ĐẠI HỌC QUOC GIA HA NỌI
KHOA LUẬT
NGUYỄN KHÁNH LINH
BÃO ĐẢ M QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC TƠN
GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
'A
tA ĩ
'A
Chuyên ngành : Pháp luật vê quyên con người
Mã số
: 8380101.07
LUẬN
VÀN THẠC
sĩ LUẬT
HỌC
•
•
•
•
Người hướng dẫn khoa học-. GS.TSKH NGUYỄN ĐẤNG DUNG
Hà Nội - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các sô liệu trong luận
văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trên bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Khánh Linh
1
MỤC LỤC
Lòi cam đoan
1
Mục lục
L
-
r
Danh mục các ký hiệu, các chữ viêt tăt
__
2
5
Danh mục bảng biêu
MỎ ĐẦU
Chương 1: cơ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC TƠN GIÁO.........11
1.1. Khái niệm công cụ của luận văn........................................................................... 11
1.2. Đặc điểm của nhóm tơn giáo thiểu số................................................................... 21
1.3. Ngun nhân nảy sinh tơn giáo thiểu số............................................................. 24
1.4. Quyền của nhóm tơn giáo thiểu số...................................................................... 26
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 39
Chương 2: THỤC TIỄN BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG VỀ QUYỀN GIỮA CÁC TỒN
GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................................... 40
2.1. Khái quát chung.................................................................................................... 40
2.2. Đặc điểm các nhóm tơn giáo thiểu số tại Việt Nam............................................ 40
2.3. Nguyên nhân nảy sinh tôn giáo thiểu số tại Việt Nam........................................ 45
2.4. Nội dung các nhóm tơn giáo thiểu số tại Việt Nam............................................. 49
2.5. Thực trạng đảm bảo quyền của các nhóm tơn giáo thiểu số hiện nay................ 68
Tíểtt kết chương 2..................................................................................................... 98
2
Chưig 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐẢM BẢO BÌNH ĐẤNG VÈ QUYỀN
GIŨA CÁC TÔN GIÁO TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Cơ sở đảm bào bình đẳng về quyền giữa các tôn giáo
100
99
3.2. Kinh nghiệm của một sô quôc gia trên thê giới vê ứng xử với nhóm tơn giáo thiêu
r
101
SÔ
3.3. Kiến nghị giải pháp cho Việt Nam......................................................................106
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 118
KÉT LUẬN........................................................................................................................119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 121
3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHÙ VIÉT TẮT
Ký hiệu chữ viết tắt
Chữ viết đầy đu
Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị
ICCPR
STT
1
(International Covenant on Civil and Political
Rights)
2
Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
ICERD
chủng tộc (International Convention on the
Elimination of All Forms of Racial Discrimination)
3
Tịa án Cơng lý quốc tế thường trực (Permanent
PCIJ
Court of International Justice)
4
Tòa án Nhân quyền Châu Âu (European Court of
ECHR
Human Rights)
5
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (Universal
Declaration of Human Rights)
4
UDHR
DANH MỤC BẢNG BIỄU
Bảng 1.1. Trả lời cho câu hỏi: Bạn cảm thấy như thế nào/những người xung
quanh bạn cảm thấy như thể nào với các tôn giáo sau?......................................... 35
Bảng 1.2. Trả lời cho câu hỏi: Bạn có đồng ý với việc Chính phú quy định chặt
chẽ hơn các hoạt động, thực hành tín ngưỡng đối với các tơn giáo sau?............ 36
Bảng 2.1. Thống kê một số bài báo đưa tin về nhóm tơn giáo thiểu số.............. 73
Bảng 2.2. Ngun nhân theo đạo của tín đồ Ngọc Phật Hồ Chí Minh và Bà Điền
ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ............................................................................. 85
Bảng 2.3. Thống kê số tín đồ Pháp Luân Cơng đã bị bát giữ và phạt hành chính
do truyền đạo trái phép từ tháng 3/2020 đến tháng 5/2020.................................. 91
Bảng 3.1. Khung câu hởi đánh giá hành động trong vấn đề tồn giáo được Liên
Hợp Quốc khuyến nghị.......................................................................................... 110
r
y
r
Bảng 3.2. Các chỉ sơ đảm bảo khơng có sự ép buộc trong qun tự do có/châp
nhận/thay đối hoặc duy trì một tơn giáo, tín ngưỡng do một người lựa chọn. ..112
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đê tài
Tơn giáo, tín ngưỡng là một trong những nhu cầu đời sống tinh thần không thể
thiếu của con người. Trong “Phát hiện Ân Độ”, J.Nehru đã viết: “Tôn giáo đã đưa ra
một loại giá trị cho cuộc sống con người, mặc dù một số chuẩn mực ngày nay khơng
cịn được áp dụng, thậm chỉ còn tai hại, nhưng những chuẩn mực khác vẫn còn là cơ
sở cho tỉnh thần và đạo đức”.
Đời sống tôn giáo cũng có những thay đối, biến động khơng ngừng theo những
chuyển động của cuộc sống thường nhật. Bên cạnh những tơn giáo lớn đang tồn tại,
các nhóm tơn giáo nhỏ cũng không ngừng nảy sinh đa dạng. Việc bảo đảm bình đẳng
giữa các tơn giáo ở Việt Nam vì thế không chỉ được đặt ra với các tôn giáo đà tồn tại,
được Nhà nước cơng nhận; mà cịn được được đặt ra với các nhóm tơn giáo nhỏ mới
nảy sinh trong thời gian gần đây và chưa được Nhà nước công nhận. Trong bức tranh
tôn giáo hết sức đa dạng, phong phú tại Việt Nam, chúng tôi tập trung đi sâu phân
tích và kiến nghị những giải pháp đảm bảo bình đắng đối với các nhóm tơn giáo thiếu
số, dựa trên những lý do sau:
Thứ nhất, binh đẳng về quyền giữa các tôn giáo là yêu cầu tiên quyết, quan
trọng nhằm đảm bảo quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng nói riêng và các quyền con
người khác nói chung. Tuy vậy, đây là một vấn đề phức tạp và rộng lớn trong nghiên
cứu. Vì lè đó, chúng tơi lựa chọn tập trung vào các nhóm tơn giáo thiều số để có thể
nghiên cứu kỹ lưỡng và cặn kẽ vấn đề và đảm bảo yêu cầu giới hạn dung lượng của
luận văn. Đây cũng là vấn đề mới và chưa nhiều nghiên cứu đề cập tới.
Thứ hai, về số lược sự gia tăng nhanh chóng về số lượng của các nhóm tơn
giáo thiều số, những nhóm tơn giáo mới ra đời. Ớ Việt Nam, từ thập niên 90 của thế
kỷ XX đến nay, đã có hơn 70- 80 nhóm tơn giáo khác nhau ra đời với những khác
biệt về giáo lý, đối tượng thờ cúng, cách thức sinh hoạt,... so với những tôn giáo đã
và đang tồn tại, đặt ra những thách thức về bản chất và xu thế của tôn giáo. Đồng
thời, sự gia tăng của các tôn giáo, tín ngưỡng có thể xem là phản ứng của một bộ phận
6
người dân với những thách thức vê kinh tê, xã hội, chính trị trong thời diêm hiện nay.
