667
PHẦN THỨ BA
TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC,
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH: HIỆN THỰC HÓA
KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
PHỒN VINH, HẠNH PHÚC
668
669
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
TRONG THỜI GIAN TỚI
PGS.TS. VŨ VĂN PHÚC*
1. Nhiệm kỳ Đại hội XII, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW,
ngày 15/5/2016 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”. Những năm qua, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được triển khai sâu rộng cả trong Đảng và
trong toàn xã hội, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong nhận thức, ý thức rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chỉ thị
số 05-CT/TW khẳng định: đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của cơng tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Và cũng trong nhiệm kỳ XII,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị
quyết, chỉ thị, quy định về công tác cán bộ và về cán bộ như: Nghị quyết
Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đã nhận diện 27 biểu hiện suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
__________
* Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, nguyên Phó Trưởng
ban Tuyên giáo Trung ương.
670
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
trong nội bộ; Nghị quyết Trung ương 7 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về
kiểm sốt quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền;
đặc biệt là Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành
Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương,
trong đó, quy định chỉ rõ 8 nội dung các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải gương mẫu đi
đầu trong thực hiện; phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống;
đồng thời, yêu cầu cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu...
Mặc dù hệ thống văn bản quy định tương đối đầy đủ, chặt chẽ, sự vào cuộc
quyết liệt của hệ thống chính trị các cấp và sự tham gia tích cực của đơng đảo
các tầng lớp nhân dân, song việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; việc xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối
sống có lĩnh vực, địa bàn vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn, như:
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả cán bộ cao cấp chưa thường xuyên, chưa thành nền
nếp; một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là cán bộ cao cấp, nói
khơng đi đôi với làm, không tuân thủ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng,
lợi ích nhóm, bè phái, gây mất đồn kết nội bộ, chưa nêu cao ý thức và trách
nhiệm trước nhân dân... Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn diễn
biến phức tạp, tinh vi. Tự phê bình và phê bình có cấp, có nơi cịn hình thức.
Việc thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương ở một bộ phận cán bộ lãnh
đạo chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao, thậm chí có những cán bộ cao
cấp không nêu gương đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước dẫn đến phải kỷ luật đảng, thậm chí bị xử lý hình sự1.
Trong nhiều nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm, có nguyên nhân chủ
yếu là từ chủ nghĩa cá nhân - cái gốc của mọi vấn đề suy thoái về tư tưởng
__________
1. Qua các vụ án tham nhũng lớn gây bức xúc trong nhân dân, gần 100 cán bộ diện
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị kỷ luật và bị truy tố trước pháp luật, trong
đó có 21 Ủy viên Trung ương Đảng và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 2 Ủy viên Bộ
Chính trị, 22 sĩ quan cấp tướng trong Quân đội, Công an...
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
671
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ - là việc chưa thực sự hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân;
cán bộ lãnh đạo, quản lý, chưa thực sự nêu gương, làm không đi đơi với nói, làm
ít nói nhiều; kiểm sốt quyền lực chưa thực sự hiệu quả; nạn chạy chức, chạy
quyền diễn biến tinh vi, phức tạp; có nơi, có chỗ người đứng đầu chưa phát huy
hết trách nhiệm, chưa gương mẫu, còn né tránh, thiếu quyết liệt trong tổ chức
thực hiện, cịn bị lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình, lợi ích nhóm, cánh hẩu chi
phối, cơ hội chủ nghĩa, lo giữ ghế, vi phạm nguyên tắc tập trung, dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách... dẫn đến mất đồn kết nội bộ.
Đó chính là những thách thức lớn, những vấn đề đặt ra cho việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới;
là bài toán phải tập trung tìm lời giải để việc học tập và làm theo Bác đem
lại hiệu quả thực chất nhất bởi như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời
từng nhiều lần nhắc nhở: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”1, “muôn việc
thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”2.
2. Định hướng và các giải pháp triển khai việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong nhiệm kỳ Đại
hội XIII của Đảng
Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định bối cảnh
mới đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, khó lường, hơn bao giờ hết, Đảng ta phải
thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là đạo đức, là văn minh như Bác Hồ
mong muốn.
Một trong những giải pháp cấp bách lúc này là phải “học thật” và “làm
thật” theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và phải nâng lên một
tầm cao mới với quyết tâm chính trị cao, khơng chỉ u cầu về tự giác mà cịn
phải có quy định bắt buộc với chế tài đủ mạnh đối với cán bộ cao cấp.
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng
vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
cao cấp phải thực sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, tin dân, trọng dân,
hiểu dân, học dân, nghe dân làm cho mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
thực sự mật thiết, máu thịt; xây dựng Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh
__________
1, 2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.5, tr.309, 280.
672
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
như Bác Hồ căn dặn; củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, đối với Nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện có hiệu quả, làm tốt công tác đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy định của Đảng; thực hành dân chủ
gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng; kết hợp giữa giữ vững
kỷ luật, kỷ cương của Đảng với thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện có hiệu quả việc giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống; kiểm soát chặt chẽ việc kê khai tài
sản; việc thực hiện lời hứa... của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp,
nhất là cán bộ cao cấp, người đứng đầu.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí
với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn.
Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phịng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý
nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí và bao che, dung
túng, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại
lệ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nhân dân;
thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh
tế, hình sự trong đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Gắn
phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Xử lý nghiêm người đứng đầu nếu để xảy ra tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực; có cơ chế bảo vệ người tích cực đấu tranh phịng, chống tham
nhũng, lãng phí. Kiểm sốt có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức
vụ, quyền hạn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán;
đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; nâng cao hiệu quả thu hồi tài
sản tham nhũng. Kịp thời xử lý, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu
hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chủ động phịng ngừa, ngăn chặn hiệu
quả tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; khi có tham nhũng, tiêu cực thì xử lý rất
nghiêm minh, đủ mạnh để cán bộ có chức, có quyền khơng thể tham nhũng,
khơng dám tham nhũng, không muốn tham nhũng...
Đồng thời, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, có quy định chặt chẽ, chế tài nghiêm minh để buộc cán bộ cấp cao
và cao cấp phải tự giác thực hiện theo những cam kết chặt chẽ với tính
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
673
pháp lý cao, nghiêm ngặt nhằm kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi bằng được sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo những
tiêu chí cụ thể.
Hai là, thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình, nhất là cán bộ cao
cấp, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị; kiểm tra sát sao
việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
Ba là, thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng
cao càng phải nêu gương, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm minh
những người chỉ nói, mà khơng làm hoặc nói nhiều làm ít, các trường hợp vi
phạm, suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng.
Bốn là, có cơ chế chặt chẽ và thực hiện cho bằng được việc thu hút, trọng
dụng người có đức, có tài thực sự vì dân, vì nước,... Có cơ chế, chính sách tạo
mơi trường, điều kiện khuyến khích, thúc đẩy, tạo động lực cho cán bộ phấn
đấu, toàn tâm, toàn ý với cơng việc và có cơ chế khuyến khích và bảo vệ
những cán bộ năng động, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời loại bỏ bằng được cán bộ theo kiểu
“tiền tệ, quan hệ, hậu duệ”... nhưng cũng không để sót những cán bộ thực sự
có đức, có tài.
Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người
đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Khơng để
lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có
biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược. Đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh
đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở. Xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Sáu là, kiểm soát thực sự chặt chẽ quyền lực để người có chức vụ không
lợi dụng, không lạm dụng chức vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho họ, ủy
quyền cho họ mưu cầu cho lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình, lợi ích nhóm của
họ, mà buộc họ phải hết lịng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân;
kiểm sốt chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của cơng tác cán bộ, nhất là
đối với người đứng đầu.
674
MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ TỔ CHỨC HỌC TẬP VÀ LÀM THEO
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
PGS.TS. NGƠ VĂN THẠO*
1. Sự cần thiết tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh
Đến nhiệm kỳ Đại hội XIII (2021 - 2025), chúng ta đã trải qua bốn kỳ
Đại hội tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong Đảng và xã hội. Tuy nhiên, nếu nhìn lại tồn bộ lịch sử Đảng và cách
mạng Việt Nam thì việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh, bắt đầu từ rất
sớm, ngay trong quá trình vận động thành lập Đảng.
Từ năm 1925, lớp cán bộ cách mạng đầu tiên của Đảng đã nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Các
bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu, Trung Quốc, tập trung trong
cuốn Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, đã theo các thanh niên u nước
vào cơng nhân, nơng dân, trí thức qua phong trào “vơ sản hóa”. Tư tưởng
Hồ Chí Minh được vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, hình thành
nên các tổ chức cộng sản đầu tiên, tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam năm 1930. Sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã tạo nên các cao trào cách mạng
trong giai đoạn 1930 - 1945, dẫn tới thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền là việc học tập tư tưởng,
__________
* Nguyên Vụ trưởng Vụ Lý luận chính trị, Ban Tuyên giáo Trung ương.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
675
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong tác phẩm Sửa đổi
lối làm việc xuất bản tháng 10/1947. Từ năm 1969, sau khi lãnh tụ Hồ Chí Minh
qua đời, trong cả nước đã có một phong trào cách mạng rộng lớn học tập và làm
theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện khẩu hiệu “Sống, chiến đấu,
lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Dưới sự dẫn dắt của tư tưởng
Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong chống Mỹ, cứu
nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Thực tiễn lịch sử đã chỉ
ra rằng, lúc nào chúng ta thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng đắn, thực chất thì chúng ta thành
cơng. Cịn khi nào do những ngun nhân khách quan và chủ quan, chúng ta
không làm đúng được theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì cách
mạng gặp nhiều khó khăn, thậm chí thất bại.
Bước vào cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từ nhận thức đến thực tiễn,
chúng ta ngày càng thấy rõ hơn bản chất và vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong cách mạng Việt Nam. Sự khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng của Đảng tại Đại hội VII và kết quả nghiên cứu, làm rõ hơn nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh trong các chương trình nghiên cứu khoa học cấp quốc
gia về tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn 1991 - 2000, đã cho phép chúng ta tổ
chức việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một
cách bài bản, bắt đầu từ Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư
về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn mới. Trong gần 20 năm qua, Đảng ta đã lãnh đạo, chỉ đạo
tập trung thống nhất về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh trong tồn Đảng, góp phần vận dụng ngày càng tốt hơn tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn
có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước. Những kết quả đạt được
giúp chúng ta tin tưởng vững chắc hơn và quyết tâm đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đó là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục và lâu dài.
Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn hiện nay đặt ra yêu cầu và điều
kiện để chúng ta vận dụng đầy đủ, sáng tạo hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ năm 1991, trong bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh lạnh, nước ta khơng
cịn phụ thuộc vào viện trợ hay những cam kết đồng minh như trước đây.
676
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc phải xuất phát từ độc lập dân tộc, lợi ích
quốc gia, lấy độc lập dân tộc, lợi ích quốc gia là mục tiêu tối thượng để quyết định
chính sách đối nội và đối ngoại. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh “Tự
do cho đồng bào tơi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”1 từ những năm 20 của thế kỷ XX,
đến các mục tiêu: “dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc” năm 1945
trong quốc hiệu Việt Nam; “độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường”
năm 1951 trong Văn kiện Đại hội II của Đảng; và “hịa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ, giàu mạnh” năm 1965 trong Di chúc của Người sẽ dẫn dắt
chúng ta xây dựng thành công xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” trong những năm tới.
Về tình hình trong nước, cần nói về những thách thức đối với sự phát
triển của đất nước trong giai đoạn mới. Từ bài học rút ra qua 35 năm đổi
mới, cũng như thành công bước đầu trong phòng, chống đại dịch Covid-19
gần đây là minh chứng khẳng định vai trị của sức mạnh đồn kết toàn dân
tộc, của sự gắn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để vượt qua thách
thức, đưa đất nước tiếp tục phát triển. Dựa vào dân, khơi dậy sức mạnh của
nhân dân là nguồn lực to lớn để vượt qua nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập
trung bình” cũng như phịng, chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong Đảng và xã hội một cách hiệu quả hơn. Thực hiện những chỉ
dạy của Hồ Chí Minh về phát huy chủ nghĩa dân tộc (chủ nghĩa yêu nước
chân chính và tinh thần dân tộc), dựa vào dân sẽ giúp chúng ta vượt qua
những khó khăn, thách thức trong giai đoạn phát triển mới.
2. Về bài học kinh nghiệm trong học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh những năm qua
Một là, bài học về nhận thức. Cần có sự thống nhất cao trong nhận thức
của toàn Đảng, toàn dân, từ cấp lãnh đạo cao nhất đến mỗi cán bộ, đảng
viên và người dân về sự cần thiết phải học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Cần nhận thức sâu sắc và quán triệt trong toàn Đảng và xã hội tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của cách mạng Việt Nam, là cơ sở lý luận
__________
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của
Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t.1, tr.86.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
677
xuất phát để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh là những giá trị đạo đức kết tinh từ những giá trị đạo đức tốt
đẹp nhất của dân tộc, của văn hóa nhân loại, của đạo đức cộng sản chân
chính; là tấm gương mẫu mực trong thực hành đạo đức. Trên cơ sở nhận
thức đó để triển khai việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh đạt hiệu quả sâu rộng hơn.
Xây dựng nhận thức đúng đắn về tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư
tưởng của cách mạng Việt Nam, là cơ sở lý luận trong hoạch định đường lối
phát huy sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sẽ góp
phần đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh trong Đảng và xã hội một cách thiết thực và hiệu quả hơn.
Hai là, bài học về xác định đúng nội dung học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng, ý chí, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong thực hiện các chỉ thị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh đã thu hút được sự tham gia của cán bộ, đảng viên
và xã hội, đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Chỉ thị số 23-CT/TW tạo ra bước chuyển mạnh mẽ, thực sự lấy tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng trong bối cảnh tình hình quốc tế
đã có thay đổi cơ bản. Từ nhận thức mới của Đảng ta, xác định tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng của cách mạng Việt Nam, để triển khai học
tập sâu trong Đảng và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, nên Chỉ thị đã
nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ. Lần đầu tiên, cán bộ, đảng viên và nhân
dân được học tập khá đầy đủ, tồn diện về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp đến
là Chỉ thị số 06-CT/TW về Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”. Cùng với các nguyên nhân chủ quan, sự tồn tại của
thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là nguyên nhân dẫn đến suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và xã hội, đặt ra
yêu cầu tổ chức cuộc vận động này. Cuộc vận động đã được cán bộ, đảng
viên, các tầng lớp nhân dân đón nhận. Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành cuộc
vận động lớn trong xã hội. Đến thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bổ sung thêm
678
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
nội hàm học tập “phong cách”, đồng thời mục tiêu hướng tới không chỉ dừng
lại ở cuộc vận động mà phải đẩy mạnh học tập, làm theo, đóng góp ngày
càng thực chất trong giải quyết nhiệm vụ chính trị, các vấn đề bức xúc, nổi
cộm, nhất là công tác xây dựng Đảng.
Ba là, bài học trong tổ chức thực hiện. Thực sự quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh về nói đi đơi với làm, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, làm
trước. Xây dựng quy chế để cán bộ càng cao càng phải gương mẫu học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Bốn là, bài học về phương pháp tiến hành. Phải thực hiện nghiêm những
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “xây đi đôi với chống”, gắn kết đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (xây)
với kiên quyết chống các mặt phản diện, như tham nhũng, tiêu cực, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và xã hội.
