TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: Bất Bình Đẳng Xã Hội Ở Việt Nam Hiện Nay
Nhóm 4 – K57H
Mã lớp học phần: 2175RLCP0421
Giảng viên: Nguyễn Quỳnh Hương
Hà Nội – Năm 2021
MỤC LỤC
Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu đề tài
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
6. Kết cấu nội dung của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận của những vấn đề cơ bản về bất bình đẳng xã
hội.
I.
II.
III.
Khái niệm.
Những quan niệm khác nhau về bất bình đẳng.
1. Quan niệm dựa vào yếu tố sinh học của cá nhân
2. Quan niệm dựa vào các yếu tố kinh tế
3. Quan điểm của Karl Marx
4. Quan điểm của Max Weber
Cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội
Chương 2: Một số dạng bất bình đẳng xã hội và thực trạng bất bình
đẳng xã hội ở Việt Nam.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng về thu nhập
Bất bình đẳng theo dân tộc và theo vùng
Bất bình đẳng về tiếng nói
Bất bình đẳng về cơ hội
Bất bình đẳng về giáo dục
Bất bình đẳng về y tế
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế bất bình đẳng xã hội
1. Bất bình đẳng về y tế
2. Bất bình đẳng giới
3. Bất bình đẳng về giáo dục
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Xã hội học Đại Cương – Trường Đại Học Thương Mại.
2. Slide bài giảng Xã Hội Học Đại Cương – Giảng viên Nguyễn Quỳnh Hương.
3. Bách khoa tồn thư mở - Wikipedia.
4. Luật Bình đẳng giới 2006.
5. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của các tỉnh giai đoạn 2006 - 2018.
6. Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội và Tổng cục Thống kê.
7.Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê 2007 - 2018.
8. Và 1 số trang báo, thông tin điện tử khác.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh trong 30 năm qua, với thu nhập bình
quân tăng và số người nghèo giảm đều và đáng kể. Trên thực tế, gần 30 triệu người
đã vượt chuẩn nghèo chính thức từ thập niên 1990 khi thu nhập GDP tính theo đầu
người tăng từ 100 USD vào năm 1990 lên 2.300 USD vào năm 2015. Tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam bình quân đạt 5-6% trong ba thập kỷ qua, với tỷ lệ tăng trưởng
bình quân khoảng 6,4% trong thập niên 2000. Mặc dù tăng trưởng nhanh như vậy
nhưng so với một số nước, bất bình đẳng ở Việt Nam đã không tăng nhiều. Điều
này một phần do những chính sách tích cực của Việt Nam về giảm bất bình đẳng.
Mặc dù vậy, hiện nay Việt Nam vẫn phải đương đầu với một thách thức lớn: với sự
tăng trưởng chậm lại và tình trạng bất bình đẳng về kinh tế cũng như bất bình đẳng
về tiếng nói và cơ hội gia tăng, làm thế nào để Việt Nam có thể tăng trưởng tồn
diện và bền vững để tất cả người nghèo cùng hưởng lợi?
Ở nước ta hiện nay, tuy đã bước vào một thời đại mới, bước vào một kỷ
nguyên mới nhưng hiện tượng bất bình đẳng về giới tính, về thu nhập, về độ tuổi,
về cơ cấu....hay nói chung là bất bình đẳng trong xã hội vẫn đang tồn tại và được
nhà nước ta, các ban ngành và toàn xã hội quan tâm sâu sắc. Mặc dù đây không
phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng rất đáng được chú ý và suy ngẫm vì vậy nhóm 4
chúng em đã quyết định đi sâu vào nghiên cứu tình trạng " Bất bình đẳng xã hội ở
Việt Nam hiện nay ".
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Hiện nay với sự phát triển và hòa nhập với kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam
đã có những bước phát triển vượt bậc từ đó đời sống an sinh xã hội từng bước đi
vào ổn định. Song bên cạnh đó, bất bình đẳng vẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam.
Đã có nhiều nghiên cứu khoa học về vấn đề này và từ đó xuất hiện rất nhiều ý kiến
khác nhau về bất bình đẳng xã hội ở nước ta hiện nay. Vậy nên để làm rõ hơn về
thực trạng của vấn đề này, nhóm em sẽ đi vào nghiên cứu từ đó tìm ra ngun
nhân, hậu quả và đưa ra một số giải pháp thích hợp nhằm hạn chế bất bình đẳng xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ khái niệm, phân loại, cơ sở hình thành của bất bình đẳng xã hội
- Chỉ ra được các dạng bất bình đẳng xã hội, kèm theo bảng dữ liệu, thống
kê
- Từ các phân tích suy ra được giải pháp phù hợp
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm đã sử dụng một số phương pháp như:
Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu
Quan sát thực tế.
5. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu bất bình đẳng xã hội Việt Nam hiện
nay
6. Kết cấu nội dung của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận những vấn đề cơ bản về bất bình đẳng xã hội
Chương 2: Một số dạng bất bình đẳng và thực trạng bất bình đẳng xã hội ở Việt
Nam
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế bất bình đẳng xã hội
Chương I: Cơ sở lý luận của những vấn đề cơ bản về
bất bình đẳng xã hội
Cùng sự vươn lên không ngừng của nền kinh tế, khoa học kĩ thuật, công
nghệ thông tin,… giúp cho xã hội ngày càng phát triển. Điều đó làm cho cuộc sống
của con người ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng không phải xã hội lúc nào cũng ẩn
chứa những điều tốt đẹp, mà còn chứa đựng trong nó vơ số những “bất cập xã hội”
– những vấn đề ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống con người. “Bất bình đẳng xã
hội” là một trong những vấn đề như vậy.
Tất cả các xã hội đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là quá trình
mà con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi vị thế, vai trò
cùng những đặc điểm khác. Q trình đó chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội. Là
điều kiện mà con người có cơ hội không ngang bằng nhau về sử dụng của cải,
quyền lực và uy tín. Bất bình đẳng là một hiện tượng mang tính kế thừa ở mọi thời
đại vì nó tồn tại trong mọi xã hội do cơ cấu xã hội mang lại. Bất bình đẳng khơng
phải là một hiện tượng tự nhiên, tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các mối quan hệ
trong xã hội, mà nó tồn tại “khi có một nhóm xã hội kiểm sốt và khai thác các
nhóm xã hội khác.”. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất
bình đẳng xã hội khác nhau. Bất bình đẳng xã hội là một vấn đề trung tâm của xã
hội học, đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phân tầng trong tổ chức xã
hội.
