Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.03 KB, 18 trang )

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Bài tập lớn học kỳ


Vấn đề 1: Thông tin trong giao kết hợp đồng
Câu 1: Theo Tồ án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất
chuyển nhượng khơng?
Trả lời:
Theo Tịa án, bên bán có nghĩa vụ phải cung cấp cho bên mua về lô đất chuyển
nhượng.
Điều này được thể hiện qua đoạn: “Tuy nhiên diện tích đất mà vợ chồng ông Thành
bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn theo quy định 64 của Chính phủ và đã có thơng
báo thu hồi đất nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc vợ chồng ông Thành không cung cấp
rõ thông tin về lô đất.”
Câu 2: Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng khơng? Vì sao?
Trả lời:
Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung cấp thơng
tin về lơ đất chuyển nhượng.
Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp một bên có
thơng tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thơng báo
cho bên kia biết”. Đối với hoàn cảnh trong vụ án đang nghiên cứu thì bên bán (vợ chồng
ơng Thành) có thơng tin lơ đất này là đất vườn theo Nghị định 64 của Chính phủ, hơn nữa
lơ đất này cũng khơng thuộc quyền sở hữu của mình. Thơng tin này vô cùng quan trọng và
cần thiết đối với việc quyết định chấp nhận giao kết hợp đồng của bên mua (vợ chồng ông
Linh), nên buộc bên bán phải cung cấp thông tin lô đất chuyển nhượng cho bên mua biết.
Câu 3: Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vơ hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục khơng? Vì sao?
Trả lời:
Việc Tồ án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là không thuyết phục.


Giải thích: Tồ án đã xác định vợ chồng ơng Thành buộc phải biết và đương nhiên phải
biết toàn bộ diện tích đất mua bán với vợ chồng ơng Linh là thuộc đất nông nghiệp cấp
theo Nghị định 64 và đã được thông báo nằm trong quy hoạch giải toả, đồng thời đất này


không đứng tên vợ chồng ông Thành nhưng ông Thành đã cung cấp thông tin sai dẫn đến
việc vợ chồng ông Linh nhầm lẫn mà xác lập giao dịch. Như vậy, ông Thành đã cố ý làm
cho ông Linh nhầm lẫn về nội dung của giao dịch, nên theo quy định tại Điều 131 BLDS
2005: “…Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.” Do đó, Tồ án
phải giải quyết theo hướng của Điều 132 BLDS 2005 là giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa
dối mới hợp lý.

Câu 4: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo hướng
giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn khơng? Vì sao?
Trả lời:
Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo hướng giao
dịch chuyển nhượng vơ hiệu do nhầm lẫn.
Vì hồn cảnh trên thuộc quy định tại khoản 1 Điều 126 BLDS 2015. Theo đó, giao dịch
dân sự này được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho bên mua là vợ chồng ơng Linh khơng đạt
được mục đích của việc xác lập giao dịch thì vợ chồng ơng Linh có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch dân sự vơ hiệu. Đồng thời, tuy vợ chồng ơng Thành có lỗi cố ý nhưng
BLDS 2015 khơng cịn quy định rõ là: lỗi cố ý thì khơng áp dụng nhầm lẫn như BLDS
2005 nữa. Do đó, giao dịch chuyển nhượng trên có thể được xử lý theo hướng vơ hiệu do
nhầm lẫn.

Vấn đề 2: Hậu quả hợp đồng vô hiệu
Câu 1: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
Trả lời:
Theo nhóm em, về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015 có

một số sự thay đổi sau:
- Về hoa lợi, lợi tức:
+ Theo quy định tại khoản 2 Điều 137 BLDS 2005 “Khi giao dịch dân sự vô hiệu
thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu


khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải hồn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản
giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây
thiệt hại phải bồi thường” thì hoa lợi, lợi tức là vấn đề của khơi phục lại tình trạng ban
đầu.
+ Điều 131 BLDS 2015 đã tách vấn đề hoa lợi, lợi tức ra khỏi quy định về khơi
phục lại tình trạng ban đầu, cụ thể vấn đề hoa lợi, lợi tức quy định ở khoản 3 “Bên ngay
tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”, quy định về
khơi phục lại tình trạng ban đầu ở khoản 2 “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khơi
phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận”.
 Theo BLDS 2005, “hoa lợi, lợi tức” là vấn đề của “khôi phục lại tình trạng ban đầu”.
Tuy nhiên ở thời điểm trước khi giao dịch được xác lập thì hoa lợi, lợi tức chưa tồn tại nên
nếu buộc bên nhận tài sản (như bên mua, bên được tặng cho) làm phát sinh hoa lợi, lợi tức
trả cho bên giao tài sản (như bên bán, bên tặng cho) thì sẽ dẫn đến tình trạng bên giao tài
sản được nhận những thứ khơng có ở tình trạng ban đầu. Do vậy, BLDS 2015 đã khắc
phục được hạn chế, sai sót đó khi tách vấn đề “hoa lợi, lợi tức” là đối tượng của hợp đồng
vô hiệu ra khỏi quy định về khôi phục lại tình trạng ban đầu ra thành một khoản riêng.
Khoản 3 Điều 3 BLDS 2015 quy định thêm việc hoàn trả hoa lợi, lợi tức phụ thuộc vào
sự ngay tình hay khơng ngay tình của người nhận tài sản. Điều này là thống nhất với quy
định về hoàn trả tài sản do chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật quy định tại Điều 581
BLDS 2015. BLDS 2005 quy định về số phận của hoa lợi, lợi tức khi giao dịch dân sự vô
hiệu không thống nhất với Điều 601 BLDS 2005 (được duy trì trong BLDS 2015). Do đó,
BLDS 2015 đã giải quyết được bất cập trên.
- Về tịch thu tài sản:
+ BLDS 2015 đã bỏ quy định tịch thu tài sản, hoa lợi, lợi tức được quy định tại

khoản 2 Điều 137 với lý do tịch thu là vấn đề của pháp luật hành chính, hình sự, khơng là
việc của BLDS.
+ Tại Điều 131 BLDS 2015 bổ sung thêm khoản 5: “Việc giải quyết hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định”. Bổ sung thêm khoản 5 này chủ yếu được lý giải bởi các quy định trong
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.


 Bổ sung này là phù hợp với những quy định pháp luật có liên quan.
- Về bảo vệ người thứ ba ngay tình:
+ Khoản 1 Điều 138 BLDS 2005 sử dụng cụm từ “tài sản giao dịch là động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu”, khoản 1 Điều 133 BLDS 2015 thay thế bằng từ “tài
sản không phải đăng ký”. Tương tự, tại khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 sử dụng cụm từ
“tài sản phải đăng ký” thay cho cụm từ “bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký
quyền sở hữu”. Sở dĩ có sự thay đổi này là vì có những tài sản phải đăng ký nhưng khơng
phải đăng ký quyền sở hữu và ví dụ được đưa ra là đăng ký xe máy (chỉ là đăng ký lưu
thông).
+ Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 chia thành hai trường hợp xác định hiệu lực của
giao dịch dân sự với người thứ ba ngay tình dựa vào việc tài sản đã được đăng ký với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hay chưa.
- Về bảo vệ chủ sở hữu:
BLDS 2015 đã thêm quy định về bảo vệ quyền của chủ sở hữu khi tài sản đã được
chuyển giao cho người thứ ba ngay tình bằng một giao dịch dân sự được thừa nhận có hiệu
lực tại khoản 3 Điều 133 “Chủ sở hữu khơng có quyền địi lại tài sản từ người thứ ba ngay
tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều
này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập
với người thứ ba phải hồn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại”.
Câu 2: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Toà giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Trả lời:

Trong Quyết định số 319, Toà giám đốc thẩm xác định hai bên là vợ chồng ông Đào
Văn Lộc và ơng Trịnh Văn Vinh đều có lỗi.
Vì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lộc với ông Vinh
không được chính quyền địa phương cho phép chuyển nhượng. Đồng thời, ông Vinh mới
trả cho ông Lộc được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thừa đất 100.000.000 đồng tức là


mới trả 45% giá trị thửa đất. Do vậy, Toà giám đốc thẩm đã xác định hai bên cùng có lỗi
trong vụ việc này.