Thứ ba, về mặt quản lý nhà nước, mặc dù có sự ra đời liên tục, hàng loạt, nhưng
cho đến nay, ít có sự thống kê đầy đủ nào về các nhóm tơn giáo, tín ngưỡng đó. Các
tơn giáo, tín ngưỡng này đều khơng được chính quyền các cấp cơng nhận. Trong khi
đó, các nhóm tơn giáo, tín ngưỡng vẫn khơng ngừng truyền bá giáo lý của mình và tìm
cách để nhận được sự chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền. Việc nghiên cứu và đưa
ra những giải pháp đẳm bảo bình đẳng về quyền với nhóm tơn giáo thiểu số trở nên
cần thiết và quan trọng. Điều đó khơng chỉ đảm bảo quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng
của nhóm; mà còn giúp việc quản lý của cơ quan Nhà nước trở nên hiệu quả, phù hợp
với những thay đổi trong đời sống tơn giáo nói chung.
Thứ tư, về mặt nghiên cứu, vấn đề đảm bảo quyền đối với các nhóm tơn giáo
thiếu số nói chung cịn tương đối mới mẻ trên thế giới và tại Việt Nam. Chưa có một
văn kiện quốc tế hay khu vực cụ thể nào đề cập và trình bày rõ ràng về khái niệm,
quyền và các đảm bảo từ Nhà nước đối với quyền của các nhóm tơn giáo thiểu số.
Tại Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu hiện nay đều tập trung vào các tơn giáo,
tín ngưỡng đã được nhà nước cơng nhận và các tơn giáo, tín ngưỡng được hình thành
trước năm 1975 (Đạo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo và phong trào các ông Đạo). Điểm
chung giữa phần lớn các nhà nghiên cứu là câu hỏi về giá trị tôn giáo cùa các nhóm.
Một số nhà nghiên cứu đã sử dụng thuật ngữ ‘Tơn giáo mới” đề gọi các nhóm này.
Các nghiên cứu tập trung xem xét những nhóm này thơng qua các yếu tố tôn giáo cơ
bản của họ, bao gồm: nguồn gốc, loại hình, giáo lý, thực hành nghi lễ, lành đạo, thành
viên và phương thức tổ chức. Từ đó kết luận, những nhóm này được xem như một
loại tơn giáo, tín ngưỡng mới, với những ảnh hưởng phần lớn là tiêu cực. Từ đó, đề
xuất các giải pháp để hạn chế, ngăn chặn ảnh hưởng của chúng tới xã hội. Một số nhà
nghiên cứu trong đó có Đỗ Quang Hưng [83], Nguyễn Quốc Tuấn [127] và Trương
Văn Chung [163] đã thể hiện sự đánh giá khách quan hơn khi đưa ra những câu hỏi
thảo luận về quyền của những nhóm tơn giáo này.
Thứ năm, ở góc độ dư luận xã hội, các phương tiện truyền thông cũng thường
đưa ra đánh giá tiêu cực về những tơn giáo, nhóm tơn giáo khác với những tôn giáo
7
lớn, tập trung vào những yêu tô khác biệt, những yêu tô bị coi là xâu và sai, mà bỏ
qua khía cạnh tích cực. Điều này dẫn đến các nhóm tôn giáo nhở mới nảy sinh phải
chịu sự kỳ thị, phân biệt đối xử trong chính cộng đồng mà họ đang sinh sống. Việc
nghiên cứu nhằm đảm bảo bình đẳng về quyền với các nhóm tơn giáo thiểu số trở nên
cần thiết, hạn chế việc các nhóm tơn giáo thiểu số, các nhóm tơn giáo nhỏ phải chịu
đựng và đối mặt với sự kỳ thị đến từ du luận xà hội, những định kiến sai lệch.
Có thể thấy, các nhóm tơn giáo nhỏ mới phát sinh địi hỏi cần đuợc nghiên cứu
một cách kỹ càng ở cả góc độ lý luận và thực tiễn nhằm đảm bảo quyền tự do tơn
giáo, tín ngưỡng. Qua đó, kiến nghị những giải pháp quản lý Nhà nước thích hợp.
Chính vì những lý do nêu trên, bằng phương pháp tiếp cận từ chuyên ngành
Luật học và liên ngành khoa học xã hội, chúng tôi lựa chọn: “Bảo đảm quyền bình
đắng giữa các tơn giáo ử Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
•
•
•
“
7
Mục đích nghiên cứu: Phân tích cơ sở lý luận và thực trạng bình đăng giữa các
9
r
\
\
9
9
tơn giáo thơng qua sự biêu hiện binh đăng vê quyên đôi với các nhóm tơn giáo thiêu
SƠ. Đơng thời, xem xét, đánh giá những nhóm tơn giáo nhỏ, tơn giáo thiêu sơ xt hiện
L
.
■
trên thê giới và tại Việt Nam hiện nay.
___
9
Nhiệm vụ nghiên cứu: Đê thực hiện được mục đích trên, luận văn có ba nhiệm
vụ đặt ra cần giải quyết:
Một là, phân tích và đưa ra khái niệm nhóm tơn giáo thiểu số, các đặc điểm và
nguyên nhân phát sinh, hình thành nhóm tơn giáo thiếu số.
Hai là, phân tích thực trạng, những đặc trưng và tác động của nhóm tơn giáo
thiểu số tại Việt Nam.
Ba là, một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị nhằm đảm bảo quyền của các tôn
giáo tại Việt Nam hiện nay.
3. Co’ sỏ’ lý luận và phưong pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên lý luận Mác - Lênin, tư
•
•
•
•
•
•
e/
•
tưởng Hồ Chí Minh, nhân học, xã hội học, văn hóa học và luật học về tơn giáo.
8
'
Phương pháp nghiên cứu: Luận vãn sử dụng một sô phương pháp nghiên
cứu liên ngành trong khoa học xã hội nhân văn như: Triết học và Tôn giáo học,
phương pháp nghiên cứu thực tiễn (phân tích và tổng kết kinh nghiệm), phương pháp
nghiên cứu lý thuyết (phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp lý luận),... về các
tơn giáo thiểu số.
Cách tiếp cận Triết học dựa trên các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Chúng tôi vận dụng cặp
phạm trù nguyên nhân - kết quả làm cơ sở đế nghiên cứu và lỷ giải những sự thay
đổi trong đời sống tôn giáo hiện nay.
Cách tiếp cận Tơn giảo học giúp đánh giá các nhóm tơn giáo thiểu số với tư
cách là một hình thái ý thức xã hội, một tiểu kiến trúc thượng tầng, một hiện tượng
cùa lịch sử xã hội nhằm chỉ ra nguồn gốc, đặc điếm cũng như các hình thức vận động
cùa các nhóm.
Luận văn cũng sử dụng cách tiêp cận đa ngành: Nhân học tơn giảo nhăm xem
xét các nhóm tơn giáo thiếu số trong sự thay đối của không gian, thời gian và đời
sống xã hội cũng như cá nhân. Tiếp cận Xã hội học giúp đánh giá những tác động của
nhóm tơn giáo thiểu số qua số liệu, bảng biểu,...
Phương phảp phân tích và tơng kết kinh nghiệm'. Tiếp cận những tài liệu,
nghiên cứu, xem xét lại những thành quả thực tiễn về các nhóm tơn giáo thiểu số đã
có để rút ra nhận xét, bồ sung cho nghiên cứu của mình.
