MỞ ĐẦU
Vấn đề nhân cách được coi là một trong những vấn đề cơ bản song cũng
là một vấn đề phức tạp nhất của khoa học tâm lý nói riêng và khoa học xã hội và
nhân văn nói chung. Thực tiễn cho thấy rằng, giải quyết đúng vấn đề nhân cách
sẽ cho phép giải quyết được những vấn đề khác của tâm lý học và của nhiều lĩnh
vực đời sống như triết học, xã hội học, kinh tế, chính trị học, luật học, tâm lý
học, y học, giáo dục…Trong quá trình nghiên cứu về nhân cách, vấn đề đầu tiên
mà chúng ta cần phải nghiên cứu đó chính là sự hình thành và phát triển nhân
cách.
Nhân cách là đỉnh cao nhất của sự phát triển tâm lý ở con người, của tự ý
thức và điểu chỉnh bản thân. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện nay, nhân tố con người trở thành nhân tố trở nên cấp bách thì những
vấn đề nhân cách cần được đặt ra một cách cấp thiết. Sự hiểu biết về nhân cách
chính là tiền đề để việc đầu tư có hiệu quả vào sự phát triển con người - yếu tố
quyết định mọi sự phát triển trong xã hội. Việc giải quyết đúng vấn đề nhân cách
sẽ cho phép giải quyết được những vấn đề khác của tâm lý học và của nhiều lĩnh
vực khác trong đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, những
chuẩn mực về nhân cách đang có sự thay đổi. Vì vậy, sự hình thành và phát triển
nhân cách cũng ngày một thể hiện rõ nét hơn và có tác động hai mặt. Do vậy,
vấn đề xây dựng và hồn thiện nhân cách khơng cịn là vấn đề của riêng từng cá
nhân, mà còn là sự chung tay, nỗ lực của xã hội. Trong đó, nhiệm vụ nghiên cứu
các động lực thúc đẩy sự phát triển của nhân cách là nhiệm vụ quan trọng trong
quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
Do vậy, tôi xin chọn “Các động lực thúc đẩy sự phát triển nhân cách vận dụng trong xây dựng nhân cách học viên nhà trường quân đội” để làm
đề tài tiểu luận môn Tâm lý học nhân cách.
3
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về sự hình thành và phát triển nhân cách con
người
Khi nhìn nhận và đánh giá một quốc gia một khu vực nào đó trên thế giới,
về mức độ phát triển cao hay thấp, giàu hay nghèo thì trước hết chúng ta phải
xem xét về nền giáo dục của quốc gia khu vực đó, quả thực vấn đề giáo dục là
một vấn đề rất quan trọng, mà bất cứ một quốc gia nào, khu vực nào trên thế
giới, cũng phải đầu tư và quan tâm hàng đầu. Bởi giáo dục và đào tạo là tạo ra
những đội ngũ tri thức, công nhân, học sinh, giáo dục để tạo điệu kiện cho con
người ngày càng hồn thiện nhân cách của mình …
Đó chính là nguồn nhân lực dồi dào, tạo cho con người có cả ý thức, tri
thức, đạo đức năng lực phẩm chất nhân cách, để bổ sung vào sự nghiệp xây
dựng đất nước ngày càng phát triển hơn, cả về kinh tế, văn hố, xã hội.
Trải qua hàng nghìn đời vấn đề giáo dục ở Việt Nam ngày càng được phát
triển và được Đảng Nhà nước ta quan tâm hàng đầu. Nhất là giáo dục ở vùng
sâu, vùng xa, vùng núi cao và hải đảo những nơi mà nền kinh tế, văn hoá chưa
phát triển, để sao cho mặt bằng dân trí giữa các vùng, các tỉnh thành khơng có sự
cách biệt q xa về trình độ văn hố, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nước
ta đang hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng xã hội, xã hội chủ nghĩa ngày càng
giàu đẹp văn minh lịch sự, thì sự nghiệp giáo dục là một vấn đề quan trọng và
được quan tâm hàng đầu, trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất
nước, và xây dựng đất nước ngày càng phát triển hơn.
Bên cạnh đào tạo đội ngũ tri thức, cơng nhân lành nghề, thì cần giáo dục
cái tâm u nghề, năng lực đạo đức. Theo ứng xử giữa con người, để con người
từ một cá thể sinh học trở thành một nhân cách sống trong mỗi con người, bởi
tài và đức phải luôn đi đôi với nhau, không tách rời nhau thì mới có thể đem lại
hiệu quả tốt trong công việc và trong giao tiếp ứng xử con người với con người.
1.1. Khái niệm:
1.1.1. Khái niệm nhân cách.
Ngày nay vấn đề nhân cách được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu trong quá trình phát triển của các khoa học đặc biệt là các khoa học xã hội,
đòi hỏi phải nghiên cứu nhân cách, trong xã hội loài người có quan hệ lẫn nhau,
4
và con người là trung tâm của các mối quan hệ, vì vậy con người phải được thể
hiện như là một nhân cách.
Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với xây dựng nhân
cách phát triển hài hồ, đó là địi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng con
người đạo đức trí tuệ, trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nhân cách là một cấu tạo trọn vẹn thuộc loại đặc biệt, nhân cách không
phải là chỉnh thể được chế định theo kiểu di truyền tức là “người ta sinh ra
không phải là nhân cách người mà người ta phải trở thành một nhân cách”.
“Nhân cách là một sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển xã hội lịch sử và
của sự tiến hoá cá thể con người” nhân cách là một cấu tạo chuyên biệt của con
người mà không thể rút ra từ hoạt động thích ứng của nó, cũng khơng thể từ hoạt
động đó mà rút ra ý thức của con người hay nhu cầu.
Hiện nay về mặt tâm lý học người ta chú ý đến vấn đề sau đây về nhân
cách: bản chất nhân cách, cấu trúc nhân cách, các yếu tố hình thành nhân cách,
các cơ chế hình thành nhân cách, các phương pháp nghiên cứu nhân cách, vị trí
của tâm lý học nhân cách trong hệ thống khoa học khác. Nhưng ở đây tôi chỉ đề
cập đến vấn đề khái niệm nhân cách, hay bản chất nhân cách trước hết điểm qua
một số quan điểm về nhân cách như:
Quan điểm cho bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay nói cách
khác là sinh vật hố bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản năng tình
dục (S.Freud) là đặc điểm của hình thể (Krestchmer) …
Bản chất nhân cách là tính con người (trường phái nhân văn đại diện là
C.Rogers, A. Maslow…Những người ở trường phái này đều quan tâm đến giá trị
tiềm năng bẩm sinh của con người. A. Maslow cho rằng xã hội nằm trong bản
năng con người, những nhu cầu như giao tiếp, tình u kính trọng đều có tính
bản năng… đặc trưng cho giống người, nhân cách là động cơ tự động điều hành
(G. Allport) những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh vật của con
người, phủ nhận bản chất của nhận bản chất xã hội của nhân cách.
