt ra thì việc thực hiện

BHTN trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước trực tiếp tố chức, chỉ
đạo, và quản lý toàn bộ, chịu trách nhiệm xây dựng kể hoạt hoạt động và xem

xét mức hỗ trợ cho quỹ BHTN. Các kế hoạch thu chi phải công khai, và báo

cáo thường xuyên đến nhà nước, việc sử dụng quỹ hay đầu tư quỳ cũng phải
đàm bảo tính chất minh bạch và đâm bảo sự an tồn về tài chính cho Quỹ
BHTN, tránh tình trạng vỡ quỳ, gây thiệt hại cho các bên tham gia.

1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
1.2.3.1. Đoi tượng tham gia bảo hiếm thất nghiệp

Tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà có thể mở rộng
thêm cũng như bó hẹp đối tượng tham gia BHTN. về cơ bản, đối tượng tham
gia BHTN gồm có: NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
* Người lao động
Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã có nhiều Cơng ước quy định rõ đối

16


tượng áp dụng BHTN. Điêu 2, Công ước sô 44 vê bảo đảm tiên trợ câp cho
những người thất nghiệp không tự nguyện năm 1934 quy định áp dụng BHTN

cho tất cả những người làm việc được trả tiền công hoặc tiền lưong, cịn

những NLĐ tự do thì khơng thuộc đối tượng tham gia BHTN. Tuy nhiên,
Điều 2 của Công ước này cũng có nhắc đến khi cần thiết, pháp luật của mồi

quốc gia có thể có những ngoại lệ đối với một số đối tượng như: người giúp
việc gia đình, làm việc tại nhà, NLĐ đã vượt quá tuổi quy định, lao động đang

được hường che độ hưu trí,... có thu nhập đảm bảo tham gia BHTN. Tuy

nhiên, Cơng ước này không áp dụng với những đối tượng như thủy thủ, thủy
thủ đánh cá và lao động nông nghiệp.

* Người sử dụng lao động
Đối tượng của BHTN không chỉ áp dụng đối với NLĐ mà còn cả với

NSDLĐ. Phần lớn các quốc gia đều quy định NSDLĐ có nghĩa vụ bắt buộc

tham gia, đóng phí và quỳ BHTN là vì họ là người mua sức lao động của

NLĐ đem vào quá trình sản xuất, kinh doanh để nhằm mục đích mang lại lợi
nhuận. BHTN khơng chỉ bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho NLĐ mà
cịn bảo đảm cả quyền và lợi ích cho NSDLĐ.

Khi tham gia BHTN, NSDLĐ được sử dụng quỹ BHTN để chi trả
cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc

làm cho NLĐ. Trong trường hợp NLĐ mất việc làm, NSDLĐ không cần

phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để giải quyết các chế độ cho NLĐ mà
được san sẻ gánh nặng trả trọ cấp nhờ vào việc tham gia đóng BHTN. Khi


đó, cơ quan quản lý về BHTN sẽ phải chịu việc chi trả trợ cấp thất nghiệp
cho NLĐ bị mất việc chứ không phải NSDLĐ. Do đó, đóng góp vào quỹ

BHTN khơng phải là tăng thêm chi phí, làm ảnh hưởng tới hiệu quả q
trình sản xuất kinh doanh mà chính là thực hiện những nhiệm vụ cân bằng

quyền và lợi ích của NSDLĐ.

17


* Nhà nước

Nhà nước tham gia BHTN như một phần để đàm bảo sự tồn tại của cơ
chế này và mức độ tham gia của nhà nước trong BHTN ở mỗi quốc gia là

khác nhau. Nhà nước đóng vai trị quan trọng trong việc xây dựng chính sách,

bắt buộc thực hiện và hầu hết Chính phủ các nước đều hồ trợ một phần xây
dựng quỹ BHTN.

Việc Nhà nước tham gia đóng BHTN thường tập trung ở các quốc gia

đang phát triến cũng như bước đầu mới triển khai thực hiện chính sách BHTN

như ở Việt Nam. Cịn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển, BHTN
được thực hiện lâu đời, nguồn quỹ dồi dào, Nhà nước không tham gia đóng

BHTN mà chi đóng vai trị quản lý và bảo trợ khi thiếu quỳ. Đặc biệt khi nền
kinh tế suy thoái, lạm phát, khủng hoảng,... dần đến NLĐ thất nghiệp hàng

loạt, Nhà nước vẫn có thể chủ động về tài chính để ứng phó với tình hình này,

khơng phải chi cùng lúc một khoản tiền lớn để trả trợ cấp cho người bị mất
việc làm [44]. Do vậy, lợi ích của BHTN đối với Nhà nước là vơ cùng to lớn.