Phương pháp phân tích và tơng hợp lỷ luận'. Nghiên cứu các tài liệu, lý luận
khác nhau về nhiều khía cạnh của các nhóm tơn giáo thiểu số: các văn kiện có đề cập
tới khái niệm, lịch sử khái niệm, báo cáo đặc biệt về tình hinh tại các khu vực,... Từ
đó, liên kêt từng mặt, từng bộ phận thơng tin đã được phân tích và đê xt cách hiêu
thuật ngữ “nhóm tơn giáo thiểu số”, các đặc điểm của nhóm tơn giáo thiểu số và
quyền của nhóm.
Phương pháp lịch sử: Đi tìm và lý giải nguồn gốc phát sinh, đặc điểm của
nhóm tơn giáo thiểu số.
9
Luận văn cũng sử dụng kết quả của các công trình nghiên cứu đã cơng bố có
liên quan đến đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là các nhóm
tơn giáo thiểu số tại Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: về không gian, luận văn lựa chọn giới hạn các nhóm
tơn giáo thiểu số có mặt tại Việt Nam. về thời gian, luận văn tìm hiểu về các nhóm
tơn giáo thiểu số từ khoảng những năm 1945 cho đến nay.
5. Đóng góp của luận văn
Đưa ra khái niệm nhóm tơn giáo thiểu số, phân tích ngun nhân nảy sinh, đặc
điểm của tôn giáo thiểu số trên thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đánh
giá những điểm khác biệt của tôn giáo thiếu số ở Việt Nam, phân tích thực tiễn đảm
bảo quyền của các nhóm tơn giáo đó. Đồng thời, đề xuất một số khuyến nghị ứng xử
cùa Nhà nước từ hoạt động của các nhóm tơn giáo thiểu số.
Luận văn có thề làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta đối với tơn giáo nói chung, nhóm tơn giáo thiểu số nói
riêng. Luận văn cịn có thề làm tài liệu cho việc nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo
thiểu số trên thế giới và Việt Nam.
6. Ỷ nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Dựa trên những tư liệu, nghiên cứu của các học giả, quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tơn giáo và tơn giáo thiểu số, luận văn
phân tích, rút ra các đặc trưng, nhận diện về tôn giáo thiểu số và quyền của nhóm.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đánh giá hoạt động, tác động và thực tiễn thực
hiện quyền của các nhóm tơn giáo thiểu số hiện nay. Từ đó, đề xuất khuyến nghị ứng
xử nhằm hạn chế những tác động tiêu cực để đảm bảo quyền tự do tơn giáo, tín
ngưỡng tại Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương và 12 tiết.
10
Chương 1:
Cơ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỮA CÁC TƠN GIÁO
1.1.
Khái niệm cơng cụ cùa luận văn
1.1.1. Bình đẳng tơn giáo
Bình đẳng
Điều 2 trong Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp Quốc
(UDHR) được Đại hội đồng Liên Họp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết
số 217 (III), ngày 10 tháng 12 năm 1948 nhấn mạnh: "‘khơng phân hiệt đối xử vì hất
cứ lỷ do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngừ, tơn giáo, chính kiến hay
quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào
khác" [180, 14]. Khoản 1 Điều 2 Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị
(ICCPR) [313] và khoản 2 Điều 20 và Điều 26 của Công ước tái khẳng định nguyên
tắc này [313]. ủy ban giám sát thực hiện ỈCCPR đã nhấn mạnh và làm rõ thêm một
số khía cạnh về nguyên tắc khơng phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật trong
Bình luận chung số 18 [235].
Có thể thấy bình đẳng là một quyền cơ bản của con người. Đó là quyền được
xác lập tư cách con người trước pháp luật; khơng bị pháp luật phân biệt đối xử, có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau.
Bình đắng trước pháp luật được coi là một nguyên tắc Hiến định, không chỉ thể hiện
trong Hiến pháp các quốc gia mà còn được cụ thể hóa trong các lĩnh vực cụ thể của
quan hệ pháp luật.
Tơn giáo, tín ngưỡng
Trong Bình luận chung số 22 về Quyền tự do tư tưởng, tín ngưởng hoặc tơn
giáo (Điều 18) có nêu: “Điều 18 bảo vệ cá những niềm tin hữu thần và vơ thần". Các
thuật ngữ “tín ngưỡng” và “tơn giáo” cần được phân tích theo nghĩa rộng. Điều 18
không chỉ áp dụng đối với những tôn giáo lâu đời hoặc những tơn giáo có tính chất
thể chế, mà cịn với những tín ngưỡng hoặc những tập tục truyền thống tương tự như
11
tín ngưỡng [309]. Khái niệm “tơn giáo” được nhăc tới trong luận văn cũng cân được
hiểu theo nghĩa rộng như vậy.
Bình đẳng tơn giáo
Khơng phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ
một cách bình đẳng mà khơng có bất cứ sự phân biệt nào là quy định tạo nên cơ sở
và nguyên tắc chung trong việc bảo vệ quyền con người. Do đó, bình đẳng tơn giáo
bảo đám các tơn giáo, tín ngưỡng khác nhau không phải chịu sự phân biệt đối xử
dựa trên đức tin, được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Bình đẳng tơn giáo trái ngược với kỳ thị tôn giáo hay phân biệt đối xử tôn giáo.
Kỳ thị tôn giáo là việc một người hoặc một nhóm người theo các tơn giáo, giáo phái
hoặc phi tơn giáo khác nhau bị đối xử thiếu thiện chí do chính niềm tin chân thành
của họ. Đoạn 2 Điều 2 Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về xóa bỏ mọi hình thức khơng
khoan dung và phân biệt đối xử dựa trên tơn giáo hoặc tín ngưởng nãm 1981 giải
thích phạm vi cách hiểu “sự không khoan dung” và “phân biệt đối xử” dựa trên cơ sở
tơn giáo hay tín ngưỡng [181, 55].
Như đã phân tích ở phần lời mở đầu, vấn đề bình đẳng tơn giáo khơng chỉ được
ra đối với những tôn giáo đã tồn tại lâu đời, được thừa nhận; mà cịn đặt ra với các
nhóm tơn giáo nhỏ, chưa được thừa nhận. Dựa trên những thực tiễn về quản lý Nhà
nước, dư luận xã hội, thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của các nhóm tơn
giáo nhỏ, chúng tơi lựa chọn tập trung chủ yếu vào phân tích khía cạnh bảo đảm bình
đẳng đối với nhóm tơn giáo thiểu số.
1.1.2. Nhóm tơn giáo thiểu sấ
Nhóm thiểu sắ
Trong tờ thơng tin số 18 (Rev. 1) được xuất bản năm 1998, Văn phòng Cao ủy
Nhân quyền Liên Họp Quốc tun bố: “Khơng có câu trả lời chắc chắn nào được tìm
thấy và khơng có định nghía phô quát thỏa đảng nào về thuật ngữ “thiểu số” được
chứng minh là có thê chấp nhận được" [273]. Từ năm 1995 đến 2006, một Nhóm
cơng tác đặc biệt của Liên hợp quốc về Người thiểu số thuộc Tiểu ban Phòng chống
Phân biệt đối xử và Bảo vệ Người thiểu số đã đi vào hoạt động, nghiên cứu và báo
12
cáo các kết quả về “nhóm thiểu số” trong thực tế.