Như Daniel Rossides (1976) đã viết: Thậm chí ngay trong các xã hội đơn
giản nhất “người già thường có quyền uy đối với người trẻ, cha mẹ có quyền uy
với con cái và nam giới có quyền uy đối với phụ nữ".
Trong sự vận động và phát triển của xã hội thì bất bình đẳng xã hội ln là
một vấn đề trung tâm của xã hội học. Bất bình đẳng xã hội hình thành, tồn tại song
song với sự phát triển qua những xã hội khác nhau. Điều đó cũng cho ta nhận biết
được rằng hệ thống bất bình đẳng sẽ khác nhau trong những xã hội khác nhau và
nguyên nhân chính là do thể chế chính trị và hoàn cảnh, điều kiện sinh sống của
từng nơi quyết định. Bất bình đẳng có ý nghĩa quyết định đối với sự phân tầng
trong tổ chức xã hội. Do đó, trong tiếp cận của mình nhà xã hội học hướng tới tìm
hiểu cách mà các nhóm xã hội khác nhau có mối quan hệ bất bình đẳng với những
nhóm xã hội khác như thế nào. Để làm rõ được hiện tượng bất bình đẳng này nhóm
4 chúng em sẽ đi sâu vào nghiên cứu và phân tích nhằm đưa ra được các giải pháp
góp phần giảm thiểu hiện tượng này trong xã hội Việt Nam hiện nay.
I.Khái niệm:
- Bất bình đẳng là sự khơng cơng bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với
những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội.
- Bất bình đẳng khơng phải là hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá
nhân, các nhóm trong xã hội; bất bình đẳng xuất hiện khi một cá nhân, một nhóm
(tạo ra) hay có đặc quyền đối với các cá nhân hoặc nhóm cịn lại; những xã hội
khác nhau tồn tại trong sự bất bình đẳng khác nhau.
- Lồi người chúng ta sinh ra có khá nhiều khác biệt như giới tính, sức khoe, trí tuệ
và sắc đẹp.Nhưng sự khác biệt về sinh học không phải là sự khác biệt về mặt xã
hội, nhưng dựa vào đó dẫn khơng được coi là bất bình đẳng xã hội mà phải dựa
trên những tiêu chí khác. Thí dụ như các tiêu chí về của cải tài sản, quyền lực, học
vấn, cơ hội sống, uy tín mà con người khơng có sự ngang bằng nhau trong cuộc
sống.
- Trong cuốn “Sự phân công lao động xã hội” (1893) E.Durkheim cho rằng: Tất cả
các xã hội ln nhìn nhận một số hành động quan trọng hơn những hành động
khác, cũng theo ơng bất bình đẳng xã hội được tạo ra từ những khác biệt về tài
năng. Ai có thiên bẩm nhiều hơn người khác, trải qua một quá trình đào tạo sẽ tạo
nên sự khác biệt về mặt xã hội. Mặc dù, các nhà xã hội học dễ dàng thống nhất
rằng: bất bình đẳng xã hội là phổ biến, song họ lại khơng có cùng câu trả lời cho
bất bình đẳng là gì, nguyên nhân của sự nảy sinh và tồn tại?
- Bất bình đẳng có thể được phân thành:
+ Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: đó là sự khác biệt của cá nhân về một hoặc
một số đặc điểm sẵn có như giới, tuổi, chủng tộc, trí lực, …
+ Bất bình đẳng mang tính xã hội: đó là sự phân công lao động dẫn đến phân tầng,
tạo ra lợi ích khác nhau giữa các cá nhân.
- Theo quan điểm của các nhà xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì bất bình
đẳng xã hội có vai trị hết sức quan trọng:
+ Bất bình đẳng được xem như là điều kiện để tổ chức xã hội.
+ Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
+ Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.
II. Những quan niệm khác nhau về bất bình đẳng:
Bất bình đẳng xã hội là một hiện tượng xã hội phổ biến. Tuy nhiên, liệu bất
bình đẳng có phải là một hiện tượng xã hội không thể nào tránh khỏi? Xung quanh
vấn đề này, có nhiều quan điểm khác nhau. Chúng ta sẽ xem xét một số quan điểm
tiêu biểu về bất bình đẳng xã hội.
1. Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học của cá nhân:
Quan điểm này cho rằng, bất bình đẳng là một thực tế của xã hội, nó luôn
hiện diện bởi sự khác biệt giữa các cá nhân. Trong một xã hội mở và nếu con
người có sự khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó tất yếu dẫn đến bất bình
đẳng. “Một số bất bình đẳng đến như là kết quả khơng thể né tránh về bất bình
đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh thần và những khía cạnh của
nhân cách.”
Ngay từ thời cổ đại, một số nhà triết học đã khẳng định những “khác biệt”
mang tính tự nhiên giữa các cá nhân. Trong thực tế, vẫn có những khác biệt trong
kiểu phân chia giới như là kết quả không thể tránh được của bất bình đẳng.
Aristotle (384 – 322 TCN) cho rằng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị
trị, và đó là một luật lệ.” Ngay cả đến hiện nay, quan điểm này vẫn còn tồn tại.
Steven Goldberg nêu quan điểm: “Sự thống trị và sự thành đạt cao của nam giới là
khả năng không thể đảo ngược, bởi có những khác biệt về sinh học giữa nam và
nữ.”
Thực ra những quan điểm hoàn toàn tương tự có thể được tìm thấy trong các
xã hội khác. Trong khơng ít các gia đình Việt Nam hiện đại, tư tưởng trọng nam
khinh nữ vẫn tồn tại. Người con trai luôn được dành cho những ưu tiên và cơ hội
nhiều hơn người con gái và tất yếu điều này làm cho sự bất bình đẳng ngày một
kéo dài và trầm trọng hơn.
2. Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế:
Trong luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng năm 1753, Jean-Jacques
Rousseau đã vạch rõ nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội là ở chế độ tư
hữu tài sản. Theo ơng, bất bình đẳng không phải là một quy luật tự nhiên, mà là
sản phẩm của xã hội lồi người; nó tồn tại và phát triển từ khi xuất hiện chế độ tư
hữu tài sản; rằng con người đã tạo ra sự bất bình đẳng thì con người cũng có thể
xóa bỏ nó. Những đặc điểm về kinh tế – chính trị và thị trường lao động tạo ra
những khác biệt trong thu nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các
cá nhân trong cơ cấu xã hội gây ra bất bình đẳng kinh tế. Ơng cũng đã phân biệt rõ
hai loại bất bình đẳng giữa người với người. Đó là bất bình đẳng tự nhiên và bất
bình đẳng xã hội – bất bình đẳng do cơ chế xã hội tạo nên.
Một số nhà xã hội học khác cho rằng bất bình đẳng là khơng thể tránh khỏi do
xã hội có những nhiệm vụ này cần thiết hơn những nhiệm vụ khác và khả năng
thực hiện những nhiệm vụ này khác nhau. Họ lập luận rằng bất bình đẳng xã hội về
lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy người tài nhất thực hiện những
nhiệm vụ khó khăn nhất. Chính sự bất bình đẳng thúc đẩy các cá nhân lao động,
học tập để mang lại cơ hội cho chính bản thân mình. Do vậy khơng thể thủ tiêu bất
bình đẳng, vì bình đẳng có thể nguy hiểm cho xã hội như nhà kinh tế học A.
Lechevalier phân tích: “Bình đẳng chung chung thậm chí cịn đi ngược lại ý niệm
về sự cơng bằng, khơng chỉ là công bằng về nỗ lực cá nhân, về nhu cầu, ham muốn
mà cả những thiệt thịi.”
Có quan điểm cho rằng bất bình đẳng chủ yếu là do cấu trúc của hệ thống xã
hội gây ra chứ không phải do sự khác biệt về tài năng, đặc điểm và nhu cầu cá
nhân. Rousseau đưa ra quan điểm: “ Nguồn gốc của bất bình đẳng liên quan tới sở
hữu tư nhân về của cải. Nhứng đặt điểm về kinh tế, chính trị và thị trường lao động
tạo ra những khác biệt trong thu nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí
của các cá nhân trong có cấu xã hội gây ra bất bình đẳng kinh tế.”
3. Quan điểm của Karl Marx:
Học thuyết của Marx chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các học thuyết kinh tế
mà ông coi là nền tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp là chìa khố của
mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Marx khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của
một thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị” và phục vụ cho
giai cấp thống trị.
Những lý luận của Marx về hoạt động tổ chức sản xuất của cải vật chất cũng
như sự phân công lao động trong xã hội cùng với những phân tích về cấu trúc xã
hội đã vạch rõ tính chất giai cấp của xã hội và tính bất bình đẳng trong quan hệ xã
hội. Qua những phân tích về cấu trúc xã hội này, có thể rút ra hai kết luận quan
trọng. Một là, cần xóa bỏ và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở hữu xã
hội để xây dựng xã hội phát triển. Hai là, xã hội học cần tập trung phân tích cấu
trúc xã hội để chỉ ra ai là người có lợi và ai là người thiệt hại từ cách tổ chức xã hội
và cơ cấu xã hội hiện có. Nói cách khác, cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội và bất
bình đẳng xã hội phải là những chủ đề nghiên cứu cơ bản của xã hội học hiện đại.
4. Quan điểm của Max Weber
Max Weber nghiên cứu cấu trúc xã hội sau Marx hơn nửa thế kỷ. Do vậy,
ông đã ghi nhận những thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội để phát triển lý thuyết
xã hội học về sự phân tầng xã hội. Theo đó, lĩnh vực kinh tế khơng cịn vai trò
quan trọng đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện
đại. Cấu trúc xã hội nói chung và sự phântầng xã hội nói riêng chịu tác động của
hai nhóm yếu tố cơ bản là các yếu tố kinh tế và các yếu tố phi kinh tế trong quá
trình hình thành, biến đổi cấu trúc xã hội và sự phân tầng xã hội.
Weber không coi mọi cấu trúc xã hội đều bất bình đẳng như trong một xã
hội có giai cấp. Ông nhấn mạnh rằng quyền lực kinh tế có thể là kết quả nắm giữ
quyền lực dựa vào các nền tảng khác. Địa vị xã hội và uy tín xã hội có thể xuất
phát từ quyền lực kinh tế, song đó khơng phải là tất yếu duy nhất. Ngược lại, địa vị
có thể tạo nên cơ sở của quyền lực chính trị.
Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường chứ không phải là tái sản
xuất, như là cơ sở kinh tế của giai cấp. Ông quan niệm giai cấp là một tập hợp
người có chung các cơ hội sống trong điều kiện kinh tế thị trường. Nguyên nhân
đầu tiên của bất bình đẳng trong xã hội tư bản là khác biệt về khả năng thị trường.
III. Cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội:
Bất bình đẳng xã hội xuất hiện và tồn tại lâu dài trong suốt lịch sử phát triển
của lồi người. Là sự khơng cơng bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích giữa các cá
nhân trong nhóm và nhiều nhóm, bất bình đẳng xã hội bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân gắn bó với các yếu tố tự nhiên, địa vị xã hội, điều kiện kinh tế-xã hội-văn
hoá… Về cơ bản gồm:
- Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên:
Yếu tố tự nhiên (đất đai, thời tiết khí hậu, tài nguyên thiên nhiên…) trước
hết là môi trường sống và đảm bảo phần quan trọng cơ hội sống cho con người.
Con người sinh ra và tồn tại trong điều kiện, mơi trường sống tự nhiên khác nhau
sẽ có những cơ hội và được “mang đến” những lợi ích khác nhau. Những người
sinh ra trong điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có cơ hội tốt cho sự tiến bộ, ngược lại
với điều kiện tự nhiên khó khăn, khắc nghiệt thì sẽ có ít cơ hội hơn.