Đây có thể coi là bài học thành cơng ở mức độ nhất định trong thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW những năm qua. Chỉ thị số 05-CT/TW mở rộng phạm
vi học tập và làm theo Bác cả về tư tưởng, đạo đức và phong cách, đưa việc
học tập thành công việc thường xuyên, gắn với công tác xây dựng Đảng, với
thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn. Ngay sau Đại hội XII,
việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW đã gắn chặt với công tác xây dựng Đảng
trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII. Từ ý chí, quyết tâm,
kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, khơng có vùng cấm, làm trước của
người đứng đầu với sự ủng hộ của dư luận xã hội, việc phòng, chống tham
nhũng đã thu được những kết quả quan trọng, làm chỗ dựa, khích lệ việc đẩy
mạnh triển khai thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị. Quy định số 08-QĐi/TW
của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã khẳng định những giá trị đạo đức, văn
hóa cao quý theo tư tưởng Hồ Chí Minh và cơng khai lên án, chống những hành
vi vi phạm văn hóa, vi phạm đạo đức trong Đảng và xã hội. Nhân dân tin tưởng
hơn không chỉ vào quyết tâm chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, mà còn
đặt hy vọng vào quyết tâm xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Năm là, bài học gắn kết học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh với xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội, tạo
động lực cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
679
Trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh có tư tưởng về văn hóa rất sâu sắc
và tồn diện. Tư tưởng “văn hóa soi đường quốc dân đi” của Hồ Chí Minh đã
khẳng định rất rõ về vai trị to lớn của văn hóa đối với sự phát triển của đất
nước, dân tộc. Trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, ngày càng dựa vào
sức mạnh trí tuệ, văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là một động lực rất quan
trọng, nếu khơng nói là quan trọng nhất của sự phát triển. Trong giai đoạn
cách mạng mới, với yêu cầu và điều kiện phát triển mới, cần thiết phải đi
sâu hơn về lĩnh vực văn hóa (theo nghĩa rộng) trong học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
3. Một số đề xuất, kiến nghị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng
Một là, về nhận thức, cần quán triệt kỹ trong tồn Đảng về vai trị của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và sự cần thiết tiếp tục đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay. Với sự phân tích ở phần trên cho thấy nhận thức đầy đủ của
Đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu về vai trò của tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, kiên định mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh là cơ sở
tồn tại và triển khai hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu và điều kiện
phát triển của đất nước hiện nay.
Ban Tuyên giáo Trung ương cần xây dựng một chuyên đề riêng về
“Vai trò và sự cần thiết học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, tổ chức học tập một cách nghiêm túc, khoa học, hiệu
quả trong Đảng, hệ thống chính trị, tuyên truyền sâu rộng trong nhân
dân, cùng với triển khai các chuyên đề nội dung học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Các cơ
quan thơng tin, báo chí đẩy mạnh tun truyền về vai trò và sự cần thiết
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay.
680
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
Hai là, về nội dung, cần xác định trọng tâm là “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khơi dậy và phát huy ý chí, khát
vọng phát triển của tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới,
sớm đưa Việt Nam trở thành nước phát triển”. Theo nội dung này, cần xây
dựng các chuyên đề tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện hằng năm, như:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, xây dựng
một nước Việt Nam hạnh phúc, phồn vinh; Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa dân tộc, phát
huy vai trị của văn hóa, động lực tinh thần to lớn của sự phát triển trong
giai đoạn mới; Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy ý chí, khát vọng
phát triển tồn dân tộc, sớm đưa Việt Nam trở thành nước phát triển...
Ba là, về phương thức triển khai, cần gắn nội dung học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương, đồng thời có sự chỉ đạo về
thực hiện, kiểm tra, đôn đốc riêng về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW và Kết
luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 05-CT/TW, để tránh việc hòa tan nội dung tổ chức học tập và làm theo
Bác vào các hoạt động chuyên môn.
Nghiên cứu bài học kinh nghiệm về tổ chức các hội thi báo cáo viên giỏi
về tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh; Hội thi kể chuyện về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh để tạo nên các hình thức sinh hoạt phong phú trong Đảng
và xã hội, góp phần vào thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh sâu rộng và hiệu quả hơn. Để thực hiện, cần tổ
chức kiểm tra, sơ kết hằng năm, 3 năm, 5 năm; có thơng báo kết luận của
Ban Bí thư về tình hình triển khai thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị của
từng ngành, địa phương. Tăng cường hoạt động giao ban, trao đổi kinh
nghiệm để tạo khơng khí sơi nổi trong học tập và làm theo Bác.
Bốn là, gắn bó chặt chẽ hơn nữa việc tổ chức học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với cơng tác xây dựng Đảng, hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh công tác chống tham
nhũng, tiêu cực trong Đảng và xã hội. Ban Bí thư có hướng dẫn nội dung,
quy trình đánh giá cán bộ, bao gồm đánh giá về tinh thần, thái độ, kết quả
học tập của mỗi cá nhân. Chấn chỉnh lại công tác thông tin, tuyên truyền
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
681
trên hệ thống thông tin đại chúng, tăng cường tuyên truyền về các việc làm
tốt, gương điển hình tiên tiến trong đời thường, phản ánh đúng đắn hơn thực
trạng và sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay.
Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu và tuyên truyền về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về văn hóa, phát triển xã hội, tập trung sự chỉ đạo
và tăng nguồn lực cho sự phát triển văn hóa, xã hội, mơi trường. Khai thác
đầy đủ, sâu sắc hơn về văn hóa Hồ Chí Minh, thực hiện tư tưởng vĩ đại của
Người “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” để xây dựng đời sống tinh thần
tươi đẹp và tiến bộ trong xã hội, đồng thời tạo động lực cho sự phát triển
trong giai đoạn mới.
682
HỆ GIÁ TRỊ HỒ CHÍ MINH: NỘI DUNG
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG,
BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY
PGS.TS.GVCC. TRẦN THỊ MINH TUYẾT*
Đối với Hồ Chí Minh - con người tự nguyện hiến đời mình cho dân tộc và
nhân loại, số phận của dân tộc và nhân dân luôn là nỗi suy tư, trăn trở duy
nhất của Người. Từ việc kế thừa văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại,
trong quá trình tìm đường và dẫn đường cho dân tộc Việt Nam, hệ giá trị
Hồ Chí Minh đã từng bước được xác lập. Là biểu trưng cao quý của văn hóa
Việt Nam, hệ giá trị Hồ Chí Minh và hệ giá trị Việt Nam thống nhất làm một.
1. Hệ giá trị Hồ Chí Minh: Độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ và
giàu mạnh
Nói đến giá trị là nói đến những gì q giá, có tính ngun tắc, có ý nghĩa
sống cịn đối với sự tồn tại của con người, tổ chức và dân tộc. Lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước vô cùng gian khổ của dân tộc Việt Nam đã chắt
lọc, đúc kết hệ giá trị của mình và tư tưởng Hồ Chí Minh đã biểu đạt các giá
trị cao quý đó.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, tận mắt chứng kiến sự
thất bại của các phong trào đấu tranh giành độc lập của cha anh, với tinh
thần “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành quyết ra đi tìm đường cứu nước. Việc tiếp thu tư tưởng tự
do của văn hóa phương Tây và sự trải nghiệm thực tiễn đã giúp Hồ Chí Minh
nhận ra: Độc lập, tự do là những giá trị không thể tách rời. Chỉ khi nước
được độc lập thì người dân mới được hưởng ánh sáng của tự do. Ngược lại,
__________
* Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
683
nếu mỗi người dân không được hưởng những quyền tự do chính đáng của
mình thì nền độc lập đó chỉ là giả tạo, là “bánh vẽ”. Vì thế, Hồ Chí Minh
khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”1. Từ năm 1930,
Người đã soạn thảo cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo mà
tư tưởng cốt lõi là Độc lập - Tự do. Tháng 8/1945, trong những điều kiện lịch
sử thuận lợi, Người đã đúc kết quyết tâm giành độc lập, tự do của dân tộc Việt
Nam bằng câu nói bất hủ: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải kiên quyết giành được độc lập”2. Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính
phủ lâm thời đọc Tun ngơn độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với
cả thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã
thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập
ấy”3. Giữ vững lời thề thiêng liêng đó, trước âm mưu tái chiếm Việt Nam của
thực dân Pháp, trong Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã thay
mặt dân tộc Việt Nam thể hiện thái độ chính trị dứt khoát và kiên định:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”4. Thực dân Pháp
cịn chưa rút đi thì đế quốc Mỹ lại tới. Đế quốc Mỹ tưởng rằng có thể dùng bom
đạn để tiêu diệt ý chí đấu tranh của nhân dân Việt Nam anh hùng. Trước âm
mưu cuồng bạo là “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá” của đế quốc Mỹ, Hồ Chí
Minh đã đúc kết lẽ sống của nhân dân Việt Nam và chân lý lớn của thời đại:
“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do!”. Rõ ràng, Độc lập - Tự do là giá trị hàng
đầu, quan trọng nhất với Hồ Chí Minh.
Là nhà nhân văn chủ nghĩa vĩ đại, luôn quan tâm đến số phận của
nhân dân, đối với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do nhất thiết phải gắn với hạnh
phúc của nhân dân. Chương trình Việt Minh do Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn
thảo và được thơng qua vào tháng 10/1941 đã khẳng định: Mặt trận Việt
Minh “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1) Làm
cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. 2) Làm cho dân Việt Nam được sung
__________
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ
Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t.1, tr.86.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của
Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t.2, tr.225.
3, 4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.3, 534.
684
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
sướng, tự do”1. Sau Cách mạng Tháng Tám, Người tuyên bố: “nếu nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”2. Lần khác, Người lại nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì.
Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi được ăn no, mặc đủ”3. Gắn
độc lập, tự do với hạnh phúc của nhân dân là điểm khác biệt giữa quan
niệm về độc lập của các sĩ phu phong kiến và Hồ Chí Minh. Xưa kia, độc
lập đơn thuần là không bị mất nước; với Hồ Chí Minh, độc lập phải gắn với
tự do và no cơm, ấm áo, cuộc sống yên bình của nhân dân. Làm cách mạng
phải dựa vào dân nhưng làm cách mạng để vì dân là tư tưởng nhất quán
của Hồ Chí Minh. Người nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”4 thể hiện
sự gắn kết giữa các giá trị độc lập, tự do, hạnh phúc và tinh thần nhân văn
triệt để của Hồ Chí Minh, rằng hạnh phúc phải dành cho tất cả mọi người,
không trừ một ai.