Không chỉ Liên Hợp Quốc, những nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau cũng nỗ lực đưa ra nhiều cách hiểu về “nhóm thiểu số”. Ở góc độ của xã hội
học, thiểu số có nghĩa là “cấp dưới”, cịn đa số thường được nhắc đến với hàm nghĩa
“thống trị”. Nhóm thiểu số là những “nhóm cấp dưới” mà các thành viên trong nhóm
có quyền kiểm sốt hoặc quyền lực ít hơn đáng kể so với các thành viên của “nhóm
thống trị” (hay nhóm đa số) trong xã hội [284].
Đến năm 1977, Báo cáo viên đặc biệt của Tiểu ban về chống phân biệt đối xử
và bảo vệ người thiều số của Liên Hợp Quốc - Francesco Capotorti đã nêu ra định
nghĩa “nhóm thiểu số” trong Báo cáo nghiên cứu của mình.
Từ những tài liệu nghiên cứu và quan điểm của các chuyên gia, có thể xác định
“nhóm thiểu số” có những đặc trưng sau:
(1) “Nhóm thiểu số” được hiểu là những nhóm người thiểu số về sắc tộc, tơn
giáo và ngơn ngữ. Những nhóm người này do có những đặc điểm về sắc tộc, tôn giáo
và ngôn ngữ, và các yếu tố khác nên được công nhận là người thiểu số;
(2) về mặt số lượng: Có số lượng ít hơn so với nhóm đa số cùng sinh sống xét
trên một lãnh thổ, quốc gia;
(3) về vị thế xã hội: Là nhóm yếu thế trong xã hội (chính trị, kinh tế, xã hội ở
lãnh thố nơi họ sinh sống) mà quyền của họ dễ bị xâm phạm hoặc bị bỏ quên;
(4) về bản sắc: Có những đặc điểm riêng về mặt chúng tộc, dân tộc, ngôn ngữ,
phong tục tập quán,... mà vì thế có thể phân biệt họ với nhóm đa số;
(5) về địa vị pháp lý: Có thể là cơng dân hoặc người nước ngồi đang sinh
sống, cư trú tại một quốc gia;
(6) về đặc điểm chủ quan: Thành viên cùa cộng đồng ấy phải có ý thứ tự giác
bảo tồn những đặc trưng văn hóa của mình, có ý thức mình là thành viên của cộng
đồng ấy.
“Nhóm tơn giáo thiếu số” irons lịch sử - một khái niêm từng bi lãng qn
Ngược dịng lịch sử, chính các nhóm tôn giáo thiếu số đã mở đầu cho những
cuộc thảo luận về quyền của các nhóm thiểu số ở cấp độ quốc gia, khu vực và sau đó
13
là cấp độ quốc tế [223] [224]. Dầu được quan tâm từ lâu, các vấn đề liên quan tới
nhóm tơn giáo thiểu số bị coi là yếu tố không thể thương lượng của các hiệp ước hịa
bình (đặc biệt là các hiệp ước hịa bình mới nổi) do sự nhạy cảm về chính trị [223,
17]. Thơng qua việc rà sốt hệ thống pháp luật các cơ quan của Liên Hợp Quốc như
ủy ban Nhân quyền và các thủ tục xử lý vi phạm (Thủ tục 1235 và 1503), chúng tôi
nhận ra rằng: trong khi, các nhóm tơn giáo thiều số thường phải đối mặt với sự phân
biệt đối xử và ngược đãi với tư cách nhóm, thỉ hầu hết các trường hợp sẽ được giải
quyết dưới dạng quyền cá nhân (“cái ơ” quyền “tự do tơn giáo hoặc tín ngưỡng” theo
cách gọi cũa Nazila Ghanea - Giáo sư Luật Nhân quyền Quốc tế tại Đại học Oxford)
thay vi theo quyền của nhóm thiểu số [238].
Sự xuất hiện trở lại của thuật ngữ “nhóm tơn giáo thiếu số”
Hơn 30 năm sau khi thành lập, Liên Họp Quốc đà dần quan tâm trở lại khái
niệm “nhóm tơn giáo thiểu số”. Nãm 1967, Tiểu ban Phòng chống Phân biệt đối xử
và Bảo vệ Người thiểu số đã thông qua Nghị quyết n. 9 (XX) về bảo vệ các dân tộc
thiểu số, trong đó có nhắc tới tơn giáo thiểu số. Văn phịng Cao ủy Nhân quyền Liên
hợp quốc (OHCHR) đã sử dụng thuật ngữ “tôn giáo thiểu số” trong tài liệu “Quyền
của Người thiểu số: Các tiêu chuẩn và hướng dẫn thực hiện quốc tế, (HR/PƯB/10/3
2010)” [326]. Tại Phiên thứ bảy mươi lăm của Liên Hợp Quốc ngày 21 tháng 7 năm
2020, trong Mục 72 (b) chương trình nghị sự tạm thời (A/75/150): Thúc đẩy và bảo
vệ quyền con người: các câu hởi về quyền con người, bao gồm các phương pháp tiếp
cận thay thế để cải thiện việc thụ hưởng hiệu quả các quyền con người và các quyền
tự do cơ bản [236] có đề cập tới “nhóm tơn giáo thiểu số”. Trong Báo cáo của Báo
cáo viên Đặc biệt về các vấn đề thiểu số, Fernand de Varennes cũng nhắc tới khái
niệm “tôn giáo thiểu số”. Nghiên cứu chuyên đề về tầm quan trọng và phạm vi của
bốn loại thiểu số (quốc gia hoặc dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ), Báo cáo viên đặc biệt
xem xét lịch sử, cách tiếp cận và luật học về “tôn giáo thiểu số”. Quá trinh soạn thảo
Công ước Châu Âu về Bảo vệ Người thiểu số, ủy ban Dân chủ Châu Âu thông qua
luật đã đưa ra nhiều đề cập đến khái niệm tôn giáo thiểu số tại Điều 10 [204]. Vào
ngày 27 tháng 4 năm 2017, Hội đồng Nghị viện của Hội đồng Châu Âu đã thông qua
14
văn bản tạm thời của Nghị quyêt Bảo vệ quyên của cha mẹ và trẻ em thuộc các nhóm
tơn giáo thiểu số [209, 10]. Hiến chương Ả Rập về Nhân quyền có nhắc tới nhóm tơn
giáo thiểu số [211] tại Điều 37. Trung tâm Nghiên cứu Pew ở Washington, DC đã
công bố số liệu về số lượng người tị nạn đến Hoa Kỳ trong năm 2016. Hơn một phần
ba số người tị nạn được gắn nhãn “tôn giáo thiếu số ở nước họ”, trong đó 61 % là
người theo Cơ Đốc giáo [256].