Yếu tố tự nhiên cịn tạo nên đặc điểm tự nhiên của con người, của cá nhân
như giới tính, thể lực, trí tuệ, tính cách…Đây là yếu tố tác động, ảnh hưởng lớn và
có tính lâu bền đến bất bình đẳng xã hội. Tuy nhiên xã hội càng phát triển, tiến bộ
những khác biệt và phân biệt về các yếu tố tự nhiên càng được khắc phục dần.
- Sự khác nhau về điều kiện kinh tế:
Đây cũng là 1 trong những yếu tố tạo ra sự khác biệt về cơ hội mà mỗi cá
nhân hay mỗi nhóm được tiếp cận. Khi cá nhân (hay nhóm) có điều kiện kinh tế tốt
hơn những cá nhân (hay nhóm) khác trong xã hội, chủ thể đó sẽ có nhiều cơ hội tốt
hơn.
=> Ví dụ về tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế…của các cá nhân trong xã hội.
- Sự khác nhau về địa vị xã hội:
Địa vị xã hội là vị trí then chốt của một cá nhân gắn liên với quyền hạn,
nghĩa vụ, trách nhiệm trong một cơ cấu được xác định. Địa vị xã hội thường gắn
với nghề nghiệp, chức vụ của mỗi con người.
=>Ví dụ, trong doanh nghiệp, người lao động trực tiếp (nhân viên) và người quản
lý (CEO) có địa vị xã hội khác nhau nên cơ hội và lợi ích khơng bằng nhau tạo nên
mức thu nhập, mức sống, vị thế xã hội khác nhau.
Những cá nhân ở địa vị xã hội khác nhau tạo ra sự khác biệt trong cơ hội mà
họ có thể có. Cá nhân ở địa vị cao trong xã hội có nhiều cơ hội và lợi ích so với cá
nhân ở địa vị thấp.
Ngoài ra, địa vị xã hội cịn tạo ra những bất bình đẳng cho những người khác
trong xã hội. Khi cá nhân có địa vị cao trong xã hội, anh ta có thể lợi dụng quyền
lực đó để tạo ra sự khơng cơng bằng cho những cá nhân, những nhóm khác trong
xã hội.
- Sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị:
Chính trị có thể tạo ra những quyền lực đặc biệt cho những cá nhân, các
nhóm trong xã hội. Nếu cá nhân nắm giữ chức vụ nhất định trong hệ thống chính
trị sẽ có những cơ hội thuận lợi hơn người khác.
=> Ví dụ, người làm cơng tác lãnh đạo, “có chân” trong bộ máy chính quyền sẽ có
cơ hội hơn để thăng tiến và có thu nhập cao hơn so với người không nằm trong bộ
máy quản lý.
- Sự khác nhau về văn hố:
Những giá trị văn hố cũng có thể góp phần tạo ra sự bất bình đẳng trong xã
hội giữa các cá nhân, các nhóm. Có những giá trị văn hoá làm hạn chế khả năng
tiếp cận những cơ hội tốt trong cuộc sống của con người và ngược lại.
Ví dụ, người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trước đây bị quan
niệm là những người chỉ làm việc trong gia đình, khơng được tiếp xúc xã hội
nên khơng có điều kiện, cơ hội để tiến bộ, họ ln bị trói chặt vào gia đình,
phụ thuộc vào gia đình. Ngày nay, phụ nữ đã được giải phóng nên họ có cơ
hội để phát triển, tiến bộ, đóng góp nhiều cho xã hội và bình đẳng hơn với
mọi người
Chương 2: Một số dạng bất bình đẳng xã hội và thực trạng
bất bình đẳng xã hội ở Việt Nam
1.Bất bình đẳng giới:
Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự
tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ hưởng các nguồn lực. Sự phân biệt đối xử giữa
nam giới và phụ nữ, tư tưởng trọng nam khinh nữ có thể xem như yếu tố ảnh
hưởng rất lớn tới hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Những quan niệm xã hội về thân phận người phụ nữ là tài sản của người đàn
ông hay mọi quyền lực thuộc về đàn ông đã khiến cho nam giới xem như cách ứng
xử của họ với phụ nữ thế nào là quyền của nam giới trong gia đình.
Với tính gia trưởng, nam giới tự cho mình có quyền “dạy vợ”, nam giới có
quyền địi hỏi vợ con phục vụ, thực hiện những yêu cầu của mình. Người phụ nữ
với vị thế lệ thuộc, phải phục tùng, làm theo. Nếu trái ý hoặc chậm trễ họ dễ bị
người chồng đối xử thô bạo, xúc phạm nhân phẩm.
Thực tế phụ nữ cũng như đàn ông, họ sinh ra, lớn lên đều là con người. Họ
cần được bình đẳng với nam giới về nhiều khía cạnh. Khơng có sự khác biệt gì
giữa nam và nữ ở góc độ giới, nếu có chăng thì chỉ là sự khác biệt về giới tính.
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc
điểm, vị trí, vai trị, về năng lực của nam hoặc nữ vì vậy định kiến giới cũng là một
trong những nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình.
Ví dụ : Việc người vợ “khơng chung thủy” (45%) hoặc “khơng chăm sóc con cái”
(27%). Những quan điểm này được nhóm phụ nữ có trình độ học vấn thấp và phụ
nữ sống ở khu vực nông thơn ủng hộ nhiều hơn so với nhóm phụ nữ sống ở khu
vực thành thị.
Trong gia đình truyền thống, ơng bà, cha mẹ truyền dạy cho cháu con những
nguyên mẫu về các quan niệm và hành vi mong đợi được cho là thích hợp đối với
mỗi giới và các kỳ vọng của xã hội đối với nam giới và nữ giới. Chẳng hạn, quan
niệm chung về đặc điểm tính cách của nữ giới là dịu dàng, nam giới là mạnh mẽ,
quyết đoán.
Do vậy, phụ nữ được quan niệm là gắn liền với vai trò của người mẹ, người
vợ, người nội trợ, là người phụ thuộc không quan tâm đến việc họ có thu nhập cao
hay thấp; nam giới trở thành trụ cột về kinh tế, là tấm gương đạo đức, là chỗ dựa
về tinh thần của phụ nữ và trẻ em, là người chủ gia đình, đại diện cho gia đình
trong các quan hệ xã hội và cộng đồng.