Nhân cách đồng nghĩa với khái niệm con người, K.K.Platonov nhân cách
con người có ý thức, cịn con người có tâm lý từ khi có ngơn ngữ lao động, quan
điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất của con người, mà không chú ý
đến đặc cái đặc thù riêng, cái riêng của nhân cách.
Nhân cách được hiểu như cá nhân con người với tư cách là chủ thể của
mỗi quan hệ và hoạt động có ý thức (A.Gkovalev, X.Ikon) hiện nay quan điểm
5
này được đa số các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá nhân,
cá thể so với tập thể xã hội.
Nhân cách cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mụĩ quan hệ sơng
của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó. K.Obuchowxki định
nghĩa nhân cách như sau. Nhân cách là sự tổ chức những thuộc tính tâm lý của
con người có tính chất điểu kiện lịch sủ xã hội, ý nghĩa của nó cho phép giải
thích và dự đoán hành động cơ bản của con người.
Từ các quan niệm nhân cách cơ bản trên, cho đến nay vẫn chưa có trường
phái nào giải quyết thoả đáng vấn đề bản chất của nhân cách.
Các nhà tâm lý học cho rằng khái niệm nhân cách là phạm trù xã hội và
có bản chất xã hội lịch sử” Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc
tính tâm lý, biểu hiện bản sắc và giá trị của con người”
Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân
cách thì chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song cách
hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng
lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ, yêu
nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người.
Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong cuốn tâm lý học đại cương
(Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như sau: Nhân
cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện
bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hồ khơng phải các
đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người
như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt
cách làm người của mỗi cá nhân.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng
hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm
quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã
hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Đây là định nghĩa về nhân cách được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam.
6
Như vậy nhân cách là sự tổng hồ, khơng phải là những đặc điểm của con
người. Mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của
xã hội nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Qua khái niệm về nhân cách trên chúng ta thấy nhân cách có một số đặc
điểm sau.
Tính thống nhất: Thống nhất giữa lời nói và việc làm, thống nhất, giữa đạo
đức và tài, giữa ý thức và hành động, hành vi ứng xử trong cộng đồng, nhóm.
Tính ổn định: nhân cách con người là quá trình hình thành từ từ, nhân
cách là tổ hợp các thuộc tính ổn định, tiềm tàng của cá nhân, nó khó hình thành
mà nó cũng khó mất đi.
Tính tích cực của nhân cách: Nhân cách của con người là chủ thể của
hoạt động và giao lưu các mối quan hệ giữa người này và người khác.
Nhân cách con người luôn cải tạo thế giới khách quan và biến thế giới
khách quan thành sản phẩm phục vụ cho con người, khơng phải ai cũng có mà
chỉ có ở người có nhân cách mới có.
Tính giao lưu: Nhân cách của con người có thể tồn tại và phát triển thông
qua hoạt động và giao lưu với người khác và nhờ đó con người tiếp thu, lĩnh hội
các tri thức, kinh nghiệm, văn hố, xã hội của lồi người mà biến thành nhân
cách riêng của mình. Đó chính là bốn đặc điểm của nhân cách nó rất quan trọng
đối với đời sống con người.
1.1.2. Khái niệm con người.
Từ trước đến nay có rất nhiều ngành khoa học nghiên cứu con người chứa
đựng những nội dung khác nhau dựa trên mục đích và phương diện nghiên
cứu,có khái niệm cho rằng:
“Con người là thành viên của một cộng đồng một xã hội, và vừa là thực
thể tự nhiên, và thực thể xã hội”.
Ở định nghĩa về con người được thừa nhận rộng rãi “con người là thực thể
sinh vật - xã hội và văn hoá” cần nghiên cứu con người theo cả ba mặt.
Con người bản năng, coi con người là tồn tại sinh vật, con người từ khi
hình thành là tồn tại sinh vật. Trên thực tế con người có bản năng sinh tồn,
nhưng bản năng của con người khác hẳn bản năng con vật.
Các nhà nghiên cứu cho rằng sự phát triển xã hội loài người “con người
bản năng con người kỹ thuật con người chính trị và con người xã hội” đều nói
lên tiêu chí tâm lý cực kỳ quan trọng của con người. Nói tổng quát hơn, bản chất
7
con người khơng phải là cái gì có sẵn, hay là cái gì nhất thành bất biến, mà bản
chất con người là cái gì đó được hình thành nên hay bộc lộ ra trong cuộc sống
của nó. Trong cuộc sống bằng hoạt động của bản thân, con người mới chịu tác
động của các quan hệ xã hội và nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ đó,
góp phần củng cố, phát triển các quan hệ đó. Tồn bộ tồn tại khách quan xung
quanh con người tác động vào con người thông qua các quan hệ xã hội (quan hệ
sản xuất, quan hệ chính trị, quan hệ giai cấp, quan hệ cộng đồng, quan hệ nhóm.
v.v.), hoặc dưới hình thức của các quan hệ xã hội mà tác động vào con người.
Ngược lại, con người có tác động trở lại vào tồn tại khách quan (môi trường tự
nhiên, môi trường sinh sống, gia đình, các quan hệ, thể chế xã hội, v.v.). Con
người bao giờ cũng cùng với những người khác (nhóm, cộng đồng, giai cấp, dân
tộc, v.v.) lao động, học tập vui chơi, đấu tranh, xây dựng. Chính trong q trình
học tập, lao động... đó con người thiết lập nên các mối quan hệ xã hội.
Có một số nhà nghiên cứu lo ngại quá nhấn mạnh tính xã hội trong con
người thì coi nhẹ phần thể xác. Hay nói như trong tiếng Việt: nặng về - phần
“Người”, nhẹ về phần "Con". Họ đưa ra quan niệm coi con người là tồn tại sinh
vật - xã hội (có người coi đứa trẻ sơ sinh đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật, và sau
2 tuổi là tồn tại xã hội). Thật ra, quan niệm này khơng khác gì lắm so với quan
niệm coi con người như là “Cây gậy biết nói”. Mới nghe tưởng như đó là một
quan niệm phù hợp với thực tế khách quan: con người có thể xác và có tâm hồn,
có bản năng và có ý thức, có vật chất và có tinh thần... Nhưng thử hỏi con người
có “xác” mà khơng “hồn” thì đâu cịn là con người! ở con người bình thường,
cuộc sống bản năng cũng đã được ý thức hoá, ở con người khơng bình trường,
tức là con người bệnh hoạn, con người sa đọa, con người của bộ máy phát xít,
diệt chủng là những con người trở lại với thú tính, đâu cịn cơ chế “ý thức hố”.
Gần đây, có một số tác giả lại đưa ra quan niệm con người như là “cái
máy có suy nghĩ”, “cái máy biết lựa chọn”, “cái máy biết yêu đương”, các rôbốt.
