LUẬN VĂN:
Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động
môi trường do hoạt động của công ty Cao
su Sao vàng Hà Nội
Lời nói đầu
Quá trình lao động sáng tạo ra của cải vật chất của con người đều có tác động đến
môi trường xunh quanh theo chiều thuận lợi hoặc không thuận lợi cho đời sống và phát
triển của con người. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và những diễn đàn kinh tế xã hội
mang tính chất toàn cầu trong những thập kỷ qua đã gây ảnh hưởng rộng lớn, sâu sắc và cơ
bản đến điều kiện thiên nhiên và môi trường, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, cân bằng
sinh thái đảo lộn, chất lượng môi trường sống suy thoái đồng thời ảnh hưởng trực tiếp tới
quá trình sản xuất kinh doanh cũng như sức khoẻ của công nhân tại các cơ sở sản xuất.
Vì vậy làm sao để cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trực tiếp lao động có hiệu quả
mà không tổn hại đến môi trường của con người? Làm sao để cho cơ sở sản xuất kinh
doanh biết được rằng họ thực hiện được các biện pháp bảo vệ môi trường là có hiệu quả về
mặt kinh tế và xã hội?
Đây là việc không dễ dàng, muốn bảo vệ môi trường thì trong quá trình sản xuất
kinh doanh các công ty, xí nghiệp… phải thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô
nhiễm đòi hỏi chi phí quá lớn mà trong một thời gian dài lợi ích chưa thấy rõ ràng, vì vậy
các công ty khi thực hiện các biện pháp này thì chưa thực sự quan tâm vì họ chưa hưởng
được lợi ích gì.
Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có những phương pháp hữu hiệu để đánh giá xem
các biện pháp bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả cao và đặc biệt quan trọng phải cho
các cơ sở sản xuất kinh doanh thấy được cái lợi của việc thực hiện các biện pháp bảo vệ
môi trường và cái hại của việc không thực hiện các biện pháp của việc không thực hiện các
biện pháp bảo vệ môi trường. Xuất phát từ những lý do trên, sau một thời gian thực tập tại
công ty cao su sao vàng Hà Nội và tìm hiểu về bảo vệ môi trường tại công ty cùng với sự
hướng dẫn của cô giáo Thạc sĩ Lê Thu Hoa và cô Nguyễn thị Lân, Bùi Xuân Ba trong công
ty.
Tôi xin chọn đề tài “Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt
động của công ty Cao su Sao vàng Hà Nội” và từ đó đề ra một số giải pháp nhằm ngăn
ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Nội dung chuyên đề bao gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
Chương 2: Đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của công ty.
Chương 3: Căn cứ đề xuất một số giải pháp cho việc giảm thiểu, ngăn ngừa ô
nhiễm môi trường.
Chương 1: cơ sở lý luận chung
I. Ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp.
1. Môi trường:
Bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, tồn tại, phát triển của con
người và thiên nhiên.
2. Chất thải:
Là chất được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt
động khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, lỏng, khí hoặc các dạng khác.
3. Chất gây ô nhiễm:
Là những nhân tố làm môi trường trở nên độc hại.
4. Ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp:
Ô nhiễm công nghiệp là sự có mặt của một chất ngoại lai trong môi trường tự nhiên
dù chất đó có hại hay không, là kết quả của hoạt động công nghiệp, khi vượt quá một
ngưỡng nào đó thì chất đó sẽ trở nên độc hại với các thành phần môi trường.
4.1. Ô nhiễm môi trường không khí:
4.1.1. Không khí: Là hỗn hợp gồm khoảng 78% là Nitơ, 21% là ôxy 1% là khí
Agon và 0,03% CO
2
. Ngoài ra nó còn có một lượng nhỏ các khí như: Neon, Heli ở điều
kiện bình thường độ ẩm tuyệt đối hơi nước chiếm 1- 3% thể tích không khí.
4.1.2. Nhiễm bẩn không khí: Là kết quả của sự chứa đựng trong đó một lượng quá
lớn các thành phần bình thường, chẳng hạn như CO
2
và các phần tử rắn lơ lửng khác ô
nhiễm không khí là trong không khí có một chất lạ hoặc có một sự biến đổi quan trọng
trong thành phần của không khí gây tác động có hại hoặc gây ra một sự khó chịu (sự toả
mùi khó chịu, sự giảm tầm nhìn do bụi). Mặt khác, sự tích luỹ hay phân tán của các chất ô
nhiễm trong không khí phụ thuộc vào điều kiện khí tượng.