Trong cuộc đời tranh đấu của mình, Hồ Chí Minh còn rất chú trọng giá
trị dân chủ - khát vọng chung của cả loài người, đặc biệt là của những người
bị kìm kẹp bởi chế độ thực dân, phong kiến phản động. Trong định danh tên
nước sau Cách mạng Tháng Tám: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Độc lập, tự
do, hạnh phúc”, Hồ Chí Minh đã kết hợp giá trị dân chủ với giá trị độc lập,
tự do, hạnh phúc để tạo thành hệ giá trị không thể tách rời. Do đó, chống đế
quốc phải đi đơi với lật đổ chế độ phong kiến lỗi thời để lập nên thể chế dân
chủ cộng hòa. Lúc này, dân chủ không chỉ là một kiểu thiết chế nhà nước với
quyền lực thuộc về nhân dân mà còn là động lực, là “cái chìa khóa vạn năng
có thể giải quyết mọi khó khăn”5 vì dân chủ mang lại sự hăng hái, sáng kiến
và tình đồn kết của đơng đảo quần chúng cách mạng, cổ vũ họ tích cực
tham gia kháng chiến, kiến quốc.
Trong hệ giá trị Hồ Chí Minh cịn hiển thị một giá trị thiết yếu nữa là
sự giàu mạnh của đất nước, nói chính xác hơn là dân giàu, nước mạnh.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Sđd, t.7, tr.470.
2, 3, 4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.64, 175, 187.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.325.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
685
Trước Hồ Chí Minh, do xu hướng “tả” trong phong trào cộng sản quốc tế, ở
nước này hay nước khác, vào lúc này hay lúc khác, việc đẩy cao vấn đề đấu
tranh giai cấp đã có lúc dẫn đến sự “kỳ thị” người giàu, thậm chí lên án sự
làm giàu. Với Hồ Chí Minh, việc làm giàu chính đáng của người dân phải
được khích lệ vì “dân có giàu thì nước mới mạnh”1 và sự giàu mạnh chính là
điều kiện, tiền đề đảm bảo nền độc lập của dân tộc và hạnh phúc của nhân
dân. Vì thế, ngay trong những ngày đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, Hồ Chí Minh đã bày tỏ một khát vọng vĩ đại là Việt Nam sẽ trở
thành một nước giàu mạnh ở mức có thể “sánh vai với các cường quốc năm
châu”2. Khẳng định vị thế dân tộc là biểu hiện chân xác của tinh thần tự tơn
và lịng tự hào dân tộc. Việc kết hợp chặt chẽ giá trị độc lập, tự do, hạnh
phúc, dân chủ với giá trị giàu mạnh đã thể hiện rõ trong ước nguyện cuối
cùng của Hồ Chí Minh: “Điều mong muốn cuối cùng của tơi là: Tồn Đảng,
tồn dân ta đồn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”3. Như vậy, trong chiều sâu tư
tưởng của Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là tiền đề, điều kiện để dân tộc phát
triển và đi đến những tầm cao mới.
Nếu so sánh, đối chiếu hệ giá trị của từng quốc gia, chúng ta nhận thấy:
Mỗi dân tộc có hệ giá trị khác nhau cho dù các giá trị cụ thể đa phần là
giống nhau. Cái làm nên sự khác biệt đó chính là giá trị quan, tức sự đánh
giá vị trí của từng giá trị trong bảng giá trị để đi đến kết luận: Điều gì là
trọng yếu nhất trong lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của dân tộc đó. Với Việt
Nam, trải qua bao thăng trầm của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước,
độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ và giàu mạnh đã hiển hiện như các giá
trị cốt lõi nhất; từng thành tố trong hệ giá trị đó ln là tiền đề, điều kiện và
kết quả của nhau. Tinh thần chủ đạo của hệ giá trị Hồ Chí Minh chính là:
Giải phóng để phát triển và phát triển là vì hạnh phúc con người. Hệ giá trị
Hồ Chí Minh khơng chỉ chắt lọc các giá trị “bất biến” trong thực tế dựng
nước và giữ nước mà còn là lý tưởng thiêng liêng, mục tiêu chiến lược và
định hướng phát triển của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh lịch
sử. Sự đồng nhất giữa hệ giá trị dân tộc và hệ giá trị Hồ Chí Minh - con người
__________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.12, tr.316.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.35.
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.15, tr.614.
686
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
cả đời “chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh
phúc của quốc dân”1 đã nói lên sự cao quý của nhân cách Hồ Chí Minh và giá
trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Ý nghĩa của hệ giá trị Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Đối với Hồ Chí Minh, hành động là chỗ đến của tư tưởng nên hệ giá trị
Hồ Chí Minh - hệ giá trị Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến tiến trình cách
mạng Việt Nam trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thứ nhất, hệ giá trị Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối chiến lược của
Đảng, mục tiêu bất biến của cách mạng và lẽ sống của nhân dân Việt Nam
trong công cuộc bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc.