Đúng là trong hoạt đồng thần kinh của con người cũng như trong cuộc sống của
con người có cơ chế tự điều chỉnh, tự thích nghi, sáng tạo... hết sức hồn thiện
mà khơng có một máy nào sánh kịp, tuy có khoa học phỏng sinh dựa vào cơ thể
một số động vật và người lập mơ hình sáng tạo ra máy móc. Người ta sáng chế
ra máy tính, vi xử lý, máy đánh cờ, máy làm thơ... Có thể một số thao tác hay
cơng việc nào đó trong cuộc sống hàng ngày được chương trình hóa đến khi rất
hợp lý thì thành thói quen tốt, làm cho cuộc sống thoải mái, nhẹ nhàng, ít tốn
8
năng lượng mà hiệu quả lại cao. Nhưng con người vẫn là con người, không phải
là cái máy.
Khác với quan điểm trên, C. Mác đưa ra một quan điểm khoa học về con
người… “Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng, cố hữu của
mỗi cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng
hoà các mối quan hệ xã hội”
Như vậy, con người là một sản phẩm của lịch sử xã hội mang những
phẩm chất thuộc tính có ý nghĩa xã hội được hình thành trong qúa trình tác động
qua lại giữa người với người, trong xã hội con người cũng là chủ thể các hoạt
động, là lực lượng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Có thể nói, con người là nấc thang tiến hoá cao nhất của tự nhiên và là
một thực thể mang bản chất tự nhiên sinh học, mang trong mình sức sống tự
nhiên. C.Mác cũng đã chỉ ra rằng “con người là thực thể tự nhiên”.
1.2. Sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng khi sinh ra con người chưa có nhân cách
“nhân cách cũng khơng có sẵn, phải bằng cách bộc lộ dần dần các bản năng
nguyên thuỷ, mà một lúc nào đó đã bị kiềm chế chèn ép”, chính trong quá trình
sống học tập, lao động, giao lưu, giải trí…Con người đã tự hình thành và phát
triển nhân cách của mình theo quy luật lĩnh hội tri thức và các di sản văn hoá vật
chất và tinh thần của các thế hệ trước để lại trong công cụ lao động thông qua
các hoạt động.
Vậy con người vốn sinh ra chưa có nhân cách mà nhân cách là cấu tạo
mới do mỗi người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp,
học tập, lao động, vui chơi…Nhân cách khơng có sẵn mà bằng cách hoạt động
xã hội con người ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung chứa đựng
trong các mối quan hệ xã hội có liên quan tới hoạt động của trẻ.
Phương pháp giáo dục có hiệu quả là tổ chức cho trẻ hoạt động lĩnh hội
các cái đó để hình thành nhân cách. Lênin nói “cùng với dịng sữa mẹ con người
hấp thụ tâm lý của xã hội mà nó là thành viên” nhân cách của con người hình
thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm, từ các quan hệ với
thế giới tự nhiên và thế giới đồ vật do các thế hệ trước và bản thân tạo ra qua các
mối quan hệ xã hội mà nó gắn bó từ đó nhân cách của con người đã được hình
thành và phát triển. Sự phát triển nhân cách bao gồm: Sự phát triển về mặt thể
9
chất, điều này thấy rõ ở sự phát triển về chiều cao, cân nặng, cơ bắp và sự hoàn
thiện của các giác quan vvv…đó là điều dễ thấy ở mỗi con người.
Sự phát triển về mặt tâm lý, được biểu hiên ở những biến đổi cơ bản,
trong các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu, nếp sống.v.v nhất là ở
sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách con người.
Sự phát triển về mặt xã hội điều này thể hiện rõ ở việc tích cực, tự giác
tham gia vào các mặt khác nhau của đời sống xã hội cũng như có sự thay đổi rõ
nét về ứng xử với những người xung quanh. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng
và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong q trình đổi mới, đó là nhân
cách của con người sáng tạo, năng động, có kỷ luật, kỹ năng, tay nghề cao cũng
như phẩm chất tốt đẹp của nền văn hoá giàu bản sắc dân tộc được đúc kết lại qua
nhiều thế hệ để có được điều đó, thế hệ trẻ Việt Nam trong đó có học sinh, sinh
viên cần trở thành các chủ thể có ý thức đối với các hoạt động như học tập, lao
động, giao lưu, vui chơi giải trí …Cần tự giác thích ứng và chủ động tu dưỡng,
rèn luyện bản thân mình ngay từ khi ngồi ở trên ghế nhà trường để trở thành
nhân cách làm chủ nhân của đất nước.
Sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Con người chịu sự tác
động của nhiều nhân tố khác nhau trong đó có nhân tố sinh học và xã hội, các
nhân tố này tác động tới con người không phải là song song với nhau có giá như
nhau. Chính vì vậy cần phải xem xét đúng đắn nhìn nhận một cách khách quan
khoa học các tác động của di truyền và môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
trong các công tác giáo dục.
1.3. Các động lực thúc đẩy sự phát triển nhân cách
Muốn biết cái gì là động lực thúc đẩy sự phát triển tâm lí, nhân cách trước
hội cần tìm hiểu những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển con người.
Nhìn chung, thường gặp những mâu thuẫn sau đây:
- Mâu thuẫn giữa khả năng, trình độ đạt được (thể chất, tâm lí) với những
yêu cầu của hoạt động. Ví dụ: Trong q trình con người hoạt động, thường gặp
phải những tình huống phát sinh mà những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà con
người có chưa đủ để giải quyết tình huống mới phát sinh đó, lúc đó con người
thường rơi vào bế tắc, nhiều khi khủng hoảng, suy sụp và dễ dẫn đến từ bỏ mục
đích ban đầu mà mình đặt ra. Tuy nhiên, mâu thuẫn đó có thể được giải quyết
khi nhu cầu giải quyết vấn đề thơi thúc con người tích cực học tập, tiếp thu, lĩnh
10
hội những kinh nghiệm của những người xung quanh để vận dụng vào giải quyết
vấn đề của bản thân.
- Mâu thuẫn giữa những yêu cầu mới của hoạt động với những kĩ năng, kĩ
xảo chưa được hình thành. Ví dụ, khi mới bước chân vào môi trường quân đội,
người chiễn sĩ sẽ tiếp cận, làm quen với các loại vũ khí trang bị được biên chế,
lúc này yêu cầu đặt ra là người chiến sĩ phải biết cách sử dụng chũng như thế
nào, đồng nghĩa với việc phải có kỹ năng, kỹ xảo tương ứng để có thể sử dụng
vũ khí trang bị có hiệu quả. Tất nhiên, lúc đầu người chiến sĩ sẽ cảm thấy lúng
túng bởi vì mới tiếp cận. Dưới sự hướng dẫn của người chỉ huy và sự tích cực
lĩnh hội, tiếp thu các yếu lĩnh động tác, dần dần mâu thuẫn được giải quyết khi
các kĩ năng, kĩ xảo mới, tương ứng với hoạt động được hình thành.