Câu 3: Quyết định số 319, Toà dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?
Trả lời:
Trong Quyết định số 319, Toà dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như sau:
- Theo Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm, ông Vinh sẽ được bồi thường thiệt
hại là ½ giá trị của toàn bộ thửa đất theo giá thị trường.
- Theo Tồ giám đốc thẩm, ơng Vinh sẽ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá
của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tồ dân sự.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tịa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm là khơng thuyết phục,
cịn đối với hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm là thuyết phục. Bởi lẽ Tòa án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm đã xác định mức bồi thường thiệt hại ½ giá trị của toàn bộ thửa đất
theo giá thị trường là khơng đúng. Vì trong trong trường hợp này thiệt hại được xác định
bằng chênh lệch giá theo tỉ lệ thanh tốn chứ khơng phải xác định trên tồn bộ lơ đất, bên
mua đã thanh tốn 45% giá trị lô đất nên thiệt hại chỉ được xác định thiệt hại là chênh lệch
giá của 45% giá trị lô đất. Do đó, hướng giải quyết theo Tồ giám đốc thẩm là hợp lý.
Câu 5: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:

Với các thơng tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền là
½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường, cụ thể là 52.548.750 đồng
Khoản tiền này được tính như sau:
- Giá thị trường của mảnh đất 953m2 là 333.550.000 đồng
- Giá chênh lệch của giá trị thửa đất hiện nay là:
333.550.000 – 100.000.000 = 233.550.000 đồng


- ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường là:
233.550.000 x 45% x ½ = 52.548.750 đồng
Câu 6: Trong Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy sau khi nhận chuyển nhượng của
ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu (giao dịch thứ nhất), anh Long đã chuyển nhượng đất
(giao dịch thứ hai) Doanh nghiệp Tấn Hưng?
Trả lời:
Trong Quyết định số 58, đoạn cho thấy sau khi nhận chuyển nhượng của ông Khải, bà
Linh, bà Ngẫu (giao dịch thứ nhất), anh Long đã chuyển nhượng đất (giao dịch thứ hai)
Doanh nghiệp Tấn Hưng là: “Ngày 09-4-1991, mặc dù khơng có mặt ơng Nhơn và khơng
có ý kiến của ông Nhơn nhưng ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu làm giấy sang nhượng quyền
phần đất thổ cư của ông Nhơn cho ông Long với giá 1.600.000 đồng (giấy có xác nhận
của tự quản ấp). Vì vậy, Tồ án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu với ông Long vô hiệu, nhưng do ông Long
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng nhà kho và đã chuyển nhượng
tồn bộ diện tích đất nêu trên (trong đó có cả diện tích của ơng Long) cho Doanh nghiệp
Tư nhân Tấn Hưng, nên Toà án cấp phúc thẩm buộc các bên những người xâm phạm
quyền lợi của ông Nhơn phải trả giá trị cho ông Nhơn là có căn cứ và phù hợp với thực
tế.”
Câu 7: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy anh Long đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sau khi chuyển nhượng từ ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu?
Trả lời:
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy anh Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất sau khi chuyển nhượng từ ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu là: “Ngày 09-41991, mặc dù không có mặt ơng Nhơn và khơng có ý kiến của ông Nhơn nhưng ông Khải,
bà Linh, bà Ngẫu làm giấy sang nhượng phần đất thổ cư của ông Nhơn cho ông Long với
giá 1.600.000 đồng (giấy có xác nhận của tự quản ấp). Vì vậy Tịa án phúc thẩm xác định
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu với ông
Long vô hiệu, nhưng do ông Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây
dựng nhà kho...”.
Câu 8: Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy giao dịch thứ nhất vô hiệu?
Trả lời:


Đoạn của quyết định số 58 cho thấy giao dịch thứ nhất vô hiệu là: “Ngày 09-41991, ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu lập giấy tay sang nhượng phần đất nêu trên cho anh
Lê Thanh Long với giá 1.600.000 đồng (giấy có xác nhận của tự quản ấp). Như vậy, giao
dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu
với anh Long vi phạm điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 122 Bộ luật dân sự nên bị vô hiệu
theo Điều 128, Điều 134 Bộ luật dân sự.”
Câu 9: Trong quyết định số 58, Tòa dân sự cho biết giao dịch dân sự thứ hai vô hiệu
hay không?
Trả lời: Trong quyết định 58:
- Đối với Tòa sơ thẩm và phúc thẩm không cho biết giao dịch thứ hai là vơ hiệu. Vì
hai Tồ khơng hề đề cập đến giao dịch thứ hai.
- Đối với Toà giám đốc thẩm đã cho biết giao dịch thứ 2 là vô hiệu bằng việc xác
định lỗi của ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu và anh Long để bồi thường cho Doanh ngiệp Tư
nhân Tấn Hưng theo quy định của pháp luật.