Các cách hiêu vê “nhóm tơn giáo thiêu sơ” đã có và đê xt khái niệm
“nhóm tơn giáo thiểu số”
Cho tới nay, khái niệm “nhóm tơn giáo thiểu số” vẫn chưa được định nghĩa rõ
ràng trong các văn kiện quốc tế. Việc xác định đâu là “nhóm tơn giáo thiểu số” trở
nên quan trọng đề có thể nghiên cứu, đánh giá thế giới tôn giáo đầy phức tạp và đa
dạng như hiện nay. Sự cần thiết đó đã được nhấn mạnh trong “Đề xuất cụ thể về các
tiêu chuẩn tối thiểu cho người thiểu số ở EU” cho Nghị viện Châu Âu [207] do ủy
ban về Tự do Dân sự, Tư pháp và Nội vụ của ủy ban Châu Âu thực hiện.
Báo cáo viên đặc biệt Francesco Capotorti là người đầu tiên xem xét khái niệm
“thiểu số”. Năm 1979, ông đã cho ra đời một báo cáo mở rộng có tựa đề “Nghiên cứu
về Quyền của những người thuộc dân tộc thiều số, tôn giáo và ngôn ngữ”. Theo định
nghĩa của Capotorti, tôn giáo thiểu số “là một nhóm nhỏ hơn về số lượng so với phần
cịn lại của dân số trong quốc gia mà nhỏm đó đang tồn tại và sở hữu các đặc điếm
r
tôn giảo, khác với những nhóm dân sơ cịn lại” [192].
Năm 1985, nhiệm vụ nghiên cứu vê định nghĩa của người thiêu sô được giao
cho Jules Deschenes. Ơng giải thích rằng nhóm tơn giáo thiều số “là một nhóm cơng
dân chiếm ỉt hơn một nửa dân sổ của một quốc gia và ở vị trí khơng thống trị trong
qc gia đó, cỏ đặc diêm dân tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ khác với phân lớn dãn sỏ,
có ỷ thức đồn kết chặt chẽ với nhau bởi ỷ chí tập thể để tồn tại và mục đích của họ
là đạt được sự bình đẳng với nhóm đa số trên thực tế và trên luật pháp” [219, 4].
Năm 1994, trong Nhận xét chung n. 23, ủy ban Nhân quyền đã nêu: “Các
thuật ngữ được sử dụng trong Điều 27 chỉ ra rằng những người được bảo vệ là nhưng
r
2
người thuộc một nhóm và có chung một tôn giáo” [235]. Uy ban Nhân quyên đã thê
15
hiện quan điêm khác với Jules Deschenes ở chô: không u câu thành viên của nhóm
phải là cơng dân tại quốc gia đó. Đồng thời, “sự tồn tại của một nhóm thiêu số về dân
tộc, tơn giảo hay ngơn ngữ trong một quốc gia thành viên nào đó khơng phụ thuộc
vào quyết định của quốc gia đỏ mà phụ thuộc vào các yếu tố khách quan” [235, 5].
Trong tài liệu “Quyền của Người thiểu số: Các tiêu chuẩn và hướng dẫn thực
hiện quốc tế, (HR/PUB/10/3 2010)”, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc
đã sừ dụng khái niệm “nhóm tôn giáo thiểu số” bao gồm một loạt các cộng đồng tơn
giáo hoặc tín ngưỡng, truyền thống và phỉ truyền thống; cho dù cỏ được Nhà nước
công nhận hay không; bao gồm cá những nhóm tơn giáo, tín ngưỡng mới được thành
lập; có quy mỏ lớn hay nhỏ; đang tìm kiếm sự bảo vệ các quyền của họ theo tiêu
chuẩn về quyền của thiêu số. Những người không theo một tín ngưỡng nào, người vơ
thần cũng có thê thuộc nhỏm khi họ phải đối mặt với những thách thức, sự phân biệt
đối xử và cần được bảo vệ quyền của mình [277, 4].
Vào năm 2017, ủy ban Nghị viện Châu Âu về Quyền tự do Dân sự, Tư pháp
và Nội vụ đã giao cho một nhóm chuyên gia thực hiện một nghiên cứu luật Châu Âu
về thiểu số [193, 17]. Ỡ cấp độ khu vực, các chuyên gia đã tiến hành đánh giá, so
sánh các quốc gia và đưa ra kết luận: rất khó phân biệt giữa phân biệt đối xử dựa trên
lý do dân tộc thiểu số, ngôn ngữ thiểu số với phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo thiểu
số. Đôi khi, chúng bao hàm lẫn nhau (như việc bài Do Thái và Hồi giáo). Mặt khác,
luật pháp các quốc gia có truyền thống ủng hộ “tơn giáo đa số” [193, 76].
Năm 2018, Tòa án Nhân quyền Châu Âu (ECHR) đã áp dụng khái niệm “nhóm
tơn giáo thiều số” trong một số vụ việc gần đây, đặc biệt là hai trường hợp khác nhau
liên quan đến trẻ vị thành niên Hồi giáo ở Hy Lạp [242, 157]. Các cụm từ “tôn giáo
thiểu số” và “Hồi giáo thiểu số” được sử dụng gần như lần đầu tiên trong các phán
quyết của Tòa [267, 280].
Báo cáo viên đặc biệt Heiner Bielefeldt, trong báo cáo năm 2019 của minh
trước Đại hội đồng [308], đã chỉ ra rằng dân tộc thiểu số, tơn giáo hoặc ngơn ngữ là
bất kỳ nhóm người nào chiếm dưới một nửa dân số trong toàn bộ lãnh thổ của một
Quốc gia, có các thành viên chia sẻ các đặc điểm chung về văn hóa, tơn giáo hoặc
16
ngôn ngữ, hoặc sự kêt hợp của bât kỳ điêu nào trong sơ này và khơng có bât kỳ u
cầu nào về quốc tịch, cư trú, cơng nhận chính thức hoặc bất kỳ địa vị nào khác. Khái
niệm đó cơng nhận sự tồn tại của các nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo hoặc ngôn ngữ
là một thực tế khách quan và không phụ thuộc vào sự công nhận tới từ Nhà nước.
Diễn đàn về các vấn đề thiểu số đã gọi loại “tôn giáo thiểu số” là bao gồm một
loạt các ““cộng đồng tơn giáo hoặc tín ngưỡng”, bao gồm cả “những người không
theo đạo (non-believers), người vô thần (atheists), hay người theo thuyết bất khả tri
(agnostics)
Bằng cách so sánh các quan điểm, có thể rút ra điểm chung trong những định
nghĩa “nhóm tơn giáo thiểu số” đã được đề xuất. Hầu như tất cả đều xác định nhóm
tơn giáo thiểu số trên cơ sở tiêu chí khách quan (số lượng) và tiêu chí chủ quan (sự
yếu thế trong thực hiện quyền; mong muốn gìn giữ, bảo tồn tơn giáo của mình) [229,
44]. Các nhóm tơn giáo thiểu số hoặc tín ngưỡng được hiểu theo nghĩa rộng, bao trùm
nhiều hệ thống tơn giáo hoặc tín ngưỡng, bao gồm các tơn giáo mới thành lập và các
tín ngưỡng phi truyền thống, các thực hành tâm linh khác nhau, cũng như các cá nhân
phi tôn giáo.
Trong phạm vi luận văn, qua những phân tích, đánh giá quan điềm, học thuyết
của một số nhà nghiên cứu, chúng tôi đề xuất khái niệm “nhóm tơn giáo thiểu số”.