- Mâu thuẫn giữa những nề nếp, thói quen, tập quán cũ với những yêu cầu
mới của hoàn cảnh sống và hoạt động. Ví dụ: Khi người thanh niên mới nhập
ngũ thường gặp những khó khăn, trở ngại vì thói quen, nền nếp sinh hoạt ở gia
đình (ngủ muộn, dậy muộn…) không phù hợp với những yêu cầu của hoạt động
quân sự, hoạt động đòi hỏi ở người qn nhân có tính tích cực, tự giác trong
chấp hành các nền nếp, chế độ quy định của quân đội và đơn vị (ăn, ngủ đúng
giờ). Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết sau một thời gian người quân nhân cố
gắng thích nghi với mơi trường qn sự, với các nền nếp, chế độ, quy định. Trở
thành một người quân nhân có thể coi là một bước ngoặt trong cuộc sống của
người quân nhân không chỉ về mặt sinh hoạt, mà điều chủ yếu là sự phát triển về
mặt thể chất, trí tuệ và các phẩm chất nhân cách của một người quân nhân cách
mạng.
- Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập nảy sinh trong quá trình phát triển của
cá nhân. Ví dụ, trong thời kì chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành, ở
thiếu niên xuất hiện “cảm nghĩ mình khơng cịn là trẻ con”, có “xu hướng làm
người lớn”. Song, trên thực tế thiếu niên chưa đủ trưởng thành để tự khẳng định
và được thừa nhận là người lớn. Tính trẻ con và tính người lớn cùng tồn tại là 2
mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn của lứa tuổi, khiến cho tính cách của thiếu niên
đơi khi trở nên thất thường, “bất nhất”. Đến cuối giai đoạn lứa tuổi này, sự phát
triển thể chất, đặc biệt là sự phát dục, bước vào thời kì êm ả, cùng với sự trưởng
thành của một số chức năng tâm lí cấp cao làm cho “tính người lớn” lấn át “tính
trẻ con” tạo nên những biến đổi về chất trong sự hình thành và phát triển nhân
cách, đưa thiếu niên tiến gần tới tuổi trưởng thành.
11
Việc giải quyết tốt các mâu thuẫn sẽ góp phần giúp cho con người phát
triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân trong q trình hoạt động. Để có thể
thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện nhân cách ở mỗi người, có thể kể đến các
yếu tố - động lực thúc đẩy phát triển nhân cách như:
1.3.1. Nhu cầu là động lực phát triển nhân cách
Nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần
những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là
nguồn gốc tính tích cực của cá nhân. Nhu cầu vừa là tiền đề, vừa là kết quả
của hoạt động. Nhu cầu vừa có tính chất vật thể (nhu cầu vật chất) vừa có
tính chức năng (nhu cầu tinh thần). Thoả mãn nhu cầu thực chất là quá trình
con người chiến lĩnh một hình thức hoạt động nhất định trong xã hội. Nhu
cầu thể hiện ở động cơ, cái thúc đẩy con người hoạt động và động cơ trở
thành hình thức thể hiện của nhu cầu.
Nhu cầu được hiểu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân
đối với hồn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả
mãn để tồn tại và phát triển.
Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản sau:
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, chính vì có đối tượng mới có thể
phân biệt được các loại nhu cầu. Tuy nhiên sự tồn tại của đối tượng ấy trong
tâm lí học cá nhân có thể có nhiều mức độ khác nhau. Ở mức thấp, đối
tượng có thể còn “mơ hồ” chưa được xác định thật cụ thể, mà mới chỉ xác
định về loại. Ở mức cao hơn, đối tượng của nhu cầu được phản ánh trong óc
người mang nhu cầu một cách cụ thể hơn. Cuối cùng, đối tượng của nhu cầu
có thể được nhận thức về mặt đặc trưng và về ý nghĩa của nó đối với đời
sống cá nhân. Chính nhờ sự tồn tại đối tượng của nhu cầu trong t âm lí cá
nhân mà cá nhân định hướng được hoạt động của mình trong môi trường
Đặc điểm quan trọng thứ hai là mỗi nhu cầu đều có một nội dung cụ
thể tuỳ theo nó được thoả mãn trong những điều kiện nào và bằng phương
thức nào. Nội dung cụ thể của nhu cầu phụ thuộc vào những điều kiện và
những phương thức thoả mãn nó.
Đặc điểm thứ ba là nhu cầu thường có tính chất chu kì. Khi một nhu
cầu nào đó được thoả mãn, khơng có nghĩa là nhu cầu đó chấm dứt, nếu con
người vẫn sống và phát triển trong những điều kiện và phương thức sinh
hoạt như cũ. Những nhu cầu về ăn, mặc, học tập, giao tiếp với người khác
12
thường xuyên được tái diễn trong cuộc sống. Sự tái diễn đó thường có tính
chất chu kì. Một khi nhu cầu tái hiện là một lần nó được củng cố, phát triển
và phong phú thêm.
1.3.2. Động cơ
Trong tâm lý học, động cơ là một vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm từ rất lâu và có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Song,
tựu chung lại các trường phái tâm lý học đều cho rằng:
Trước hết, động cơ đó là phản ánh tâm lý về đối tượng có khả năng
thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Các nhà tâm lý học khẳng định rằng: nhu cầu
bao giờ cũng là nhu cầu về một điều gì đó, tức là nhu cầu có tính đối tượng.
Song lúc đầu khi ở chủ thể xuất hiện trạng thái cần một cái gì đó thì đối
tượng thoả mãn nhu cầu chưa được xác định rõ. Chỉ khi nhu cầu gặp được
đối tượng có khả năng thoả mãn nó, thì nhu cầu mới đạt được tính đối
tượng. Đối tượng thoả mãn nhu cầu được tri giác tư duy , đạt được khả năng
thúc đẩy và định hướng hoạt động của chủ thể sẽ trở thành động cơ. Vậy,
động cơ đó là tất cả những gì xuất hiện ở cấp độ phản ánh tâm lý thôi thúc
con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu.
Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử xã hội. Bởi
động cơ đặc trưng của con người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát
triển cá thể chứ khơng phải là cái gì đó sẵn có từ lúc đứa trẻ sinh ra. Tính
lịch sử xã hội của động cơ con người còn thể hiện ở chỗ đối tượng thoả mãn
nhu cầu của con người là sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội.
A.N.Leonchiev khẳng định rằng, nhân cách khơng sinh ra mà được hình
thành. Trong quá trình phát triển cá thể, thời điểm xuất hiện nhân cách được gắn
với thời điểm xuất hiện những biểu hiện đầu tiên của tự ý thức, của cuộc đầu
tranh động cơ. Đó là khi đứa trẻ được khoảng 3 tuổi. Ở lứa tuổi này, trẻ đã tự
mình thực hiện được một số hoạt động độc lập, nhờ đó ở chúng dần dần hình
thành thái độ đối với bản thân như với cái tơi độc lập. Đó là biểu hiện đầu tiên
của tự ý thức. Hệ thống động cơ của trẻ lứa tuổi này đã có những biểu hiện đầu
tiên của các mối quan hệ thứ bậc; mặc dù trong phần lớn các trường hợp, các em
vận hành động theo những ham muốn, song những lời khen, chê của người lớn
đã bắt đầu có hiệu lực. Đó cũng là những biểu hiện đầu tiên của cuộc đấu tranh
động cơ.