Những đặc tính trên của nữ giới hay nam giới thực chất là do xã hội gán cho
hoặc mong đợi các cá nhân nam và nữ thực hiện. Quan niệm trên chính là những
định kiến giới đã tồn tại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những định kiến giới đó đã
dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại phổ biến trong xã hội.Bên cạnh đó,
một phần nguyên nhân của sự bất bình đẳng giới hiện nay là do chính phụ nữ đang
chưa nhận thức được về sự bình đẳng. Theo khảo sát “trong trường hợp vợ không
chung thủy chồng có thể đánh vợ khơng? ” thì có tới 50,5 % phụ nữ đồng ý, trong
khi chỉ có 24,2% nam giới đồng ý.
Hay tại câu hỏi “Chồng có thể đánh vợ khơng khi vợ khơng biết đối xử với
gia đình chồng” thì có đến 12% phụ nữ đồng ý trong khi chỉ có 7% nam giới đồng
tình.
Một biểu hiện của tư tưởng này là sự bất bình đẳng về giáo dục. Theo số liệu
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ học sinh nữ ở cấp tiểu học và trung học sơ sở
thấp hơn học sinh nam, nhất là ở các vùng nông thôn nghèo và vùng dân tộc thiểu
số.Sau mỗi kỳ nghỉ Hè, đặc biệt là sau mỗi cấp học thì các em nam có nhiều cơ hội
quay trở lại học tiếp hơn so với các em nữ. Tỷ lệ trẻ em gái ở các tỉnh miền núi đi
học còn thấp, chủ yếu là các em phải ở nhà giúp gia đình, do trường nội trú ở quá
xa nhà và ở một số nơi vẫn cịn hủ tục tảo hơn.
Biểu hiện thứ hai là việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của
phụ nữ vùng nơng thơn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ lệ tử vong sản phụ
còn cao so với một số nước trong khu vực. Mức giảm tỷ lệ tử vong sản phụ trong
nhiều năm qua còn chậm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số.
Thứ ba là tình trạng phân biệt đối xử giữa bé trai và bé gái. Theo số liệu của
Bộ Y tế, nếu như năm 2015 tỷ số giới tính khi sinh tại nước ta là 112,8 bé trai trên
100 bé gái thì đếm năm 2016, tỷ lệ này đã tới 113,4/100 . Các chuyên gia lo ngại,
nếu tỷ số giới tính tiếp tục gia tăng và ngày càng lan rộng như hiện nay thì vấn đề
về mất cân bằng giới của Việt Nam trong 20-25 năm sau là hết sức nghiêm trọng.
Biểu hiện thứ tư là bất bình đẳng giới trong các hoạt động dân số - kế hoạch
hóa gia đình và sức khỏe sinh sản. Vai trò của nam giới tham gia KHHGĐ còn hạn
chế, phụ nữ được coi là người phải chịu trách nhiệm thực hiện KHHGĐ. Dĩ nhiên,
việc mang thai và sinh đẻ là thiên chức của người phụ nữ. Song trên thực tế, mang
thai khi nào và sinh bao nhiêu con lại thường do người chồng hoặc gia đình chồng
quyết định, có hay khơng sử dụng biện pháp tránh thai để giãn khoảng cách sinh
hoặc không sinh con cũng thường do người chồng, gia đình chồng quyết định.
Biểu hiện thứ năm là bất bình đẳng giới trên thị trường lao động và trong thu
nhập. Khi tiếp nhận một lao động nữ trẻ thì các chủ doanh nghiệp thường e ngại về
thời gian 6 tháng nghỉ thai sản. Nhiều doanh nghiệp buộc lao động nữ ký thêm một
phụ lục trong hợp đồng lao động là không được mang thai trong thời gian 2 năm
đầu làm việc. Từ đó dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp thích tuyển lao động
nam dù khả năng làm việc của họ thua kém nữ giới. Còn về thu nhập, theo số liệu
báo cáo của Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội) năm 2017,
mức lương bình quân hằng tháng của lao động nữ khoảng 4,58 triệu đồng, thấp
hơn so với lao động nam (5,19 triệu đồng). Điều này không hẳn là do chủ doanh
nghiệp cố ý trả lương cho lao động nữ thấp hơn nam giới khi làm cùng một cơng
việc. Lý do chính là vì phụ nữ phải chăm sóc con, đảm đang việc gia đình nên ngày
cơng khơng cao bằng nam giới.
Biểu hiện thứ sáu là bất bình đẳng giới về vị thế xã hội, sở hữu tài sản. Nam
giới chiếm ưu thế trong kiểm soát đất đai và các tài sản giá trị cao. Hầu hết các
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp mang tên chủ hộ là nam giới. Tình
trạng này có thể khiến phụ nữ bị mất quyền sở hữu trong trường hợp ly hôn hay
hưởng thừa kế. Nam giới thường ra quyết định về đầu tư kinh doanh của hộ gia
đình và việc sử dụng thu nhập. Hạn chế trong sở hữu tài sản làm giảm khả năng
tiếp cận của phụ nữ tới các cơ hội tín dụng và đầu tư…
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội nước CH XHCN Việt Nam khoá XII
thơng qua vào ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7 năm 2007. Luật
quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới. Mục tiêu là xoá bỏ phân biệt đối
xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và
phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết
lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và gia đình.Từ năm 2007 đến nay nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về
bình đẳng giới, xóa bỏ khoảng cách giới, đặc biệt là trong lĩnh vực lao động, việc
làm, chăm sóc sức khỏe, giáo dục... Chỉ tiêu nữ làm chủ doanh nghiệp đạt 27,8%
năm 2017, cao nhất khu vực Đông Nam Á và xếp thứ 19/54 trong bảng chỉ số xếp
hạng.