Cụ thể:
Thuật ngữ “nhóm tơn giáo thiểu so” bao gồm một loạt các cộng đồng tôn
giáo, được Nhà nước công nhận hoặc không công nhận, thường có quy mơ nhỏ,
có sự yếu thế hơn về quyền trong xã hội, dễ phải chịu sự phân biệt đối xử và phụ
thuộc. Do những đặc điểm riêng về tôn giáo, tín ngưỡng khiến nhóm có thể bị tách
biệt so với xã hội, các thành viên của nhóm có thể mong muốn bảo vệ quyền của
họ theo các tiêu chuẩn về quyền của thiểu số. Các nhóm tơn giáo thiểu số cũng có
thể là dãn tộc thiếu số hoặc ngơn ngữ thiểu sắ.
Những cách gọi khác nhau về “nhóm tơn giáo thiếu số”
Thực tiễn nghiên cứu cho thấy “tôn giáo thiếu số” thường được gọi bằng nhiều
thuật ngữ khác nhau: “tôn giáo mới”, “đạo lạ”, “tà đạo”,... Cụ thể:
17
• Tôn giáo phi truyên thông/không chinh thức
Đây là cách gọi được nhiều học giá Trung Quốc sử dụng. Với các học giả
Trung Quốc, có sự phân biệt rõ ràng giữa các nhóm tơn giáo được cơng nhận chính
thức từ Nhà nước (tơn giáo truyền thống) và các nhóm khơng chính thức (tơn giáo
phi truyền thống) [220, 12]. Thuật ngữ “xiejiao” (“giáo huấn dị đoan và tà ác”) đà
được sử dụng để phân biệt giữa các nhóm “khơng mong muốn” với “zongjiao” (“tơn
giáo ).
• Nhóm bất tn phuc/Nhóm ngồi lề/Nhóm tôn giáo “bồng bềnh ”,...
Nhà nghiên cứu người Pháp Franoise Champion đã chỉ ra trong bài tham luận
của mình: những thuật ngữ như nhóm “bất tn phục”, nhóm “ngồi lề”, nhóm hỗn
hợp “tạp chủng”,... đều được dùng để chỉ tơn giáo thiểu số. Điểm chung mà các khái
niệm này đều chỉ ra các tơn giáo đó là những "mảnh rời của những tôn giáo truyền
thống đã bị phân ra, không cịn thể hiện một nội dung tơn giáo, hay ít ra là thứ tôn
giáo được định nghĩa một cách cô điển ở Châu Âu”. Nếu theo khung phân loại Weber
- Troeltsch [306, 140] thì chúng sẽ được xếp vào phần loại hình giáo phái.
• Tơn giáo mới/Hiện tượng tơn giáo mới/Phong trào tôn giáo mới/Tân
giáo/Tân tôn giáo
“Tôn giáo mới” (New religion) là cách gọi được sử dụng phổ biến với các học
giả phương Tây. Những nghiên cứu công phu về tôn giáo mới đã được thực hiện:
“New religious movements: Challenge and response” của BR. Wilson, J. Cresswell
[199], “New Religions and the Theological Imagination in America” cùa Mary Farrell
[191], “The Old Believers and the New Religion” của Michael Chemiavsky [200],
“Perspective: Toward a Definition of “New Religion”” của Gordon Melton [265],...
“Tôn giáo mới” nhàm để chỉ nhừng nhóm tơn giáo, tín ngưỡng có sự khác biệt so với
tơn giáo đã có từ trước. Từ “mới” trong “tôn giáo mới” đã tạo nên khơng ít tranh luận
với nhiều cách hiểu khác nhau. “Mới” có thể do thời điểm xuất hiện của các nhóm
tơn giáo muộn hơn so với các tôn giáo lớn, lâu đời như Phật giáo, Hồi giáo, Do Thái
giáo [279],... Một số học giả khác lại cho rằng “mới” cần hiểu là thời gian xuất hiện
18
gân đây. Vê thời điêm nào được xác định ra thời điêm “mới” cho ra đời các “tôn giáo
mới” cũng xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau. Bryan Wilson cho rằng “tôn giáo mới”
là tôn giáo xuất hiện trong ba, bốn thập kỷ trở lại đây [184]; Barker xác định “tôn giáo
mới” xuất hiện khoảng những năm 1950 khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai năm
1945 [184]; George Chryssides thì cho rằng từ giữa thế kỷ 19 mới là thời điếm xác
định đúng [221, 5]; Oliver và Elijah Siegler thì cho rằng sự thành lập của Phong trào
Thánh ngày sau (Latter Day Saint movement) vào năm 1830 là dấu mốc [279] [226];
Tenrikyo thì cho rằng từ năm 1838 mới bắt đầu nảy sinh các “tôn giáo mới” [258],...
Ờ khu vực Đơng Á, ngồi “tơn giáo mới”, cách gọi là “tân giáo”, “tân tôn giáo” cũng
khá phồ biến tại Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông. Tại Việt Nam, các
tác giả khác như Trương Văn Chung, Đỗ Quang Hưng, Võ Minh Tuấn,... đều sử
dụng cách gọi “tôn giáo mới” trong nghiên cứu.
• Tà giáo/Tà đạo/Ma giáo/Cuằng giáo (Cult)
Từ “Đạo lạ” có nguồn gốc từ từ “tao” trong tiếng Trung Quốc, có nghĩa là con
đường. Ĩ Trung Quốc, nhà nghiên cứu Hy Văn giải thích: “Tà giảo cũng là một loại
của hiện tượng tơn giáo mới, nhưng nó là cực đoan, tàn ác” [96, 18].
Ớ Việt Nam, theo nhóm tác giả của Ban Dân vận Trung ương, thì khái niệm
“hiện tượng tôn giáo mới” được hiểu đồng nghĩa với các tên gọi “đạo lạ”, “giáo phái”,
“tạp giáo”, “tà giáo” [4, 8]. Năm 2014, Bộ Nội vụ từng đưa khái niệm về “tà đạo”
trong dự thảo Pháp lệnh sửa đối, bố sung một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn
giáo. Tuy nhiên, dự thảo này đã không được ban hành [122, 121]. Phó Giáo sư, Tiến
sĩ Đặng Văn Đoài, Hiệu trưởng trường Đại học An ninh Nhân dân, cho rằng “tó đạo
là một loại đạo lạ (so với tín ngưỡng, tơn giáo truyền thống) nhưng khuynh hướng
hoạt động mê tín dị đoan, phản văn hỏa, vi phạm pháp luật” [82, 20].
• Mơtsố cách gọi khác: Các giáo phái/Les sectes, các tôn giáo dung hợp, các
tôn giáo hon tạp,...
“Các giáo phái”/“Les sectes” được nhà xã hội học người Pháp J.p. Williame
sử dụng [83]. Trong khi đó tại Nga, các nhà nghiến cứu N.s. Capustin, D.M.
Ưgrinovic, R.A. Spaznhicop sử dụng cách gọi “các tôn giáo dung hợp”, hay “các tôn
19
giáo hỗn tạp” như V. Maliavin [300, 3]. Dù có sử dụng các thuật ngữ khác nhau, thỉ
hầu hết chúng đều cho thấy điểm chung là các tôn giáo hiện nay có xu thế nảy sinh
và phát triển “bên lề” những tôn giáo lớn được công nhận [327, 7]. Chúng đều là
những “mảnh rời tơn giáo” đã có sẵn, hay cịn gọi là các tơn giáo cũ, các tơn giáo chủ
lưu.