13
Trong mỗi giai đoạn phát triển tâm lý tiếp theo, sự thay đổi quan hệ và vai
trò chủ đạo của các động cơ khác nhau trong hệ thống động cơ của cá nhân đã
tạo ra cái “mốc" trong quá trình hình thành nhân cách. Về vấn đề có, Leonchiev
nhận định rằng, các bước chuyển tiếp từ giai đoạn phát triển này sang giai đoạn
phát triển khác có đặc điểm là có sự thay đổi của động cơ bên trong mỗi giai
đoạn phát triển và kết quả là xuất hiện những mối quan hệ mới trong toàn bộ hệ
thống, tạo nên những điểm "mốc" trong nhân cách.
3.3. Hệ thống thái độ
Là một trong số các hiện tượng tâm lý, phản ánh hiện thực khách quan,
thái độ là một thuộc tính tâm lý, một thành tố tích cực của ý thức cá thể, là một
quan hệ chủ quan với thế giới được phản ánh và được khách quan hoá bởi tâm
vận động của con người. Nói như vậy, có nghĩa là thái độ chỉ tồn tại và được
biểu hiện ở con người và bởi con người C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhận định
rằng: “Ở nơi đâu có sự tồn tại của một thái độ nào đó, thì đấy là sự tồn tại của
chính tơi".
Chính vì vậy, khi nghiên cứu cề con người, về nhân cách không thể không
nghiên cứu thái độ của họ.
Thái độ là một thuộc tính của nhân cách, do đó, có mối liên hệ với các
thành phần khác trong nhân cách. Khi khẳng định thái độ là một đặc điểm, một
thuộc tính của nhân cách, vơ hình chung, một cách gián tiếp, nói đến tính ổn
định của thái độ. Tuy nhiên, khẳng định như trên không đồng nghĩa với quan
điểm cho rằng thái độ chủ quan của nhân cách là bất biến. Tâm lý học mác xít
cho rằng, thái độ của nhân cách được xây dựng trên cơ sở các mối quan hệ xã
hội (trong đó, quan hệ kinh tế - xã hội giũ vai trò then chốt) thơng qua q trình
hoạt đồng và giao tiếp xã hội của con người. Một khi thời cuộc tình thế... những
điều kiện cơ sở vật chất của hạ tầng cơ sở xã hội thay đổi thì xu hướng phát triển
của nhu cầu, động cơ nhân cách cũng bị tác động và biến đổi theo, dẫn đến sự
thay đổi về thái độ. Theo các tác giả Lester, A.Lertonl thì sự thay đổi về thái độ
của con người với hiện thực khách quan diễn ra nhanh nay chậm, nhiều hay ít
phụ thuộc vào mức độ dân chủ hoá của xã hội, nơi mà con người cụ thể đang
sống.
Thái độ và ý thức cá nhân: Ý thức là hình thức phản ánh t âm lí cao
nhất, đặc trưng của lồi người, là năng lực nhận thức cái phổ biến, cái bản
chất trong hiện thực khách quan, do đó đồng thời là năng lực định hướng,
14
điều khiển một cách tự giác thái độ, hành vi, quan hệ giữa con người với
hoàn cảnh tự nhiên và xã hội.
Thái độ và nhu cầu: Nhu cầu có vị trí quan trọng trong hình thành
nhân cách, là nền tảng của động cơ, mục đích hành động. Sự hình thành mọi
thuộc tính nhân cách đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu.
Quá trình thoả mãn nhu cầu cũng chính là q trình hình thành sự sẵn sàng
hành động, củng cố thái độ cá nhân cũng như các thành phần của nó (nhận
thức, cảm xúc, cử chỉ, hành vi…). Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh
nghiệm của cá nhân trong trường hợp có sự “gặp gỡ” giữa nhu cầu với đối
tượng và điều kiện thoả mãn nhu cầu đó.
Thái độ và hứng thú: Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đới
với đối tượng nào đó vì ý nghĩa của nó trong cuộc sống và sự hấp dẫn tình
cảm của nó. Như vậy, qua quá trình xác định đối tượng và nhận thức đối
tượng, có thể phán xét về thái độ của cá nhân với đối tượng. Hứng thú càng
ổn định, mạnh mẽ thì thái độ càng được củng cố, sự ham muốn tác động tới
đối tượng càng được tăng cường hơn.
Thái độ và tâm thế: "Tâm thế là trạng thái trọn vẹn cơ động của chủ thể,
trạng thái sẵn sàng hành dộng, bị quy định bởi hai yếu tố là nhu cầu của chủ thể
và tình huống khách quan tương ứng. Theo trường phái của Uznadze, tâm thế
được hình thành do có sự gặp gỡ giữa nhu cầu và hồn cảnh có đối tượng thoả
mãn nhu cầu. Tâm thế là khái niệm của tâm lý học đại cương, được các nhà tâm
lý học xã hội sử dụng để biểu đạt "tâm thế xã hội - tương đương attitude (thuật
ngữ mà các nhà tâm lý học phương Tây hay dùng).. Do vậy, giữa thái độ và tâm
thế có một số những điểm trùng nhau nhưng cũng nhiều điểm không giống nhau
về nội hàm. Điểm khơng giống nhau nổi hàm nhất để có thể phân biệt rạch ròi
hai khái niệm là thái (tâm thế chủ quan, thái độ chủ quan của cá nhân) là thuộc
tính tâm lý (chứ khơng phải là trạng thái như tâm thế) được hình thành trong các
hồn cảnh xã hội thơng qua hoạt động và giao tiếp có ý thức, cơ cấu trúc phức
tạp và đa tầng, tham gia vào điều khiển, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Những phẩm chất trên khơng có trong tâm
thế hoặc nếu có, xuất hiện rất mờ nhạt.
Thái độ và định hướng giá trị: Trong các nghiên cứu về thái độ, có hai
quan điểm xem xét về quan hệ giữa thái độ và định hướng giá trị: Quan điểm
cho rằng thái độ là định hướng giá trị - như Thomas và Znaniecki; Quan điểm
15
không chấp nhận hướng nêu trên mà cho rằng đấy là hai khái niệm khác nhau.
Trong cấu trúc hoạt động của cá nhân, định hướng giá trị tạo thành mặt nội dung
của xu hướng nhân cách. Do vậy, định hướng giá trị có thể được coi là cơ sở bên
trong của thái độ cá nhân đối với hiện thực.
Thái độ và tính cách: Tính cách và sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm
tý ổn định của con người, bao gồm một hệ thống thái độ đối với hiện thực, thể
hiện trong hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Có thể nói, trong
tính cách thì thái độ là mặt nội dung, còn những hành vi tương ứng là mặt hình
thức. Như vậy, quan hệ giữa thái độ với tính cách là quan hệ giữa một bộ phận
cấu thành với tổng thể.