Chất ô nhiễm là một số chất có trong khí quyển ở một nồng độ cao hơn nồng độ
bình thường của nó hoặc chất đó thường không có trong không khí.
4.1.3. Ô nhiễm không khí không gây kích thích: Những chất ô nhiễm môi trường
không gây kích thích, thường gây ảnh hưởng đến cơ thể sau khi chúng hấp thụ và tích trữ ở
một nơi nào đó trong cơ thể. Tính chất của hơi khí hít vào sẽ ảnh hưởng đến tốc độ hấp thụ
nó cùng với những yếu tố khác. Mức độ hấp thụ những chất bẩn, không kích thích có thể
thay đổi do những yếu tố ngẫu nhiên nhưng sự có mặt đồng thời trong không khí những
chất bẩn khác đôi khi có những tác đông kích thích. Thường khi một tác nhân nào đó kích
thích phổi sẽ làm tăng tốc độ hấp thụ vào máu những tác nhân gây nhiễm độc khác, trong
trường hợp có những chất gây ung thư của không khí tác động lên đường hô hấp thì tính
kích thích của thành phần chất nhiễm bẩn khác phụ thêm vào, lại có thể đóng vai trò quan
trọng… Trong trường hợp này những tác nhân kích thích của các thành phần chất nhiễm
bẩn khác phụ thuộc thêm vào, lại có thể đủ mạnh lại có thể đủ mạnh để gây tê liệt biểu mô
có nhung mao của phế quản kéo dài thời gian tiếp tục của các chất gây ung thư trên lớp
biểu mô nhậy cảm với các tác động trên ngoài ra vai trò của những tác nhân gây kích thích
phụ sau làm bề mặt của tế bào biểu mô làm cho tác nhân gây ung thư như tiếp xúc chặt chẽ
với những tế bào nằm ở sâu hơn nhạy cảm ung thư. Phần lớn những chất rắn, lỏng được
thải vào môi trường không khí, thường bao gồm những phần tử nhỏ có kích thước đủ lớn
dễ lắng ngay xuống đất, phần còn lại có kích thước nhỏ hơn nhiều lắng xuống chậm hơn
và phụ thuộc vào chuyển động không khí ví dụ như bụi, hơi. Chính những chất hay chất
lỏng này (khí dung) lơ lửng trong một thời gian dài, có thể xâm nhập vào cơ thể cùng với
không khí được hít vào. Từ trạng thái khí dung này chỉ có được phần tử có kích thước nhỏ
hơn 1 micromet mới có thể tiến sang phế nang được ngoài ra những phần tử có kích thước
1- 0,6 và nhỏ hơn 2 miromet bị giữ lại ở phế nang nhiều nhất. Sự giữ lại những phần tử rắn
và lỏng của khí dung phụ thuộc một phần vào tần suất và biên độ hấp thụ cũng như phụ
thuộc vào nồng độ tương đối của chất hít vào. Sự hấp thụ những phần tử rắn từ phế nang
vào máu được xác định trên cơ sở tính toán hoà tan của chúng vào dịch thể tổ chức bộ mặt
của nhu mô phổi gây kích thích.
4.1.4.Ô nhiễm không khí gây kích thích:
Mức độ phát sinh kích thích của hơi khí đến đường hô hấp trên, một phần phụ thuộc
vào sự hoà tan của chúng vào nước, nếu các hơi khí này hoà tan trong phần chất lỏng của
đường hô hấp trên và gây tác động lên cơ quan này, ở đó biểu mô bền vững với tổn thương
hơn là những phần nêu ở sau. Tuy nhiên tính chất xâm nhập của các hơi khí này trong
nhiều trường hợp được xác định là do sự có mặt của khí dung trong không khí. Vì vậy
chính những hơi khí là lúc bình thường không xâm nhập được vào sâu trong khí quản và
phế quản có thể hấp thụ được bởi sự có mặt của khí dung nếu đường kính của chúng nhỏ,
lúc đó chúng sẽ xâm nhập được vào sâu trong phế quản và khí quản.
Thực tế là do nồng độ cao của những chất thải bẩn khi tác động phối hợp có thể gây
ra những biến đổi sinh lượng quan trọng. Do đó, người ta đưa ra khái niệm về tác động
thấy được của các chất kích thích ở phổi, theo sự phát sinh của chúng, tác động này không
phải do nồng độ trung bình cực đại của hơi khí kích thích. Những nghiên cứu thực nghiệm
về ảnh hưởng của các hơi khí kích thích đối với phổi người ta được chứng minh bằng hậu
quả nghiêm trọng do chúng gây ra.