Câu 10: Theo anh/chị, giao dịch thứ hai trên có vơ hiệu khơng?
Trả lời:
Theo nhóm em, tuỳ thuộc vào việc áp dụng BLDS 2005 hay BLDS 2015 mà giao
dịch thứ hai có bị vơ hiệu hay khơng.
- Nếu áp dụng BLDS 2005 thì giao dịch thứ hai bị vô hiệu, căn cứ theo quy định tại Khoản
2 Điều 138 BLDS 2005: “Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là

động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho
người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vơ hiệu, trừ trường hợp người thứ
ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà
theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng
sau đó người này khơng phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.”
Trong tình huống này, Doanh nghiệp Tấn Hưng tuy ngay tình nhưng khơng nhận được tài
sản thơng qua các hình thức do luật định, nên giao dịch giữa anh Long và Doanh nghiệp
xem như vô hiệu.


- Nếu áp dụng BLDS 2015 thì giao dịch thứ hai không bị vô hiệu, căn cứ theo quy định tại
Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã
được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một
giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký
đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó khơng bị vơ hiệu.” Như vậy, giao dịch
giữa anh Long và Doanh nghiệp Tấn Hưng thoả các điều kiện trên nên không bị vô hiệu.

Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn
Câu 1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Thông tư 28/2012/TT-NHNN Quy định về bảo
lãnh ngân hàng thì: “Thời hạn bảo lãnh được xác định từ ngày phát hành bảo lãnh hoặc
khi bảo lãnh có hiệu lực theo thỏa thuận của bên bảo lãnh với các bên liên quan cho đến
thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam kết
bảo lãnh không ghi cụ thể thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh thì thời điểm hết hiệu lực
của bảo lãnh được xác định tại thời điểm nghĩa vụ bảo lãnh hết hiệu lực theo quy định tại
Điều 21 của Thơng tư này.”
Trong tình huống tại Quyết định số 18/2014/KDTM-GĐT, thư bảo lãnh của Ngân hàng
có thời hạn từ ngày 20/12/2010 đến ngày 10/3/2011.
Câu 2: Nghĩa vụ của Công ty Hồng Quang đối với VNP1 có phát sinh trong thời hạn

bảo lãnh của Ngân hàng không?
Trả lời:
Nghĩa vụ của Công ty Hồng Quang đối với VNP1 có phát sinh trong thời hạn bảo lãnh
của Ngân hàng.
Đoạn của Quyết định cho thấy câu trả lời là:
“Về hiệu lực của Thư bảo lãnh số 1500VSB201220102 ngày 20/12/2010 của Ngân
hàng: Nghĩa vụ trả nợ của Công ty Hồng Quang đối với VNP1 phát sinh từ giao dịch được
giao kết trong thời hạn từ ngày 20/12/2010 đến ngày 10/3/2011, là thời hạn Thư bảo lãnh
có hiệu lực nên người bảo lãnh là Ngân hàng phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh khi Công ty Hồng Quang không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”


Câu 3: Theo Viện kiểm sát, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay thì
Thư bảo lãnh cịn ràng buộc Ngân hàng khơng? Vì sao?
Trả lời:
Theo Viện kiểm sát, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay thì Thư bảo
lãnh vẫn cịn ràng buộc Ngân hàng.
Đoạn của Quyết định cho thấy câu trả lời là:
“Kháng nghị cho rằng, ngày 12/12/2011, VNPT khởi kiện yêu cầu Ngân hàng trả nợ
thay Cơng ty Hồng Quang thì Thư bảo lãnh khơng cịn hiệu lực theo quy định tại khoản 4
Điều 20 Quy chế bảo lãnh (Ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày
26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) là không đúng.”
Câu 4: Theo Tồ án nhân dân tối cao, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ
thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có cịn trách nhiệm với người
bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có câu trả lời?
Trả lời:
Theo Tồ án nhân dân tối cao, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay sau
khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn cịn trách nhiệm của người bảo lãnh.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời là: “Như vậy, về khoản nợ giữa VNP1 và công ty
Hồng Quang chưa có sự thống nhất cho nên phía Ngân hàng chưa đồng ý thực hiện nghĩa