Đánh giá rất cao ý chí độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam nên Hồ Chí Minh
đã tổng kết: “Nhờ ý chí độc lập và lịng khát khao tự do hơn là nhờ qn
đơng sức mạnh, nước Nam đã thắng”2. Từ sự thấu hiểu sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đúc kết nên giá trị đầu bảng của
văn hóa Việt Nam là khát vọng độc lập, tự do. Đảng Cộng sản Việt Nam, với
tư cách là đội tiền phong của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân Việt
Nam, đã đưa giá trị cao quý đó thành đường lối đấu tranh giành độc lập dân
tộc. Nhờ đó, nhân dân Việt Nam đã làm nên những kỳ tích lịch sử như: Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thế giới từng ca ngợi sức mạnh con người
Việt Nam trong chiến tranh: “Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật
chất là sức mạnh của thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại
năng lượng nguyên tử, thời đại phản lực, thời đại điều khiển học, thời đại
chinh phục vũ trụ, thời đại tin học... Dù là kể đến thiết bị nào thì Mỹ cũng đều
có và người Việt Nam cũng đều khơng có. Sức mạnh duy nhất của họ là sức
mạnh của con người”3. Chính xác hơn, đó là sức mạnh của con người với khát
vọng độc lập, tự do mãnh liệt. Thắng lợi của ý chí Việt Nam đã mang lại cho
loài người niềm tin vào sức mạnh của lẽ phải và sự công bằng, cổ vũ con người
không ngừng đấu tranh cho lý tưởng tự do.
__________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.272.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.98.
3. Dẫn theo Phạm Minh Hạc: Về phát triển con người tồn diện trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.43.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
687
Không chỉ làm nên quá khứ hào hùng, hệ giá trị Hồ Chí Minh cịn là nền
tảng cho đường lối an ninh, quốc phòng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Kế
thừa quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, nhận thức của Đảng về
mục tiêu giữ vững nền độc lập dân tộc ngày càng được mở rộng. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII, Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh
thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính
trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân”1. Đến Đại hội XI,
việc “giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời”2 đã trở thành nội
dung mới của cơng tác bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, cuộc đấu tranh để bảo vệ
quyền chủ quyền ở Biển Đông của nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ
ngừng lại.
Trong thế giới hội nhập, mất bản sắc văn hóa dân tộc cũng chính là mất
nước nên đến Đại hội XII, nội hàm của công tác bảo vệ Tổ quốc được bổ sung
thêm nội dung “bảo vệ nền văn hóa dân tộc”3. Như vậy, giá trị độc lập, tự do
của Hồ Chí Minh ln là nền tảng của chiến lược bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, hệ giá trị Hồ Chí Minh đã trở thành chiến lược xây dựng đất
nước dân chủ và giàu mạnh của Đảng và cổ vũ nhân dân Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng đất nước.
Trong lịch sử nhân loại, dân chủ vừa là thể chế nhà nước với sự thừa
nhận quyền lực thuộc về người dân, vừa là một giá trị xã hội vĩnh hằng mà
loài người phải đấu tranh gian khổ mới từng bước giành được. Hồ Chí Minh
ln coi dân chủ là một đặc tính căn cốt của xã hội tiến bộ, “là của quý báu
nhất của nhân dân”4, là động lực to lớn của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện tư
tưởng của Người, trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có
những nhận thức mới về dân chủ và đã nỗ lực đẩy nhanh q trình dân
chủ hóa đất nước về mọi mặt. Bằng chứng là dân chủ đã trở thành một nội
dung căn cốt trong hệ mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.142.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd,
tr.233.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.147.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.457.
688
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
văn minh”1 và là động lực trọng yếu để phát triển đất nước. Không dừng lại
ở sự nhận thức, trong thời kỳ đổi mới, quyền làm chủ của nhân dân đã từng
bước được luật hóa; q trình dân chủ hóa đã và đang diễn ra trong mọi lĩnh
vực thiết yếu của đất nước, tạo tiền đề cho những thắng lợi to lớn của sự
nghiệp đổi mới.
Thấu tỏ vai trò của tiềm lực kinh tế đối với sự phát triển của đất nước,
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã được tiến hành theo phương châm lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp. Nhờ
đường lối đúng đắn, kinh tế Việt Nam đã khởi sắc. Năm 1996, Việt Nam đã
cơ bản thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội; đến năm 2010, đã
thoát ra khỏi nhóm nước kém phát triển và bước vào nhóm nước đang phát
triển có mức thu nhập trung bình. Mức tăng trưởng GDP đạt 7,08% (năm
2018) và 7,02% (năm 2019), đưa Việt Nam vào nhóm các nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Năm 2020, trong điều kiện
dịch Covid-19 lan rộng, kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng dương2.
Sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam chính là điều kiện để thực thi giá trị
độc lập, tự do cho Tổ quốc, no ấm, hạnh phúc cho nhân dân như ước nguyện
tha thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, hệ giá trị Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận để xác định phương
hướng, mục tiêu phát triển của đất nước và gợi mở hệ thống giải pháp nhằm
gia tăng sức mạnh dân tộc, hiện thực hóa khát vọng Việt Nam.
Kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh, rằng “chỉ có chủ nghĩa cộng sản
mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc”3, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định rõ: Đổi mới là tất yếu nhưng “đổi mới không phải
là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho các mục tiêu ấy được
thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng, nhưng hình thức, bước
đi và biện pháp thích hợp”4.
__________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70.
2. />3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.496.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.49, tr.540.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
689
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1.
Cương lĩnh cũng đã xác định rõ đặc trưng tổng quát và cũng là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”2.