Thái độ và xúc cảm, tình cảm: Xúc cảm, tình cảm là sự biểu thị thái độ
của cá nhân đối với các hiện tượng xảy ra trong hiện thực khách quan, trong cơ
thể liên quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu của con người.
Tình cảm được hình thành từ những xúc cảm đồng loại được lặp đi lặp lại, có
tính ổn định tương đối và là một trong ba thành phần cấu trúc của thái độ. Qua
biểu hiện của xúc cảm, tình cảm, có thể thu được những dữ liệu về tính chất và
đặc điểm thái độ chủ quan của cá nhân với hiện thực khách quan.
Thái độ và ý chí: Ý chí là mặt năng động của ý thức, thể hiện khả
năng đề ra mục đích và nỗ lực khắc phục trở ngại nhằm đạt mục đích đã
định. Theo định nghĩa trên thì ý chí và thái độ là hai thành phần của một hệ
thống chức năng – ý thức. Thái độ là sự biểu hiện của các phẩm chất của ý
chí.
Thái độ và hoạt động cá nhân: Hoạt động là yếu tố trực tiếp, quyết
định sự hình thành nhân cách, thái độ chủ quan của cá nhân với hiện thực
khách quan. Hoạt động có mục đích nhằm bộc lộ các khía cạnh khác nhau
của các quan hệ xã hội mà ở đó cá nhân sống và phát triển. Sự phản ánh của
những quan hệ này trong ý thức cá nhân là yếu tố quyết định hình thành thái
độ. Mặt khác, thái độ quy định phương hướng hoạt động, hành động.
Như vậy, nói đến nhân cách là nói đến hệ thống các thuộc tính của nó,
trong đó có thái độ. Do vậy, thái độ chủ quan của cá nhân có liên quan mật thiết
với nhiều thuộc tính khái niệm khác nhau. Trong một nhân cách, quan hệ này
được liên kết một cách độc đáo, đặc trưng, do vậy khó có thể tách rời các phẩm
chất nhân cách thành những đơn vị độc lập.
16
Có thể thấy, nhu cầu, động cơ, thái độ là những động lực cơ bản thúc đẩy
sự phát triển nhân cách ở mỗi con người. Trong quá trình con người sống và
hoạt động, những yếu tố này luôn tồn tại trong nội tại mỗi người, thúc đẩy con
người vươn lên tự phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân, đáp ứng
những u cầu của xã hội. Chính vì vậy, để phát triển nhân cách mỗi người thì
cần phải đồng thời tác động đến các yếu tố trên một cách hiệu quả, từ đó thúc
đẩy con người phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân.
2. Vận dụng trong xây dựng nhân cách người học viên nhà trường
Quân đội.
2.1. Phẩm chất nhân cách học viên nhà trường Quân đội.
Học viên ở các trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam là những
thanh niên, hạ sĩ quan, binh sĩ ưu tú, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn tuyển sinh của
Bộ Quốc phòng, đã trúng tuyển (hoặc được cử tuyển) vào trường sĩ quan để học
tập, rèn luyện theo mơ hình, mục tiêu, u cầu đào tạo, trở thành sĩ quan có trình
độ đại học. Vì vậy, họ là nguồn cán bộ kế cận quan trọng của quân đội, rất cần
phát triển nhân cách nhằm chuẩn bị cho nguồn nhân lực trong sự nghiệp xây
dựng quân đội hiện nay.
Nhân cách học viên ở các trường sĩ quan quân đội là một chỉnh thể thống
nhất giữa đức và tài, giữa phẩm chất và năng lực, phản ánh các giá trị xã hội của
học viên theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo để trở thành sĩ quan quân đội cấp phân
đội. Trong hệ thống cấu trúc, nhân cách tạo nên sức mạnh tinh thần của học viên
thì phẩm chất chính trị, đạo đức đóng vai trị quan trọng nhất. Bởi vì, nền tảng
hình thành nên nhân cách học viên là sức mạnh bản chất của họ. Sức mạnh này
tồn tại dưới dạng hệ thống các phẩm chất và năng lực. Trong hệ thống những
phẩm chất thì phẩm chất chính trị, đạo đức đóng vai trị cơ bản nhất. Phẩm chất
chính trị, đạo đức là cơ sở, là gốc tạo nên giá trị nhân cách, được thể hiện ở quan
điểm sống, lối sống, lẽ sống và có tác dụng phổ quát nhất đối với mọi hoạt động
của con người nói chung và học viên nói riêng.
Phẩm chất chính trị của học viên biểu hiện tập trung ở lòng trung thành
tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; ở bản lĩnh chính trị vững vàng,
khả năng nhạy bén, sắc sảo trong việc nhận thức, đánh giá, giải quyết những vấn
đề chính trị phức tạp; phát hiện, đấu tranh chống những quan điểm, thái độ chính
trị lệch lạc, phản động. Phẩm chất chính trị của học viên biểu hiện cao nhất ở sự
17
cống hiến, hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, tận tâm, tận lực hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Cùng với phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức là một yếu tố nền tảng,
cốt lõi của nhân cách, góp phần tạo nên phẩm giá của học viên. Trong nhân cách
học viên cũng như của mọi cán bộ cách mạng, đạo đức được Hồ Chí Minh và
Đảng ta coi là gốc, là nền tảng. Phẩm chất đạo đức của học viên là sự thống nhất
hữu cơ giữa phẩm chất đạo đức chung của cán bộ cách mạng, phẩm chất đạo
đức của cán bộ quân đội và phẩm chất đạo đức riêng của học viên do yêu cầu
nhiệm vụ, mục tiêu, yêu cầu đào tạo qui định. Đó chính là tinh thần hết lịng, hết
sức phụng sự lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của quân đội; trung với Đảng, hiếu
với dân, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng.
Phẩm chất chính trị, đạo đức đóng vai trị là yếu tố nền tảng, cốt lõi trong
nhân cách học viên. Điều này thể hiện khơng chỉ ở chỗ nó tạo nên phẩm giá của
học viên mà những phẩm chất ấy còn tạo nên động lực bên trong, thúc đẩy học
viên hoạt động vì lợi ích chung của cách mạng, Tổ quốc và nhân dân. Nó định
hướng, quy định thái độ, lẽ sống và tồn bộ hoạt động của học viên; định hướng
cho sự phát triển tài năng và là động lực thúc đẩy sự phát triển nhân cách của họ.