4.1.5. Ô nhiễm tiếng ồn: Là một hiểm hoạ đến môi trường sống của con người.
Tiếng ồn được “thải vào” không khí không những gây ra sự nhiễm loạn sóng ảnh hưởng
đến thông tin liên lạc mà còn ảnh hưởng đến thính giác và thần kinh của con người. Vì vậy
tiếng ồn cũng được xem như là một yếu tố gây ô nhiễm đe doạ sự lành mạnh của môi
trường. Đơn vị đo lường tiếng ồn là deciben (dB) là một đơn vị tương đối dựa trên loga tỷ
số của cường độ tiếng ồn (I) và cường độ cưỡng bức (I
0
). Ngưỡng I
0
được tính bằng cường
độ tương ứng với áp lực tiếng động 0,0002 mcroba (0,0002dyn/cm
3
) hay công suất khoáng
10
-6
watt. Đại lượng lg (l/l
0
) là âm lượng của tiếng động được tính bằng ben (1dB= 0,1ben)
tiếng động có âm lượng 10, 20 và 100 dB là quá ngưỡng nghe được ứng với 10, 100, 10
6
lần, con người nghe được âm thanh có tần số khoảng 20 đến 20000 Hz (số dao động âm
thanh một giây) và cường độ từ 0 đến 120 dB. Tiếng nói chuyện bình thường trong khoảng
250 đến 10000 Hz. Tác động của tiếng động đối với con người thay đổi tuỳ thuộc vào tần
số hay độ cao của tiếng động, cùng một ngưỡng động nhưng tiếng động cao âm nghe “to
hơn” tiếng động thấp âm. cường độ 50 dB có thể xem mức độ ngưỡng mà cao hơn nữa sẽ
có hại cho ta, các tiếng động bé hơn, thấp hơn mức độ gây hại cũng có những tác động gây
nên trạng thái khó chịu.
Khi tiếng động các khu nhà ở từ 30 đến 35 dB đã làm cho con người ở một mức nào
đó bị ảnh hưởng. Khi tiếng ồn lên tới 50 dB bắt đầu đòi hỏi có biện pháp ngăn chặn.
Những hiện tượng tổ hợp tiếng ồn nhất là tiếng ồn đột ngột, tiếng nổ, thường làm cho con
người giật mình hoảng hốt.
Những ảnh hưởng của tiếng ồn đến sinh lý của con người được biểu hiện dưới
những dạng phản ứng âm thanh đăc biệt ngoài thính giác. Sự mệt mỏi thính giác là biểu
hiện đặc hiện từ thời quan trọng do tiếng ồn gây ra, tiếng động của tiếng ồn lên vỏ não làm
tăng quá trình ức chế, làm thay đổi hoạt động phản xạ có điều kiện của con người, phá huỷ
trạng thái của thần kinh trung ương, làm giảm sút sự tập trung tư tưởng, làm giảm khả
năng làm việc, đặc biệt làm giảm độ thông minh của con người.
Tiếng ồn ở mức 40 dB thì không ai ngủ được, khi tiếng ồn lên đến mức 50 dB thì
giấc ngủ bị ngắt quãng và 60 dB giấc ngủ bay biến mất. Tác động liên tục của tiếng ồn
cũng gây lên chứng loét dạ giầy, tiếng ồn cũng là nguyên nhân làm tăng bệnh thần kinh và
bệnh tăng huyết áp.
Theo nghiên cứu, định mức sinh lý của tiếng ồn như sau:
- 40 dB về ban đêm bình thường
- 60 dB về ban ngày bình thường
- 70- 80 dB mệt mỏi
- 90- 101 dB bắt đầu nguy hiểm
- 120- 140 dB đe doạ gây nguy hiểm
Vì vậy vấn đề làm giảm tiếng ồn và hạn chế tác động tiêu cực cho tiếng ồn gây nên
cho con người đang ngày càng trở nên cấp thiết.