vụ thay là có căn cứ. Ở đây, Ngân hàng không chối bỏ nghĩa vụ bảo lãnh của mình mà chỉ
đề nghị VNP1 và Cơng ty Hồng Quang thống nhất với nhau về khoản nợ, sau khi hai bên
thống nhất với nhau khoản nợ thì phía Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình. Mặt
khác, người được bảo lãnh là Công ty Hồng Quang cũng đã đề nghị Ngân hàng (bên bảo
lãnh) chưa thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình vì giữa Cơng ty Hồng Quang và VNP1
chưa thống nhất được với nhau về công nợ.”
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao.
Trả lời:
Theo nhóm em, hướng giải quyết trên của Tồ án là thuyết phục. Vì ở đây, tuy hết thời
hạn bảo lãnh VNP1 mới khởi kiện nhưng nghĩa vụ trả nợ của Công ty Hồng Quang đối với
VNP1 đã phát sinh trong thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng. Đồng thời, VNP1 đã nhiều lần
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo Thư bảo lãnh nhưng do VNP1 và Công ty Hồng Quang


chưa thống nhất được với nhau về số tiền còn nợ nên Ngân hàng khơng thực hiện nghĩa vụ.
Do đó, hướng giải quyết trên của Toà án đã bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
VNP1.

Vấn đề 4: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Toà án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Trả lời:
Đoạn của Quyết định cho thấy Toà án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là:
“Theo quy định tại điều 627 Bộ luật dân sự năm 1995 (điều 623 Bộ luật dân sự năm
2005) thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng, nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi khơng có lỗi (trừ các trường hợp thiệt hại xảy
ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả
kháng hoặc tình thế cấp thiết…)”
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà án xác định đây là bồi thường thiệt hại do

nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trả lời:
Theo nhóm em, việc Toà án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra là hợp lý. Vì theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 có quy định: “Nguồn nguy
hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy
cơng nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ
và các nguồn nguy hiểm khác do pháp luật quy định…” và theo khoản 3 Điều 623 BLDS
2005 thì “chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường thiệt hại kể cả khi khơng có lỗi,..”.
Do đó, việc Tịa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra là hồn tồn hợp lý. Vì điện là một nguồn nguy hiểm cao độ - loại tài sản đặc biệt thơng qua nó con người có thể kinh doanh và thu lợi nhuận và có thể quản lý được. Vậy thì
những thiệt hại do nó gây nên thì chủ sở hữu, người chiếm giữ, phải bồi thường thiệt hại
đó cho dù họ khơng có lỗi.


Câu 3: Tồ dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
khơng?
Trả lời:
- Tồ án cấp sơ thẩm và Tồ án cấp phúc thẩm chỉ bác yêu cầu khởi kiện của anh Công
với lý do là anh Công khởi kiện không đúng đối tượng, mà khơng xác định chính xác bị
đơn trong vụ án – chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại.
- Toà giám đốc thẩm đã xác định được chủ sở hữu của đường dây điện hạ thế gây thiệt
hại là Công ty điện lực 2.
Câu 4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?
Trả lời:
Theo nhóm em, Cơng ty điện lực 2 là chủ sở hữu của đường dây hạ thế gây thiệt hại. Vì
đây là chủ thể ký hợp đồng bán điện cho bên quản lý, sử dụng là Tổ điện 4 thuộc ấp 3, xã
Tân Hưng, huyện Cái Bè.
Câu 5: Theo Toà dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân?

Trả lời:
- Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xác định ai là chủ thể sẽ chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân.
- Toà giám đốc thẩm xác định chủ thể sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân là chủ thể quản lý, sử dụng đường dây điện hạ thế - Tổ điện 4 thuộc ấp 3, xã
Tân Hưng, huyện Cái Bè.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Toà dân sự Toà án nhân dân tối
cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình
nạn nhân.
Trả lời:
Theo nhóm em, hướng xử lý trên của Tồ dân sự Toà án nhân dân tối cao liên quan đến
xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân là hợp lý. Vì
giữa Công ty Điện lực 2 và Tổ điện 4 đã ký với nhau hợp đồng, trong đó có quy định về
trách nhiệm quản lý, sử dụng điện của bên mua. Do đó, khi có vụ việc như trên xảy ra thì
Tổ điện 4 phải chịu hồn tồn trách nhiệm. Đồng thời, hướng xử lý của Toà dân sự Toà án


nhân dân tối cao cũng phù hợp với quy định tại Khoản 3 Điều 623 BLDS 2005: “Chủ sở
hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại ngay cả khi khơng có lỗi,…”

Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
Câu 1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết
theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.
Trả lời:
- Theo BLDS 2015 có quy định:
“Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm
phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác
để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của người bị thiệt hại, nếu khơng có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã
trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản
tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu khơng
thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm khơng quá một
trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
- Theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 có quy định:
“Điều 48: Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết


1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết.
2. Chi phí cho việc mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
3. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Tiền cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức lương tối thiểu, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo quyết định có hiệu lực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.”