Bên cạnh những phẩm chất tinh thần cần thiết thì năng lực thực tiễn là
một yếu tố cơ bản tạo nên giá trị nhân cách, uy tín xã hội và sức mạnh của học
viên. Hoạt động thực tiễn của con người một mặt đã nhân loại hóa những phẩm
chất của con người, mặt khác lại sáng tạo ra những phẩm chất tương ứng với
toàn bộ sự phong phú đa dạng của hệ thống các quan hệ xã hội của họ. Chỉ có
trong q trình hoạt động thực tiễn, tác động qua lại với những điều kiện khách
quan con người mới hình thành và phát triển thế giới chủ quan, hình thành ý
thức của mình. Nhân cách học viên với tính cách là sự hồn thiện nhân cách của
con người về mặt văn hóa khơng thể tách rời hoạt động thực tiễn. Hoạt động
thực tiễn vừa là tiền đề, vừa là điều kiện và là thước đo trình độ phát triển hệ các
giá trị văn hóa trong nhân cách con người. Nhân cách học viên gắn với đặc thù
hoạt động quân sự, nhất là thực tiễn hoạt động của học viên trong học tập, rèn
luyện theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo và thực hiện chức trách nhiệm vụ của họ.
Hoạt động thực tiễn góp phần quan trọng tiếp thu thế giới quan, nhân sinh quan,
giá trị quan vững chắc và chính xác; hình thành ở học viên bản lĩnh văn hóa.
18
2.2. Thực trạng phát triển nhân cách học viên nhà trường Qn đội
hiện nay.
Với vị trí, vai trị, sứ mệnh là đào tạo sỹ quan và giáo viên cấp phân đội
cho toàn quân, các nhà trường Quân đội đồng thời là trung tâm giáo dục, rèn
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên trung, ưu tú cho Đảng. Xây dựng và phát
triển nhân cách người học viên là giải pháp chủ yếu nâng cao sức mạnh chính
trị, tinh thần cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, học viên; xây dựng các tổ chức
đảng, tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng trong các nhà trường Quân đội
vững mạnh, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức.
Học viên đào tạo tại các nhà trường trong Quân đội xuất thân từ nhiều
tỉnh, thành phố, nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước, thuộc nhiều đối tượng
khác nhau; được tuyển chọn kỹ lưỡng, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về lai lịch
chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, trình độ, sức khỏe theo quy định của Bộ
Giáo dục - Đào tạo, Bộ Quốc phòng để đào tạo đội ngũ sĩ quan cấp phân đội một
cách cơ bản, toàn diện, khoa học theo một chương trình, tiến trình thống nhất,
bảo đảm cho học viên có đủ phẩm chất chính trị, năng lực cơng tác hồn thành
tốt nhiệm vụ, chức trách theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của các trường và sau
khi tốt nghiệp ra trường. Do đó, việc phát triển nhân cách người học viên nhà
trường Quân đội là một nhiệm vụ quan trọng, mục tiêu xuyên suốt của các nhà
trường.
Thực tiễn những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, người chỉ huy,
các cơ quan chức năng trong các nhà trường Quân đội đã chú trọng phát triển
nhân cách học viên và đạt được nhiều kết quả quan trọng: Củng cố, tăng cường
lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, nâng cao nhận thức, kiến thức lý luận
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, đường lối quân sự quốc phòng của Đảng, nghệ
thuật quân sự, kiến thức khoa học quân sự; hệ thống nguyên tắc trong tổ chức,
sinh hoạt đảng, chính quyền, đồn thể. Trau dồi đạo đức cách mạng cho học viên
với những phẩm chất: tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập
trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa xã hội, vững vàng khơng dao động
trước mọi khó khăn, thử thách.
19
Bồi dưỡng tình cảm, thái độ, trách nhiệm, các giá trị chuẩn mực đạo đức
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn cho học viên, tạo chuyển biến
tích cực trong nhận thức của người học viên, hình thành tình cảm cách mạng, ý
thức trách nhiệm, thái độ đúng đắn, tính tự giác cao trong thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao theo đúng các giá trị, chuẩn mực đạo đức của người cán bộ
cách mạng. Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức lý luận, giá trị chuẩn mực,
nguyên tắc vào thực tiễn q trình học tập, cơng tác, thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của học viên. Đồng thời, phát triển khả năng đấu tranh với những biểu hiện
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong và ngoài đơn vị cho học
viên.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển nhân cách học viên các
nhà trường Quân đội vẫn còn một số hạn chế: Một số học viên nhận thức chưa
đầy đủ về mục đích, lý tưởng sống, về các giá trị đạo đức; vẫn có biểu hiện thiếu
trung thực trong thi cử, ứng xử thiếu văn hóa, phai nhạt lý tưởng sống, vi phạm
phẩm chất, đạo đức người quân nhân cách mạng, có trường hợp bị xử lý kỷ luật,
làm ảnh hưởng đến quá trình giáo dục, đào tạo của các học viện, nhà trường
Quân đội cũng như việc hình thành, phát triển nhân cách mỗi học viên.
Bên cạnh đó, tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức
tạp, khó lường. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước ra sức chống phá cách
mạng Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, nham hiểm, đặc biệt thúc đẩy quá
trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; địi “phi chính trị hóa” Qn
đội. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, của hội nhập quốc tế đang từng ngày,
từng giờ tác động đến tâm lý của người quân nhân nói chung và người học viên
Nhà trường Quân đội nói riêng.
2.3. Phát triển nhân cách học viên nhà trường Quân đội.
Phát triển nhân cách học viên là quá trình vận động hợp quy luật, thông
qua hoạt động tự giác, có mục đích, được tổ chức chặt chẽ và định hướng đúng
đắn của các chủ thể ở các trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam nhằm làm
cho các yếu tố cấu thành nhân cách của học viên được từng bước nâng cao theo
q trình đào tạo, chuyển hóa theo mơ hình nhân cách của người sĩ quan tương
lai. Đây là q trình khách quan, song phải ln chú ý đến tính riêng của nhân
cách cá nhân học viên. Tính riêng trong phát triển nhân cách phản ánh sắc thái
khơng lặp lại ở nhu cầu tự hồn thiện chính bản thân của mỗi cá nhân cụ thể,
diễn ra trong không gian, thời gian xác định, với sự nhận thức và vận dụng quy
20
luật của các chủ thể giáo dục nhằm hướng tới đào luyện con người phát triển
toàn diện về nhân cách theo những mục tiêu, mơ hình đã định.