4.2. Sự ô nhiễm các nguồn nước do chất thải công nghiệp:
Sự ô nhiễm các nguồn nước trên lục địa hiện đại là một trong những vấn đề ô nhiễm
trầm trọng nhất, đặc biệt là đối với các nước công nghiệp hoá. ậ Mỹ người ta ước tính
rằng 90% lượng nước sông được xem là phương tiện để vận tải các chất thải ra biển. Chỉ
một việc chống ô nhiễm Photphat cho vùng Ngũ hồ hàng năm cũng đã tốn hết 500 triệu
USD. ậ Liên xô cũ, hơn 400000 km sông ngòi ô nhiễm “mãn tính”. ậ Pháp nơi mà vấn đề
về môi trường được quan tâm tương đố sớm, và nhà nước đã đầu tư nhiều cho việc phòng
chống ô nhiễm, phần lớn các sông ngòi, đặc biệt là sông lớn như sông Xen, sông Ranh,
sông Ron… cũng vẫn luôn luôn ở trạng thái ô nhiễm đáng lo ngại.
4.2.1. Sự ô nhiễm sinh học:
Sự ô nhiễm “sinh học” các nguồn nước lục địa bắt nguồn từ việc thải vào sinh
quyển các chất thải chứa các hợp chất hữu cơ có thể bị lên men và các tác nhân gây bệnh
đồng hành với chúng. Sự ô nhiễm này trước hết làm thoái biến, huỷ hoại các hệ sinh thái
nước ngọt.
Nước cống chứa các chất thải sinh hoạt, nước thải từ xí nghiệp công nghiệp thực
phẩm, các nhà máy thuộc da, các khu chăn nuôi… là nguôn gốc của vô số các hợp chất
hữu cơ có thể lên men dưới tác dụng của vi khuẩn và là môi trường phát triển của các loại
vi khuẩn, gây bệnh khác nhau. Nếu các nguồn này được đổ thẳng ra sông ngòi mà không
qua các bước xử lý cần thiết thì tất cả các yếu tố độc hại kể trên sẽ tiếp tục tồn tại và phát
triển, gây ảnh hưởng tổn hại đến phẩm chất của nước.
Một trong những hậu quả trực tiếp của sự ô nhiễm nguồn nước bởi các chất hữu cơ
có thể lên men là sự giảm hàm lượng ôxy hoà tan hiện tượng này là kết quả sự tác động
của các vi khuẩn ưa khí, là các vi khuẩn tham gia vào sự phân huỷ ôxy hoá làm các chất
hữu cơ trong nước. Quá trình phân huỷ ôxy hoá các hợp chất hữu cơ tiêu thụ một lượng
ôxy tương ứng, lượng ôxy này được gọi là yêu cầu ôxy hoá viết tắt là BOD (Biochernical
oxyzen demamd). Trong thực tế, người ta quy ước lấy lượng ôxy tiêu thụ sau 5 ngày, kí
hiệu BOD
5
, làm tiêu chuẩn để đánh giá mức độ ô nhiễm các hợp chất hữu cơ của nguồn
nước. Khi sự ô nhiễm của các chất hữu cơ có thể bị lên men là nặng thì nó sẽ gây ra sự mất
oxy hoàn toàn và hậu quả là sự chết hàng loạt cá và các động vật khác sống trong nước,
những sự cố như vậy thường xẩy ra trong mùa hè, là thời kỳ mà lượng oxy là thấp nhất và
hoạt động của vi khuẩn lại mạnh nhất do nước có nhiệt độ cao nhất trong năm.
Đối với một số chất hữu cơ không bị phân huỷ bởi vi khuẩn chẳng hạn như: tananh,
sự phân huỷ không xẩy ra bằng con đường sinh học mà bằng con đường oxy hoá học.
Trong những trường hợp như vậy người ta dùng đại lượng COD, yêu cầu ôxy hoá (
chemical oxyzen demand) để đánh giá mức độ ô nhiễm của nguồn nước.
4.2.2. Sự ô nhiễm hoá học:
Về khối lượng cũng như về tác động sinh học thì muối khoáng đóng vai trò chất ô
nhiễm chính của nước lục địa.
Trước hết sự thải Natriclorua từ các xí nghiệp khai thác mỏ và từ các nhà máy công
nghiệp hoá chất làm cho nước trở thành không dùng được trong sinh hoạt hàng ngày của
con người (ăn uống, tắm giặt…) tưới cho cây trồng, và ngay cả cho một số công việc thông
thường trong công nghiệp như chống nóng, làm nguội máy… Thế mà hàng năm khối
lượng của các nhà máy thuộc công ty hoá chất Potasse ở vùng Andat hàng năm cũng đã đổ
vào sông Ranh khoảng 7 triệu tấn muối.