2.Bất bình đẳng về thu nhập:
Một trong những vấn đề xã hội quan trọng nhất liên quan đến phát triển
nhanh là bất bình đẳng về thu nhập. Cần nhấn mạnh rằng không phải tất cả hiện
tượng bất bình đẳng đều khơng tốt, vì ln có sự đánh đổi giữa tăng trưởng và bình
đẳng. Trong một xã hội hồn tồn bình đẳng hay một xã hội bất bình đẳng cao độ
đều có rất ít động lực để các cá nhân vươn lên tầng lớp trên. Ngồi ra, do có sự
khác biệt giữa bất bình đẳng dựa trên nỗ lực và bất bình đẳng dựa vào hồn cảnh,
trong khi hoạch định chính sách, những đánh giá là rất quan trọng để quyết định
xem bình đẳng nào là cần thiết, bình đẳng nào cần loại bỏ vì ranh giới giữa chúng
đơi khi rất mong manh.
- Bất bình đẳng thunhập là sự chênh lệch lớn về phân phối thu nhập, với phần lớn
tổng thu nhập trong nền kinh tế tập trung trong tay một nhóm người chiếm tỉ lệ nhỏ
trong tổng dân số. Khi xảy ra bất bình đẳng thu nhập, có một khoảng cách lớn giữa
tài sản và sự giàu có của một phân khúc dân số so với phân khúc dân số còn lại.
- Bản chất của bất bình đẳng thu nhập: Cơ sở căn bản để nghiên cứu bất bình đẳng
thu nhập và chênh lệch thu nhập là phân phối thu nhập theo phân khúc nhân khẩu
học.
- Các loại phân khúc thu nhập khác nhau được nghiên cứu khi phân tích bất bình
đẳng thu nhập có thể bao gồm các phân phối cho:
+ Nam so với nữ
+ Dân tộc
+ Vị trí địa lí
+ Nghề nghiệp
+ Thu nhập trong quá khứ
Mức độ bất bình đẳng thu nhập của quốc gia hiện nay dựa trên các thước đo
như hệ số GINI, hệ số chênh lệch giàu nghèo,... Thông qua hệ số GINI của Việt
Nam trong giai đoạn 2006 - 2018 cho thấy, bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam
biến động không nhiều, nằm trong khoảng 0,424 đến 0,436; trong đó khu vực
thành thị có xu hướng giảm, khu vực nơng thơn có xu hướng tăng và ln cao hơn
ở thành thị.
Bảng 1. Bất bình đẳng thu nhập thông qua hệ số GINI tại Việt Nam giai đoạn
2006-2018
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Số liệu Bảng 1 cho thấy, trước năm 2010, hệ số GINI ở thành thị cao hơn ở
nông thôn, sau năm 2010 hệ số GINI ở nông thôn cao hơn ở thành thị, cho thấy xu
hướng bất bình đẳng thu nhập ở khu vực thành thị có xu hướng giảm cịn ở nơng
thơn có xu hướng tăng. Theo báo cáo “Wealth Distribution and Income Inequality
by Country 2018”, hệ số GINI của Việt Nam là 0,424 ở mức trung bình so với các
quốc gia khác trong khu vực. Theo Cornia và Court (2001), hệ số GINI trong
khoảng 0,30 - 0,45 là nằm trong ngưỡng an toàn và hiệu quả, phù hợp cho tăng
trưởng cao. Theo đó, có thể khẳng định bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam hiện
nay vẫn nằm trong phạm vi an toàn, nhưng trong dài hạn có xu hướng tăng lên nếu
Việt Nam khơng có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề này.
Biểu đồ 1: Hệ số GINI của các vùng kinh tế giai đoạn 2006 -2018
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Biểu đồ 1 cho thấy hệ số GINI tại các vùng kinh tế có những biến động tăng
giảm ở các năm khác nhau, nhưng đều có xu hướng giảm dần. So với các khu vực
khác, Đông Nam Bộ là khu vực kinh tế phát triển có tốc độ phát triển cao nhất so
với các khu vực còn lại, hệ số GINI có tốc độ giảm mạnh nhất so với các khu vực
khác, khoảng cách về bất bình đẳng thu nhập ở khu này ngày càng được thu hẹp.
Mức độ bất bình đẳng thu nhập cịn được thể hiện thu nhập của các nhóm và chênh
lệch giữa thu nhập của nhóm 1 và nhóm 5.
Bảng 2. Thu nhập bình qn đầu người/tháng phân theo 5 nhóm thu nhập của
Việt Nam giai đoạn 2006 - 2018
Đơn vị: Nghìn đồng
Ghi chú: (1) Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1; (2) Số lần chênh lệch
thu nhập giữa nhóm 5 (giàu nhất) và nhóm 1 (nghèo nhất)
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Báo cáo hàng quý của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội
Bảng 2 cho thấy, thu nhập bình quân/tháng ở cả 5 nhóm thu nhập đều tăng
qua các năm, trong đó thu nhập bình qn đầu người một tháng năm 2018 gấp 3,78
lần so với năm 2008. Năm 2008, thu nhập nhóm 5 gấp 8,9 lần so với nhóm 1. Tuy
nhiên đến năm 2018 thu nhập nhóm 5 gấp 9,86 lần so với nhóm 1 cho thấy khoảng
cách thu nhập giữa các nhóm ngày càng xa, bất bình đẳng thu nhập giai đoạn này
có xu hướng gia tăng khá nhanh, chứng tỏ Việt Nam đang dần trở thành nước có
chênh lệch giàu nghèo cao. So sánh thu nhập năm 2018 và 2008 cho thấy, nhóm 1
là nhóm có mức độ tăng thu nhập chậm nhất (tăng 3,38 lần) so với các nhóm cịn
lại. Tốc độ tăng trưởng ở nhóm 1 vẫn thấp hơn nhóm 5 đã khiến cho khoảng cách
thu nhập trong xã hội gia tăng. Sự chênh lệch tuyệt đối về thu nhập giữa những
người giàu nhất và những người nghèo nhất đang là một thách thức của mục tiêu
phát triển theo hướng đảm bảo công bằng xã hội.
Bảng 3. Thu nhập bình quân/người/tháng khu vực thành thị và nơng thơn
phân theo 5 nhóm thu nhập của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2018
Đơn vị: Nghìn đồng
Ghi chú: (1) Khoảng cách nhóm 5 và nhóm 1; (2) Số lần chênh lệch giữa nhóm 5
và nhóm 1
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Báo cáo hàng quý của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội
Số liệu Bảng 3 cho thấy, thu nhập ở cả thành thị và nông thôn đều có xu
hướng tăng, hệ số chênh lệch giữa hai khu vực này đang có xu hướng giảm xuống.
Chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1 ở thành thị thấp nhất là 7,41
lần và cao nhất là 8,28 lần và có xu hướng ngày càng giảm; ở khu vực nông thôn
thấp nhất là 6,91 lần và cao nhất là 9 lần và sự chênh lệch này có xu hướng tăng
lên. Ở khu vực nông thôn, khi kinh tế ngày càng phát triển, sự thay đổi về cơ cấu
lao động trong các ngành nghề ở khu vực này ngày càng lớn dẫn đến khoảng cách
thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1 ngày càng lớn. Số lần chênh lệch thu nhập giữa
nhóm 5 và nhóm 1 ở khu vực thành thị có xu hướng giảm, ở nơng thơn có xu
hướng tăng, cho thấy mức bất bình đẳng thu nhập trong khu vực nông thôn cao
hơn khu vực thành thị khi nền kinh tế phát triển.
Bảng 4. Tỷ lệ hộ nghèo phân theo khu vực thành thị, nông thôn giai đoạn 2006
-2018 của Việt Nam
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Báo cáo hàng quý của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội
Số liệu Bảng 4 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh qua các năm. Năm 2006
cả nước có 15,5% số hộ nghèo, đến 2018 giảm xuống cịn 5,35%. Khu vực thành
thị có tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hơn khu vực nơng thơn, chứng tỏ bất bình đẳng
thu nhập giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị khá lớn.
Theo Tổng cục Thống kê, do bị ảnh hưởng bởi dịch Covid 19, so sánh quý
I/2020 với quý I/2019 thì số doanh nghiệp thành lập mới giảm, số doanh nghiệp
xin tạm dừng hoạt động, giải thể tăng lên; các doanh nghiệp đang hoạt động gặp
nhiều khó khăn chiếm khoảng 84,8% doanh nghiệp, có gần 67% doanh nghiệp đã
thực hiện số giải pháp về lao động, như: cắt giảm lao động, cho lao động giãn việc,
nghỉ luân phiên, nghỉ không lương, giảm lương.
Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I/2020 là gần 1,1 triệu
người, tăng 26,1 nghìn người so với quý trước và tăng 26,8 nghìn người so với q
I/2019. Tính đến tháng 4/2020, gần 5 triệu lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Lao động trong các doanh nghiệp và hợp tác xã tạm nghỉ việc chiếm gần 59%; lao
động bị giãn việc hoặc nghỉ luân phiên chiếm gần 28% và lao động bị mất việc
chiếm gần 13%. Trong đó, lao động tạm nghỉ việc trong ngành Vận tải kho bãi và
ngành Giáo dục và đào tạo chiếm cao nhất, chiếm trên 70% tổng số lao động của
ngành. Ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ ăn uống có tỷ trọng lao
động bị mất việc, bỏ việc cao nhất trong tổng số lao động bị ảnh hưởng so với các
ngành khác, chiếm gần 20% tại mỗi ngành.
3.Bất bình đẳng theo dân tộc và theo vùng:
Bất bình đẳng theo chiều ngang hay theo nhóm cũng là một thách thức lớn ở
Việt Nam và đang cản trở công cuộc xóa nghèo và giảm bất bình đẳng nói chung
trên cả nước. Những khác biệt đáng kể đang tồn tại giữa các vùng và các nhóm dân
tộc khác nhau sống tại đây.
Khác biệt đáng kể đầu tiên là giữa các vùng thành thị và nông thôn: theo số
liệu KSMSDC năm 2012, 5,4% dân số thành thị sống dưới chuẩn nghèo, so với
22,1% dân số nơng thơn. Hình 5 cho thấy, khoảng sách thu nhập tuyệt đối tính theo
đầu người giữa các hộ thành thị và nông thôn tăng từ 4.754.000 VND (220 USD)
năm 2004 lên 6.344.000 VND (310 USD) năm 2014. Dân số thành thị chỉ chiếm
29,6% tổng dân số nhưng chiếm tới 51,9% nhóm thu nhập cao.
Bằng chứng cũng cho thấy giảm nghèo và lợi ích của tăng trưởng phân bổ
khơng đều trên cả nước, bất bình đẳng thu nhập tăng giữa các vùng và, trong chừng
mực nhất định, trong nội bộ vùng. Nếu tính theo vùng, Đồng bằng Sông Hồng và
Đông Nam Bộ được xem là chiếm số đơng trong các nhóm thu nhập trung bình,
trong khi Đồng bằng sơng Cửu Long chiếm số đơng trong nhóm cận nghèo. Tây
Bắc và Tây Ngun là hai vùng có đơng người nghèo. Theo KSMSDC 2012, Đơng
Nam Bộ có mức thu nhập hàng tháng tính theo đầu người cao nhất cả nước
(3.016.000 VND hay 150 USD), cao hơn gấp ba lần thu nhập hàng tháng bình quân
ở Tây Bắc (999.000 VND hay 50 USD). Hình 1 thể hiện tỷ lệ nghèo theo vùng ở
Việt Nam giai đoạn 2010-2014.
Hình 1: Tỷ lệ nghèo theo vùng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014
Nguồn:
NHTG tại Vietnam 2015. Phân tích Hệ thống ở Việt Nam – Ưu tiên Giảm Nghèo,
Thịnh vượng Chung và Bền vững
Số liệu KSMSDC (2004-2014) và nghiên cứu mới đây của Oxfam (2016)
cho thấy các hộ ở Đông Nam Bộ, vùng giàu nhất Việt Nam, có mức độ dịch
chuyển thu nhập cao nhất giữa các vùng. So với các hộ ở Đồng bằng Sơng Hồng
(nhóm tham chiếu), các hộ ở Đơng Bắc, Dun hải Nam Trung Bộ và Tây Ngun
ít có khả năng hơn thốt khỏi nhóm ngũ phân vị thấp nhất. Các hộ ở Đơng Nam Bộ
có nhiều khả năng hơn thốt khỏi nhóm 40% thu nhập thấp hơn. Về khả năng
chuyển xuống nhóm dưới, các hộ ở Duyên hải Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có
nhiều khả năng hơn rớt khỏi các nhóm ngũ phân vị thu nhập cao.