Có thể thấy, có rất nhiều cách gọi khác nhau về nhóm tơn giáo thiểu số. Thậm
chí, ngay trong cùng một khu vực cũng có những quan điềm trái chiều. Việc sử dụng
cách gọi nào cho phù hợp đóng vai trị quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá về
nhóm. Bởi lẽ, việc sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau, không thống nhất đề chỉ cùng
một sự vật, hiện tượng sẽ tạo nên sự rối rắm, thiếu nhất quán trong việc tiếp cận.
Thứ nhất, sử dụng thuật ngữ “tôn giáo mới” hay “tôn giáo phi truyền thống”
dễ dẫn tới những ác cảm tới từ dư luận xã hội đối với các nhóm tơn giáo thiểu số. Sử
dụng cách gọi “tơn giáo mới” tiện hình dung song khơng rành mạch và mơ hồ, bởi nó
trộn lẫn hai yếu tố: một bên là tập hợp các đặc điểm của nhừng phong trào nổi trội,
những tơn giáo đang nảy sinh; cịn một bên là các nhóm tơn giáo chưa từng thấy xuất
hiện trong lịch sử và cũng khó mà xếp chúng vào phần loại hình giáo phái nào. Cùng
với thời gian, sự lẫn lộn giữa “tính nổi trội” và tính “chưa từng thấy” được thể hiện rõ
ràng càng khiến việc phân chia theo “tơn giáo mới” trở nên khó khăn hơn. Mặt khác,
vẫn cịn nhiều tranh cãi về thời điếm đế một tơn giáo ra đời được coi là “mới”. Bản
thân George Chryssides cũng đà thừa nhận về sự “mơ hồ” này trong nghiên cứu của
mình [202].
Thứ hai, khi gọi nhóm là “tà giáo”, “cuồng giáo” (Cult) hay “giáo phái” (Les
sects), nội hàm và ngoại diên thuật ngữ này là chưa hợp lý, còn chung chung và chưa
phản ánh hết những đặc điểm. Cách gọi này cũng dễ tạo điều kiện cho sự phân biệt
đối xử. Từ “cult” mang sắc thái mỉa mai, châm biếm trong tiếng Anh. Các nhà xã hội
học sử dụng thuật ngữ này nhàm biểu thị rằng một nhóm tơn giáo có sự căng thẳng
với phần cịn lại của xã hội [184]. Thật khó đế nói một tơn giáo là đúng hay sai. Người
Nga nhìn nhà thờ Cơng giáo như là biểu hiện của “tà giáo”; trong khi tại các quốc gia
khác, trong đó có Việt Nam, các tín đồ Công giáo được tự do thực hiện quyền tôn
20
giáo, tín ngưỡng của mình. Từ thê kỷ XVII - XVIII, sử sách nước ta gọi đạo Datô
(một trong những tên gọi đạo Công giáo hay Thiên Chúa giáo) là “tà đạo Tây Dương”
rất ngưy hiểm, làm “sai lạc lòng người” vì nó đối chọi với đạo Nho (chính đạo) [83,
13]. Nhưng đến nay, điều đó khơng cịn đúng. Mặt khác, việc gắn tên “cuồng tín”
cho các nhóm tơn giáo thiểu số khiến dư luận xã hội dề hình dung tiêu cực; dẫn đến
những định kiến xã hội, căng thẳng, nghi ngờ, soi xét với niềm tin chân thành của các
tín đồ tơn giáo thiểu số [185, 29].
Thứ ha, cách gọi “nhóm ngồi lề”, “nhóm bồng bềnh”, “các tơn giáo hỗn tạp”,
“tôn giáo dung hợp”,... chủ yếu nhấn mạnh và sự khác biệt trong tố chức và nội dung
thực hành tôn giáo cùa tôn giáo thiểu số so với tôn giáo đa số. Cách gọi này chưa thấy
được nhừng sáng tạo riêng của các nhóm tơn giáo thiểu số, ưu điểm của các nhóm
tơn giáo thiếu số so với các tơn giáo đã ra đời trước đó.
Có thể thấy, mỗi cách gọi đều làm nổi bật những khía cạnh khác nhau của
nhóm tơn giáo nhở trong xã hội, nhưng cũng có nhừng hạn chế nhất định. Cách gọi
nhóm tơn giáo thiểu số mang lại sự khách quan, tránh dẫn đến ác cảm, tạo thiên kiến
trong quá trình nghiên cứu. Nhà nghiên cứu tôn giáo người Pháp Franoise Champion
cũng cho rằng nên sừ dụng thuận ngữ “nhóm tơn giáo thiều số” bởi đó là nhóm từ
đúng chủng loại, cho phép người nghiên cứu hình dung được tồn bộ các tơn giáo
nảy sinh trong thời gian gần đây trên thế giới.
1.1.3. Bảo đảm
Bảo đảm được đề cập tới trong phạm vi luận văn chính là nghĩa vụ đến từ Nhà
nước. Đe có thể thực hiện quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng; yêu cầu các quốc gia cần
tôn trọng và bảo đảm cho tất cả các tơn giáo, tín ngưỡng trong lãnh thố và phạm vi tài
phán của mình các quyền đà được công nhận trong các Công ước quốc tế mà khơng
có bất cứ sự phân biệt nào dựa trên yếu tố tơn giáo, tín ngưỡng. Điều này cịn nghiêm
cấm bất cứ sự phân biệt đối xử nào theo luật và bảo đảm quyền cho tất cả mọi người
được bảo vệ một cách hiệu quả, chống lại mọi sự phân biệt bằng bất cứ hình thức nào
dựa trên yếu tố tơn giáo, tín ngưỡng.
1.2. Đặc điểm của nhóm tơn giáo thiểu số
21
Từ khái niệm của “nhóm tơn giáo thiêu sơ”, chúng tơi đê xt các đặc điêm đê
nhận ra nhóm tơn giáo thiểu số dựa trên năm (05) tiêu chí: tiêu chí số luợng, tiêu chí
quyền lực, tiêu chí nhận dạng sự khác biệt, tiêu chí về quyền và tiêu chí tâm lý.
1.2.1. Tiêu chỉ số lượng
Số lượng thành viên của các nhóm tơn giáo thiểu số thường ít hơn so với các
nhóm tơn giáo khác trong xã hội do thời gian thành lập và phát triền muộn hơn so với
các tơn giáo lớn đã có lịch sử hình thành từ lâu đời. Tuy vậy, cũng khơng phủ nhận
được có những nhóm tơn giáo có số lượng lớn nhưng vẫn nằm trong nhóm tơn giáo
thiểu số do các tiêu chí khác (quyền lực, nhận dạng sự khác biệt, đảm bảo quyền ở
mức yếu thể so với các nhóm khác trong xà hội) sẽ được phân tích ở những mục tiếp
theo.
1.2.2. Tiêu chí quyền lực
Các nhóm tơn giáo thiểu số có khả năng ảnh hưởng tới cộng đồng kém hơn so
với các nhóm tơn giáo khác trong xã hội. Do số lượng thành viên ít hơn và thời điểm
thành lập chưa lâu, các nhóm tơn giáo thiều số thường sẽ phải đối mặt với những
thách thức về định kiến xã hội, ác cảm tới từ các đối tượng khác trong xã hội. Sự ảnh
hưởng của họ bị hạn chế, tiếng nói cũng dễ bị bỏ qua hơn so với các nhóm đối tượng
khác trong xã hội.