Các loại phân bón hóa học chủ yếu là phân Nitrat và phân Photphat và phân bón
cho các cánh đồng bị nước mưa hoà tan rồi chảy ra sông ngòi cũng là một nguồn ô nhiễm
quan trọng đối với lục địa. ậ các vùng nông nghiệp phát triển mạnh người ta nhận thấy
rằng tất cả các sông, hồ, và ngay cả các lớp nước ngầm đều chứa các phần tử dinh dưỡng
này ở những nồng độ cao bất thường, đặc biệt là ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Theo tiêu chuẩn
của tổ chức y tế thế giới, nồng độ tối đa cho phép của ion Nitrat trong nước là 9 ppm, thế
mà nước ngầm ở các vùng này đều có nồng độ lớn hơn. Sự dư thừa nitrat có thể gây ra một
loại bệnh thiếu máu. ngoài ra, sự dư thừa nitrat có thể đưa đến sự tạo thành Nitrosamin
một hợp chất gây ung thư trong đường tiêu hoá.
Tuy nhiên, hậu quả đáng lo ngại của sự ô nhiễm nước trên lục địa bởi nitrat và
photphat là hiện tượng loạn dưỡng. Ngày nay phần lớn các hồ, và ngay cả các sông nước
chảy chậm đã có hiện tượng loại dưỡng mãn tính. Hiện tượng này thể hiện qua sự phát
triển của thực vật nổi và cây có hoa thuỷ sinh, do trong nước có quá nhiều muối khoáng
dinh dưỡng. Những khối lượng lớn thực vật được tạo thành do hoạt động quang hợp sẽ tích
luỹ ở đáy hồ, các vi khuẩn được ưa thích sẽ phân huỷ khối thực vật này qua con đường ôxy
hóa và điều đó kéo theo sự tiêu thụ ôxy có trong nước (BOD), nghĩa là làm cạn kiệt oxy
trong nước, kết quả là xẩy ra sự chết hàng loạt động vật, nhất là các loại cá quý như cá hồi,
loại cá ưa sống trong nước sạch và giầu ôxy. Giai đoạn tiếp theo của sự loạn dưỡng là sự
lên men yếm khí của khối thực vật nằm ở lớp sâu dưới đáy. ở giai đoạn này sự phân huỷ sẽ
giải phóng ra metan và các khí các khí có mùi khó chịu khác nhau, đặc biệt là H
2
S và NH
3
.
Ngày nay hầu hết các hồ lớn ở Bắc Mỹ và phần lớn các hồ xung quanh vùng Anpơ
đều bị loạn dưỡng ở các mức độ khác nhau. ở Bắc Mỹ, trong thời kỳ 1968- 1986, cái giá
của cuộc chiến chống loạn dưỡng ở vùng Ngũ hồ là vào khoảng 10 tỷ USD.
Các nguồn nước lục địa còn bị ô nhiễm thường xuyên hay chu kỳ tới các hợp chất
hữu cơ hay vô cơ có độc tính cao, trong đó các kim loại này như Cadimi, thuỷ ngân, chì,
kẽm và natri, các chất độc công nghiệp như hợp chất của asen, sianua, cromat…Trong số
các hợp chất hữu cơ có các chất tẩy rửa tổng hợp, các chất hữu cơ có clo diệt sâu và diệt
cỏ, axit phenoxiaxetic… nồng độ cho phép của các chất này trong nước rất bé, thể hiện
qua bảng sau:
Nồng độ giới hạn một số chất cho phép trong nước (10
-6
gam/lít)
Chất Nồng độ cho phép Chất Nồng độ cho phép
Fe
2+
Cd
2+
Cu
2+
As
3+
Ni
2+
Hg
2+
Pb
2+
Cr
3+
Cr
6+
CN
-
0,5
0,01
0,1
0,05
0,1
0,005
0,005
0,5
0,1
0,1
Amin mạch thẳng
Butylacrylac
Vinylaxetat
Hexacloran
Đimetylamin
Điclophenol
Đietyl thuỷ ngân
Tiophot
Phenol
Nitometan
0,07
0,015
0,2
0,02
0,1
0,002
0,0001
0,003
0,001
0,005
4.3. Ô nhiễm chất thải rắn công nghiệp:
Nét đặc thù của sự ô nhiễm là sự tồn tại của các chất thải rắn. chất thải rắn bao gồm
chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp và chất thải sinh hoạt, trong đó chất thải công
nghiệp đóng vai trò quan trọng.