Các khác biệt theo vùng này cũng do các yếu tố dân tộc ở Việt Nam tạo ra.
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc, gồm 54 dân tộc, trong đó nhóm đa số là
người Kinh chiếm 85% dân số. Người Kinh có xu hướng sống ở các vùng đồng
bằng, và có mức sống cao hơn các nhóm DTTS khác. Người Hoa cũng là nhóm
khá giả và thường sống ở các vùng đồng bằng. Do đó, người Hoa thường được
nhóm chung với người Kinh trong các nghiên cứu mức sống hộ gia đình, dù họ có
thể vẫn chịu một số phân biệt đối xử do khác biệt dân tộc ở một số khía cạnh.
Tình trạng nghèo thu nhập ở các nhóm DTTS cao hơn rất nhiều. Các nhóm
DTTS chiếm chưa đầy 15% dân số cả nước nhưng chiếm tới 70% số người nghèo
cùng cực. Kết quả điều tra nghèo của Bộ Lao động, thương binh và xã hội năm
2014 cho thấy, tỷ lệ nghèo ở DTTS cao tới 46,6%, so với 9,9% ở các nhóm Kinh
và Hoa. Trẻ em DTTS có nguy cơ nghèo cao hơn (khoảng 62-78%) so với trẻ em
Kinh hay Hoa (24-28%). Năm 2006, khả năng thuộc nhóm ngũ phân vị nghèo nhất
của các hộ có chủ hộ DTTS ở Việt Nam cao gấp 3,2 lần so với các hộ có chủ hộ
dân tộc đa số, xác suất này tăng lên 3,5 lần vào năm 2011.
Khoảng cách chuyển dịch thu nhập giữa các nhóm dân tộc cũng lớn, và có những
dấu hiệu cho thấy khoảng cách này đang tăng theo thời gian. Trong khoảng thời
gian 2010-2014, khoảng 19% DTTS thuộc nhóm ngũ phân vị thu nhập thấp nhất
chuyển lên nhóm ngũ phân vị thu nhập cao hơn, trong khi con số này ở nhóm Kinh
và Hoa là 49%. Ngồi ra, các nhóm DTTS có nhiều khả năng rớt xuống nhóm thu
nhập thấp hơn trong khi lại ít khả năng chuyển lên nhóm thu nhập cao hơn, so với
các nhóm Kinh/Hoa.
Hình 2 cho thấy cả khoảng cách thu nhập tuyệt đối và tương đối giữa nhóm
Kinh/Hoa và các nhóm dân tộc khác tăng theo thời gian. Tỷ lệ thu nhập theo đầu
người của nhóm Kinh/Hoa so với các nhóm dân tộc khác tăng từ 2,1 năm 2004 lên
2,3 năm 2014.
Hình 2: Thu nhập theo đầu người phân theo dân tộc và khu vực
Nguồn: Nguyễn Việt Cường 2016, ước tính từ KSMSDC 2004-2014
4.Bất bình đẳng về tiếng nói:
Bất bình đẳng về thu nhập và khả năng tiếp cận các dịch vụ công như y tế và
giáo dục còn trở nên phức tạp và dai dẳng hơn một phần bởi những người thiệt thịi
khơng thể lên tiếng địi hỏi dễ dàng như những người khác. Họ vào đời với ít cơ
hội hơn và chu kỳ này lại càng được củng cố và tiếp diễn ở giai đoạn sau trong
cuộc đời họ.
Nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy các nhóm thiệt thịi thiếu hiểu biết về
quyền và có rất ít khơng gian để lên tiếng về quyền của mình. Các nhóm này thiếu
khả năng tiếp cận thông tin về pháp luật, dịch vụ, thị trường, đất đai, bầu cử, và bị
hạn chế quyền tự do biểu đạt. Họ cũng bị hạn chế tham gia và gây ảnh hưởng trong
quá trình ra quyết định, và theo dõi việc thực thi luật pháp.
Ví dụ, nơng dân quy mơ nhỏ ít có tiếng nói trong thị trường hay quyết định chính
trị. Mặc dù có một số tổ chức đứng ra bảo trợ cho nông dân, nhưng hầu hết các tổ
chức này không thể phát triển mạng lưới hay tự tổ chức để có tiếng nói tập thể
nhằm gây ảnh hưởng tới các chủ thể khác trong chuỗi giá trị. Nhìn chung, họ thiếu
khả năng thương lượng với doanh nghiệp, khiến phải chịu thiệt thòi lớn về sinh kế
và thu nhập.
Các nhóm thiệt thịi có tiếng nói rất hạn chế trong việc ra quyết định và đời
sống chính trị. Nghiên cứu của Oxfam về sự tham gia của người dân vào việc ra
quyết định và đời sống chính trị ở Việt Nam (2015) cho thấy sự tham gia tương đối
thấp, kể cả trong vấn đề đất đai vẫn được xem là đề tài nóng được dư luận quan
tâm. Thực tế này cho thấy những lo ngại của người dân không được chuyển thành
các hoạt động tham gia dân sự, đặt ra các vấn đề về thiếu niềm tin và thái độ thờ ơ.
Việc giám sát của công dân đối với hoạt động của chính quyền địa phương thơng
qua các cơ cấu giải trình trách nhiệm theo chiều dọc hiện đang là phần yếu nhất
của tham gia trực tiếp. Sự tham gia của người dân thường bị hạn chế bởi các tệ
quan liêu cứng nhắc, năng lực hạn chế, thái độ thâm căn cố đế, và việc thiếu các
chiến lược và công cụ thực tế cho phép đối thoại hai chiều với người dân mà luật
đã qui định. Theo cách nhìn cơng chức, người dân lãnh đạm và thờ ơ với thơng tin
được cơng bố qua hệ thống chính quyền địa phương. Cơ hội tham gia thì có nhưng
có thể chưa bình đẳng để tạo ảnh hưởng thực sự tới công tác quản trị nhà nước, dù
sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước và sự minh bạch trong phản hồi ý
kiến người dân đã được nêu trong Hiến pháp 2013 (Điều 28). Đa phần sự tham gia