Cũng như q trình phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình phát
triển nhân cách ln bị chi phối bởi quy luật khách quan, đó là những quy luật
chung và những quy luật riêng, tác động trực tiếp tới quá trình phát triển đó. Do
vậy, phát triển nhân cách học viên ở các trường sĩ quan quân đội có nội dung rất
đa dạng và phong phú, song những khía cạnh cơ bản nhất là phải nhìn nhận sự
phát triển này trong một chỉnh thể thống nhất của cả hai bình diện:
Một là, sự chuyển hóa mơi trường văn hóa sư phạm từ nhân cách học
viên thành nhân cách sĩ quan tương lai như một quá trình tự thân, tức là tuân
theo quy luật vận động, phát triển khách quan của sự vật hiện tượng trong thế
giới nói chung. Ở bình diện này, cần khẳng định quá trình phát triển nhân cách
học viên là q trình mang tính khách quan. Phải nhìn nhận sự chuyển hóa từ
nhân cách của quân nhân bước vào đào tạo sĩ quan thành nhân cách người sĩ
quan quân đội tương lai với tư cách sự vận động tổng hợp của các quy luật mà
phép biện chứng duy vật đã khái quát: sự chuyển hóa dần dần về lượng dẫn đến
sự biến đổi nhảy vọt về chất, sự xuất hiện và giải quyết các mâu thuẫn biện
chứng nội tại, sự loại bỏ dần nhân cách thụ động, hời hợt để thay bằng nhân
cách tích cực, sâu sắc bằng con đường phủ định biện chứng đi xuyên qua cực
đối lập. Bình diện này được bộc lộ ở ba khía cạnh cơ bản.
Thứ nhất, quá trình các cấp độ nhận thức, tình cảm, nhân cách học viên
khơng ngừng tích lũy trong suốt thời gian học tập, tu dưỡng, rèn luyện tại trường
được chuyển hóa về chất qua bước nhảy của các giai đoạn, kỳ học, năm học.
Thứ hai, quá trình không ngừng xuất hiện và giải quyết các mâu thuẫn
biện chứng trong sự vận động đi lên của nhân cách học viên.
Thứ ba, quá trình phủ định biện chứng, kế thừa các giá trị và loại bỏ dần
những yếu tố không phù hợp trong nhân cách để đạt đến nhân cách tích cực, sâu
sắc hơn.
Hai là, cần khẳng định sự phát triển nhân cách học viên luôn gắn với sự
tác động mang tính chủ đích của chủ thể giáo dục - đào tạo ở các trường sĩ quan
quân đội. Nghĩa là phải xem xét sự chuyển hóa từ nhân cách của học viên thành
nhân cách người sĩ quan quân đội tương lai với tư cách là sự tác động tổng hợp
của các nhân tố khách quan và chủ quan, nhờ sự tác động đồng bộ, tích cực, chủ
động của các chủ thể giáo dục nhân cách thơng qua q trình giáo dục - đào tạo.
21
Sự tác động đến nhân cách của các nhân tố này phản ánh q trình hoạt động tự
giác, tích cực, chủ động, có mục đích của các chủ thể trong quá trình sư phạm
quân sự ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và được tổ chức chặt
chẽ, có kế hoạch xác định, có định hướng đúng đắn theo những tiêu chuẩn,
nguyên tắc của nhân cách nhất định. Trong đó bản thân học viên vừa là khách
thể tác động của quá trình giáo dục đào tạo, vừa là chủ thể quan trọng bậc nhất
của quá trình tự giáo dục đào tạo nhằm phát triển nhân cách của chính mình.
Bình diện này được bộc lộ ở ba khía cạnh cơ bản.
Thứ nhất, xây dựng mơ hình nhân cách chuẩn của người sĩ quan quân đội
cách mạng và cụ thể mơ hình ấy vào mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo
của nhà trường.
Thứ hai, vấn đề quan trọng là hình thành và phát triển tri thức, tình cảm, ý
chí đặt dưới sự định hướng, giáo dục trực tiếp của đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý học viên và lực lượng chuyên trách về văn hóa trên cơ sở nhận thức và
vận dụng quy luật.
Thứ ba, nói đến phát triển nhân cách với tính cách tác động có mục đích
của chủ thể, phải nói đến nhân tố học viên với tư cách vừa là khách thể, vừa là
chủ thể của phát triển nhân cách.
Như vậy, kết hợp cả hai bình diện có thể thấy, phát triển nhân cách học
viên thể hiện như một quá trình vận động tổng hợp của tất cả các yếu tố cấu
thành nhân cách theo chiều hướng đi lên, với những bước nhảy vọt về chất, do
giải quyết các mâu thuẫn biện chứng của bản thân các nhân tố đó, tạo nên sự
phát triển tổng thể về nhân cách của họ. Theo đó tiếp cận khoa học về phát triển
nhân cách học viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cần làm
rõ cả hai bình diện này trong cùng một vấn đề./.
22
KẾT LUẬN
Như vậy, con người sinh ra vốn chưa có nhân cách mà nhân cách là cấu tạo
mới do mỗi người tự hình thành và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp và
hoạt động. Nhân cách khơng có sẵn mà bằng cách hoạt động xã hội con người
ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung chứa đựng trong các mối quan
hệ xã hội có liên quan. Lênin từng nói “cùng với dịng sữa mẹ con người hấp thụ
tâm lý của xã hội mà nó là thành viên” nhân cách của con ngươi hình thành và
phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự
nhiên và thế giới đồ vật do các thế hệ trước và bản thân tạo ra qua các mỗi quan
hệ xã hội mà nó gắn bó từ đó nhân cách của con người đã được hình thành và
phát triển.
Sự phát triển nhân cách bao gồm: Sự phát triển về mặt thể chất, điều này
thấy rõ ở sự phát triển về chiều cao, cân nặng, cơ bắp và sự hoàn thiên của các
giác quan vvv…đó là điều dễ thấy ở mỗi con người; Sự phát triển về mặt tâm lý,
được biểu hiên ở những biến đổi cơ bản, trong các quá trình nhận thức, tình
cảm, ý chí, nhu cầu, nếp sống.v.v nhất là ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý
mới của nhân cách con người; Sự phát triển về mặt xã hội điều này thể hiện rõ ở
việc tích cực,tự giác tham gia vào các mặt khác nhau của đời sống xã hội cũng
như có sự thay đổi rõ nét về ứng sử với những người xung quanh.
Để phát triển nhân cách con người phù hợp với những hệ giá trị, chuẩn
mực xã hội đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới thì cần phải nắm được
những động lực cơ bản thúc đẩy sự hình thành nhân cách trong mỗi người như:
Nhu cầu, động cơ, thái độ… trên cơ sở đó có những tác động vào một cách phù
hợp, đạt hiệu quả.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XIII, Nxb
CTQGST, tập 1, tập 2, H.2021.
2. Đào Thị Oanh (Chủ biên), Vấn đề nhân cách trong Tâm lý học ngày
nay, Nxb Giáo dục, H.2007.
3. Nguyễn Bá Ninh: Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ bản NXB chính trị quốc gia. H.1994
4. Nguyễn Ngọc Bích (chủ biên) : Tâm lý học nhân cách-NXB Đại học
quốc gia Hà Nội. H.2000
5. PGS.TS Đỗ Long (chủ biên): Hồ Chí Minh – Những vấn đề tâm lý học
nhân cách - Viện tâm lý học. H.1995
6. PGS.TS Thành Duy (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây
dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện - NXB chính trị quốc gia. H.2001
7. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (Chủ biên), Một số vấn đề nghiên cứu
nhân cách, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2004.
8. Phan Trọng Ngọ, Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb Đại học
Đại học sư phạm, H.2003.
24