1.2.3. Tiêu chí nhận dạng khác biệt (về đặc điểm văn hóa, tơn giáo so với
đa số)
Đây là một trong những tiêu chí quan trọng và cũng dễ nhận ra nhất của nhóm
tơn giáo thiểu số. Các tơn giáo thiểu số có sự khác biệt về đặc điểm văn hóa, tơn giáo
so với các nhóm khác trong xã hội, nhất là với các tôn giáo chiếm đa số. Dầu có sự
gần gũi, tương đồng với các tơn giáo đa số; thì các nhóm tơn giáo thiểu số cũng có
những thay đổi, sáng tạo mới trong giáo lý, cách thực hành nghi lễ, tu tập, truyền
bá,... trong tôn giáo của mình. Các nhóm tơn giáo thiều số thường phân biệt rõ ràng
hơn nhiều so với các tôn giáo đa số giữa đúng và sai, tốt và xấu, cũng như giữa “chúng
ta” và “họ”.
1.2.4. Tiêu chí về quyền
22
Báo cáo viên đặc biệt vê tôn giáo từng lưu ý răng "sự phân biệt đôi xử trong
bối cảnh quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng khơng chỉ giới hạn ớ các thành viên của
các nhóm tơn giáo thiểu số hoặc những người khơng theo đạo, mà cũng có thể xảy ra
đối với các thành viên của các nhóm đa số tôn giáo” [248]. Tuy nhiên, đối với những
người thuộc nhóm tơn giáo thiểu số, sự phân biệt đối xử thường diễn ra với mức độ
thường xuyên hơn. Sự thiệt thòi về quyền của họ được thể hiện trong việc tiếp cận
các dịch vụ, nguồn lực và cơ hội thiết yếu. Một số thống kê cho thấy, khi nhắc tới các
tội khùng bố, xâm phạm đến an ninh quốc gia [234], người ta thường dễ dàng kết
luận do những nhóm tơn giáo thiểu số thực hiện. Nhóm tơn giáo thiều số dễ gặp phải
sự đối xử bất binh đẳng xuất phát từ sự yếu thế cả về số lượng lẫn quyền lực của nhóm
trong xã hội. Và sự bất bình đẳng đó dù được biểu hiện rõ rệt hay khơng, cũng đều
đáng được quan tâm và bảo vệ.
Mặt khác, các thành viên của nhóm tơn giáo thiếu số, đồng thời cũng có thể là
thành viên của dân tộc thiểu số hay ngôn ngừ thiểu số [287]. Điều này khiến sự yếu
thế về quyền trở nên rõ rệt hơn rất nhiều. Trong trường họp này, việc bảo vệ quyền
của nhóm khơng chỉ là vấn đề tự do tơn giáo, tín ngưỡng mà là vấn đề bảo vệ theo
nghĩa rộng hơn, bao gồm cả ngơn ngữ và dân tộc [240].
1.2.5. Tiêu chí về tâm lý
Các nhóm thiểu số tơn giáo, dân tộc hayngơn ngữ đều có những đặc điểm thể
chất hoặc văn hóa khác biệt với nhóm thống trị trong xã hội. Dễ nhận thấy, các nhóm
tơn giáo thiểu số có tinh thần đồn kết nhóm mạnh mẽ, sự kết nối giữa các thành viên
tương đối chặt chẽ. William Graham Sumner trong phân tích của mình đã nhấn mạnh
rằng các tín đồ ln có sự phân biệt giữa các thành viên trong nhóm (người thuộc
nhóm) và những người khác (người ngồi nhóm). Do đó, các thành viên nhóm thiểu số
phát triển một tinh thần đặc biệt, trong họ phát sinh suy nghĩ “tơi là một trong số họ”
[298]. Đó là lý do mà các nhóm tơn giáo thiểu số thường có các hỉnh thức vừa liên
kết vừa khống chế các thành viên rất ngặt nghèo như nhóm Aum Shinrikyo ở Nhật
Bản, giáo phái Đền Mặt Trời ở Châu Âu (nhóm OTS - Organisation du Temple
Solaire),.... Người cầm đầu các nhóm này thường là kẻ có tâm lý phức tạp (theo
23
phân tâm học là “nhiêu ân ức”), hay thuyêt giảng vê Mạt thê luận (eschathologie)
hoặc Cứu thế (demensiton messianique), có khi đưa tới các vụ tự sát tập thể.
1.3. Nguyên nhân nảy sinh tôn giáo thiểu số
1.3.1. Sự bất ổn về kinh tế, chinh trị, xu hướng chuyển dịch từ xã hội hiện
đại sang hậu hiện đại và sự đố vỡ về văn hóa
Sự bất ổn về kinh tế, chính trị đã làm cho nhiều người rơi vào tình trạng quẫn
bách, tuyệt vọng. Những khủng hoảng trong đời sống hiện thực dẫn đến sự khủng
hoảng trong đời sống tinh thần, dẫn đến những “khoảng trống tâm linh” [319]. Người
ta khao khát tìm kiếm sự ổn định, đặc biệt là sự yên ổn về tinh thần, mà theo cách gọi
tôn giáo là “an ninh tinh thần”. Tôn giáo thiểu số ra đời và tồn tại để lấp đầy khoảng
trống đó.
Sự chuyển dịch xã hội hiện đại sang hậu hiện đại làm thay đối cách nhìn về
thế giới, cách hiểu về thực tại và chân lý, và cách tiếp cận những vấn đề cơ bản của
đời sống. “Sự mở rộng tâm linh đối với nhừng khả thể trải nghiệm chủ quan” chính
là đặc điểm cốt lõi. Con người hậu - hiện đại khao khát đi tìm sự thật và ý nghĩa theo
cách riêng, và có xu hướng trở thành “quyền uy cho chính mình”, chỉ chấp nhận những
gì do chính mình trải nghiệm. Xu hướng “đi tìm niềm tin đích thực hơn” dẫn tới “tính
tâm linh được thể nghiệm” (experiental spirituality) cho ra đời nhiều hình thức tơn
giáo mới lạ. Các phong trào Giáo hội độc lập châu Phi (African Independent
Churches), Công giáo Dân tộc Mỹ La tinh (Latin American folk Catholic
movements), các Giáo hội Ngũ tuần (Pentecostal churches), các phong trào Thiên
niên (Millennial movements), những nhà tiên tri và Đấng Cứu Thế mới xuất hiện là
minh chứng rõ ràng cho sự tuyệt vọng đang kiếm tìm tự do trong điều kiện sống khó
khăn [74].
1.3.2. Xu hướng tồn cầu hóa, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật
Tơn giáo có tác động tới tồn càu hóa, khoa học - kỹ thuật, cơng nghệ. Và
chính tơn giáo cũng chịu tác động ngược lại. Các tổ chức tôn giáo xuyên quốc gia
như Hiệp hội Quốc tế về Ý thức Krishna (ISKCON), Giáo hội Khoa học, Pháp Luân
Công, Thanh Hải Vô Thượng Sư,... xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới.
24