Từ các quy định trên, ta thấy được những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường
khi một cá nhân chết là:
- Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 không đề cập đến bồi thường thiệt
hại về thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí hợp lý và
phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị
và các thiệt hại khác do Luật định.
- Bên cạnh đó, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 cũng không đề cập đến
việc bồi thường tổn thất về tinh thần cho những người thân thích của người bị thiệt hại.
 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 khơng đảm bảo được quyền và lợi ích

hợp pháp của người bị thiệt hại, người chăm sóc cho người bị thiệt hại và người thân thích
của người bị thiệt hại.
Câu 2: Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh khơng? Vì sao?
Trả lời:
Hồn cảnh như trong vụ việc trên không được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước điều chỉnh. Vì hồn cảnh như trên khơng được quy định tại phạm vi trách nhiệm bồi
thường trong hoạt động tố tụng của Nhà nước. Việc anh Kiều chết là trong quá trình điều
tra thẩm vấn giải quyết vụ án trộm cắp tài sản theo nghĩa vụ của các cán bộ trong cơ quan
điều tra trên. Đồng thời trong quá trình điều tra Thành là người thi hành cơng vụ, phụ trách
xét hỏi đối với anh Kiều, đã sử dụng vũ lực để làm cho anh Kiều khai báo về việc phạm


tội. Nhưng vì anh Kiều khơng khai báo đã sử dụng gậy cao su đánh lên đầu anh Kiều làm
anh bị chấn thương sọ não và tử vong. Theo đó có thể thấy trong vụ án này có:
- Hành vi vi phạm pháp luật do người thi hành công vụ gây ra là anh Thành đã dùng
nhục hình trong quá trình điều tra và gia đình anh Kiều có u cầu bồi thường thiệt hại.
- Có thiệt hại thực tế xảy ra là anh Kiều bị chấn thương sọ não và tử vong theo quy
định của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước về Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt
hại chết thì phải được bồi thường.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi gây thiệt hại:
hành vi dùng gậy cao su đánh vào đầu của anh Thành trong quá trình điều tra đã làm cho
anh Kiều tử vong. Ở đây có thiệt hại thực tế xảy ra là anh Kiều đã chết.
Do đó, có thể áp dụng Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước điều chỉnh trong
trường hợp này.
Cơ sở pháp lý: Điều 26, 27, 28 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009
“Điều 26. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
1. Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó khơng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

2. Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời
hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án,
quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó
khơng thực hiện hành vi phạm tội;
3. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình
phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự xác định người đó khơng thực hiện hành vi phạm tội;
4. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình
phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố


tụng hình sự xác định người đó khơng phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những
tội cịn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường
thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với
mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình
nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó khơng phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp
hình phạt của những tội cịn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt
hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của
những tội mà người đó phải chấp hành;
6. Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tồ án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó,
mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự xác định người đó khơng phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội cịn lại
ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại
tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình
phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
7. Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý
có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì được bồi
thường.”

Điều 27. Các trường hợp không được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự
1. Người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2. Cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội
thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm.
3. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án hoặc Tồ án quyết
định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình
phạt tù hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định
của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó khơng
phạm một hoặc một số tội nhưng khơng thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 5
và 6 Điều 26 của Luật này.


4. Người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
nhưng vụ án đã được đình chỉ do người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành
vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm.
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời
điểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật mà theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày
khởi tố, truy tố, xét xử đó họ khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 28. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến
hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính gây ra trong các trường hợp sau đây:
1. Tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
2. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá
nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu;
3. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
4. Ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án.”
Câu 3: Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,

hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án khơng? Vì sao.
Trả lời:
Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra khi BLDS 2015 có hiệu lực hướng giải
quyết sẽ khác với hướng giải quyết trong vụ án. Vì BLDS 2015 quy định tại Điều 598 về
Bồi thường thiệt hại do người thi hành cơng vụ gây ra: “Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định
của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.” Như vậy, khi có thiệt hại do người thi
hành cơng vụ gây ra thì áp dụng theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước
thì chủ thể bồi thường trong trường hợp này là Nhà nước và tiền bồi thường sẽ trích từ


Ngân sách nhà nước và sau đó những người trực tiếp thi hành công vụ làm chết anh Kiều
sẽ thực hiện nghĩa vụ hoản trả lại cho Nhà nước.



×