Văn kiện Đại hội XIII đã cụ thể hóa mục tiêu giàu mạnh gắn với các dấu
mốc quan trọng của đất nước: Đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát
triển có cơng nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp; đến năm 2030 - thời điểm trịn 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam sẽ
là nước đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại và mức thu nhập trung bình
cao; đến năm 2045 - thời điểm trịn 100 năm thành lập nước, Việt Nam sẽ
trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Hệ giá trị Hồ Chí Minh không chỉ cổ vũ nhân dân Việt Nam hành động
mà còn gợi mở phương hướng hành động sao cho hiệu quả nhất.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, một nền độc lập thực sự luôn gắn liền
với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân nên mọi chính sách của Đảng và
Nhà nước phải hướng tới mục tiêu cuối cùng là không ngừng nâng cao mức
sống của nhân dân. Nghị quyết Đại hội XIII nhấn mạnh chăm lo bồi dưỡng
sức dân, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, giải quyết hợp lý
bài toán tăng trưởng và bồi dưỡng sức dân, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xóa
đói, giảm nghèo, chủ động điều tiết sự phân hóa xã hội, khơng để sự phân
hóa giàu - nghèo phát triển tự phát dẫn đến bất bình đẳng, xung đột xã hội
và phải kiến tạo hệ thống phúc lợi xã hội tiến bộ, vững chắc, hiệu quả; kiên
quyết, kiên trì đẩy lùi các vấn nạn xã hội. Suy cho cùng, tính ưu việt của chế
độ xã hội phải được đo bằng mức sống, mức độ thụ hưởng, mức độ hài lịng
và sự bình n, hạnh phúc của nhân dân.
Về phương diện chính trị, Đảng ta khẳng định: “thực chất của việc đổi mới
và kiện tồn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa”3, để thực hiện khát vọng Việt Nam cần tăng cường thực hiện dân chủ;
đẩy mạnh công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng về mọi mặt để Đảng thực sự
__________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.27.
690
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH...
“là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là lực lượng dẫn đường của dân tộc.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là lực lượng tiên phong trong nguồn
nhân lực chất lượng cao. Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chứng minh rằng, cách lãnh đạo tốt nhất là lãnh đạo bằng khoa học,
dân chủ, đạo đức và nêu gương, tức là bằng sức mạnh của văn hóa chứ
khơng bằng quyền uy. Nền chính trị Việt Nam hiện đại phải là nền chính
trị thấm nhuần tinh thần văn hóa, đạo đức. Việc học tập tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên phải trở thành một nhu cầu
văn hóa, nhu cầu tự hồn thiện, tự làm sạch để chống lại sự tha hóa bởi
quyền lực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”1, động lực quan trọng nhất để
thực hiện hệ giá trị Hồ Chí Minh và cũng là hệ giá trị dân tộc, chính là con
người. Thế giới hội nhập ngày nay đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam phải đào
tạo ra lớp “cơng dân tồn cầu” nhưng có tâm hồn Việt, tinh thần Việt. Muốn
giữ vững nền độc lập và gia tăng vị thế đất nước trên trường quốc tế, phải
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập. Muốn phát huy
giá trị con người, muốn đào tạo ra những con người yêu nước, có trách nhiệm
với xã hội, cộng đồng, có tư duy đổi mới, sáng tạo, có đạo đức và phong cách
văn hóa, có khả năng loại trừ chủ nghĩa cá nhân..., bên cạnh việc đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chính
trong di sản vơ giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc, mỗi người dân Việt
Nam sẽ tìm thấy hình mẫu lý tưởng về văn hóa làm người, chuẩn mực nhân
cách để giáo dục con em và tự giáo dục bản thân. Tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh phải thực sự trở thành nội dung căn cốt của văn hóa dân
tộc, là vũ khí sắc bén để chống lại sự tha hóa trong mỗi con người và sự suy
thoái đạo đức của tồn xã hội.
Bên cạnh đó, phải tăng cường sự đồng thuận dân tộc, đồng thời tăng
cường đoàn kết và hội nhập quốc tế. Muốn tranh thủ được sự đồng tình và
ủng hộ của các dân tộc trên thế giới thì Việt Nam là phải trở thành một
phần không thể tách rời, thành nhân tố có ích cho sự phát triển của nhân loại.
Là một nước đang phát triển, muốn theo kịp bước tiến của nhân loại thì
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.66.
Phần thứ ba: TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,...
691
Việt Nam còn phải biết sử dụng lợi thế của nước đi sau. Đó cũng chính là sự
tiếp nối tư tưởng, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.
Dù độc lập, tự do là quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc, no ấm, hạnh
phúc là quyền lợi chính đáng của nhân dân, nhưng không được chủ quan
nghĩ rằng, vì nó là quyền “bất khả xâm phạm”, đương nhiên sẽ được đảm
bảo. Khi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ln tồn tại và hiện cịn có phần gia tăng,
quyền thiêng liêng đó phải được bảo vệ bằng sức mạnh tổng hợp của dân tộc.
Khi dân chủ và sự giàu mạnh khơng phải là những điều “mặc định”, có sẵn
thì Đảng và Nhà nước phải có chiến lược khơi dậy ý chí dân tộc, tinh thần tự
lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước và giá trị con người Việt Nam.
Do đó, “Vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc” không đơn thuần là khẩu
hiệu mà phải trở thành lý tưởng, phương châm hành động của Đảng và lẽ
sống của mỗi con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Hiện
thực hóa khát vọng xây dựng đất nước cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc,
“sánh vai với các cường quốc năm châu” chính là sự tơn vinh hệ giá trị
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.