1.2.3.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Không phải bất cứ NLĐ nào tham gia BHTN thì khi mất việc làm đều
được hưởng BHTN mà họ phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Theo
Công ước số 44 của ILO, NLĐ mất việc làm chỉ được hưởng BHTN khi đáp

ứng đủ các yêu cầu cụ thể như sau:
Thứ nhất, thuộc đối tượng hưởng BHTN. NLĐ bị mất việc là do
ngun nhân nằm ngồi mong muốn chủ quan, có khả năng lao động và sẵn
sàng quay trở lại làm việc khi được giới thiệu việc làm;

Thứ hai, người bị mất việc làm phải tham gia đóng BHTN đủ thời gian

quy định. Theo đó, tùy thuộc vào mức đóng và thời gian đóng đề quyết định

thời gian hưởng và mức hưởng trợ cấp thất nghiệp cho từng NLĐ, dựa trên cơ
sở đảm bảo cho người khơng có việc làm đủ sống ở mức tối thiểu, đồng thời

18


cân đôi thời gian sao cho người thât nghiệp vừa tìm được cơng việc mới phù
hợp, vừa khơng lạm dụng hưởng trợ cấp để không đi làm.

Thứ ha, NLĐ phải đăng kí hưởng TCTN, đăng kí tìm việc tại cơ quan


có thẩm quyền xác nhận hoặc tại trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm do
Nhà nước quản lý. Việc đăng kí này là cần thiết bởi nhờ đó, cơ quan quản lý

có thể theo dõi, kiểm sốt được số lượng người thất nghiệp cũng như chi trả

trợ cấp một cách họp lý, đồng thời hồ trợ được người thất nghiệp tìm kiếm
được việc làm.
Thứ tư, NLĐ phải có sổ BHXH. sổ BHXH được coi là căn cứ pháp lý

đề chứng nhận NLĐ này có tham gia đóng BHTN đủ thời hạn và thể hiện

mức đóng của người đó.

Ngồi ra, trong trường hợp NLĐ bị mất việc do lồi cố ý của mình hoặc
do tự ý bỏ việc khơng có lí do chính đáng, từ chối việc làm phù hợp do cơ

quan giới thiệu việc làm giới thiệu hoặc có hành vi gian lận để hưởng trợ cấp
thì NLĐ có thể bị mất quyền hưởng TCTN.

Tóm lại, để được hưởng BHTN thì NLĐ cần phải đáp ứng các điều

kiện về thời gian tham gia BHTN; nguyên nhân thất nghiệp; thủ tục hưởng
BHTN; NLĐ phải có khả năng lao động và sẵn sàng quay trở lại làm việc khi
được giới thiệu việc làm mới.

1.2.3.3. Mức trợ cấp và thời gian hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Mức trợ cấp BHTN là khoản tiền mà NLĐ khi bị mất việc làm được

nhận từ cơ quan BHTN hay cơ quan quản lý lao động chi trả trợ cấp. Mức trợ
cấp thất nghiệp được hình thành trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng của

NLĐ. Nếu NLĐ có mức đóng cao và thời gian đóng lâu thì mức hưởng càng

cao. Mỗi quốc gia đều có cách tính tỉ lệ hưởng riêng, tuy nhiên tất cả các quốc
gia đều phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho NLĐ bị mất việc làm.

Công ước 102 quy định mức TCTN là tỷ lệ % so với tổng số tiền lương
của một NLĐ nam giới thành niên thông thường và so với mức phụ cấp gia

19


đình trả cho một người thât nghiệp có gánh nặng gia đình giơng như người

được hưởng mẫu. Người thụ hưởng mẫu là người có vợ và hai con được
hưởng tỷ lệ TCTN là 45%. Tùy theo điều kiện của từng quốc gia, mức TCTN

này cũng được quy định không giống nhau.

Thời gian hưởng trợ cấp BHTN tối đa phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố tài

chính, vào quỳ bảo hiểm và thời gian tham gia BHTN, ngồi ra cịn phụ thuộc
vào các điều kiện kinh tể - xã hội khác. Điều 24 Công ước số 102 ILO quy định:

Trợ cấp thất nghiệp có thể trả suốt thời gian NLĐ bị mất việc làm
ngồi ý muốn, và đơi khi trợ cấp này cũng có thể hạn chế trong

nhiều trường hợp đối với các loại đối tượng hưởng trợ cấp. Riêng
đối với đối tượng hưởng trợ cấp là người làm công ăn lương, thời

gian hưởng trợ cấp có thể bị hạn chế trong khoảng 13 tuần trong

từng thời kỳ 12 tháng [37].

Mỗi quốc gia lại có những quy định riêng về thời gian hưởng TCTN,

phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau nhưng quan trọng nhất là khả năng tài
chính của quỳ BHTN. Tuy nhiên, NLĐ khi bị mất việc làm không được

hưởng TCTN ngay, mà phải sau một khoảng thời gian khi đã nộp đơn xin
hưởng trợ cấp đến khi họ thực sự nhận được trợ cấp. Khoảng thời gian đó

thường khơng vượt q 8 ngày, gọi là thời gian hỗn hưởng trợ cấp BHTN

nhằm giám bớt phần nào gánh nặng tài chính cho Quỹ BHTN.
1.2.3.4. Xử lí vi phạm và giải quyết tranh chấp về BHTN

Vi phạm pháp luật về BHTN là những hành vi trái pháp luật của một

trong các bên hoặc các bên liên quan hoặc của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào
trong xã hội trong lĩnh vực BHTN. Để giải quyết tình trạng vi phạm về
BHTN, các quốc gia đều đặt ra những chế tài riêng đề xử lý, thường có hai
chế tài chính là xử phạt hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Cá nhân,

tổ chức phạm phải một trong các hành vi vi phạm thì tùy theo tính chất, mức

20


×