Các chất thải công nghiệp có thể có nguồn gốc khác nhau và do đó có bản chất khác
nhau. Trước hết đó là các chất thải của ngành khai thác mỏ, các quặng mỏ thường nằm sâu
trong lòng đất, do đó để khai thác chúng công việc đầu tiên là bóc đất đá, đôi khi khối
lượng đất đá cần phải bóc lớn hơn nhiều khối lượng quặng cần khai thác, tiếp theo quá
trình làm giàu quặng sẽ thải ra đất đá và các khoáng vật phụ đồng thời với khoáng vật
chính trong quá trình hình thành địa chất, chẳng hạn khi khai thác các quặng kim loại màu
thông thường người ta chỉ lấy 1 đến 2% khoáng vật chính cần khai thác, tất cả phần còn lại
được xem là chất thải.
Khối lượng chất thải trong quá trình khai thác và xử lý sơ bộ các quặng mỏ là vô
cùng lớn, do đó trước hết chúng chiếm một diện tích đất lớn làm thu hẹp diện tích rừng và
đất trồng trọt. Mặt khác, các cấu tự của chất thải có thể tác động với không khí, nước bị
phong hoá hay bị biến đổi dưới tác động của vi sinh vật, trong những trường hợp những
sản phẩm được tạo thành là những chất ô nhiễm môi trường xunh quanh.
Hoạt động của các ngành công nghiệp cũng nảy sinh ra một khối lượng lớn các chất
thải rắn, trong ngành năng lượng, các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than thải ra nhiều chất
thải rắn nhất, quá trình đốt than để lấy nhiệt cung cấp cho nồi hơi luôn luôn giải phóng ra
tro và xỉ. Tuỳ thuộc vào sản phẩm của than, lượng tro và xỉ dao động trong khoảng từ 10
đến 30% khối lượng than đem đốt người ta đã xây dựng được trong vòng một ngày đêm,
một nhà máy nhiệt điện công suất 1 triệu KVA, trung bình tiêu thụ 10 nghìn tấn than và do
đó thải ra khoảng 2 nghìn tấn tro và xỉ. Hiện nay có nhiều nhà máy nhiệt điện có lượng
chất rắn thải lớn hơn 1 triệu tấn trên một năm.
Tro và xỉ của các nhà máy nhiệt điện chứa chủ yếu là SiO
2
(40-50%), nhôm ôxít
(20-25%), FeO và Fe
2
O
3
(15-20%), CaO (3-5%), MgO (1-2%), TiO
2
(1-2%), K
2
O (1-
2%)… Thành phần hoá học của tro phụ thuộc vào thành phần hóa học của than được dùng
làm nhiên liệu. Năm 1980 tổng hợp tro và xỉ của các nhà máy nhiệt điện trên thế giới
khoảng 2 tỷ tấn. Do nhu cầu năng lượng của thế giới ngày một tăng, trong khi nguồn
nguyên liệu chủ yếu cho các nhà máy nhiệt điện vẫn là than đá, người ta cho rằng khối
lượng tro và xỉ thải ra mỗi năm lớn hơn khối lượng to lớn này, đòi hỏi những bãi chứa
hàng vạn ha. Để giảm bớt diện tích trồng trọt vì lấn chiếm đồng thời giảm sự ô nhiễm môi
trường người ta có xu hướng sử dụng năng lượng tro và xỉ này làm phụ gia cho vật liệu
xây dựng cấp thấp.
Ngành công nghiệp luyện kim và luyện kim màu cũng là những ngành thải ra
những lượng lớn chất thải rắn mà điển hình là xỉ lò cao và lò luyện thép. Xỉ lò than cao
cũng chứa các oxit của silic, nhôm, canci, magiê và một số kim loại khác, trong đó hàm
lượng canxioxit (30-50%) và magieoxit (3-15%) khá cao, rất phù hợp với việc làm phụ da
cho vật liệu xây dựng.
Các chất thải của ngành công nghiệp hoá học vừa lớn về khối lượng, vừa đa dạng
về chủng loại, vừa nguy hiểm về phương diện ô nhiễm môi trường. Khó có thể thống kê
hết các chất thải của các quá trình sản xuất hoá học khác nhau. Tuy nhiên qua việc xét vài
quá trình chúng ta có thể minh hoạ phần nào đến mức của vấn đề.
Một quá trình sản xuất hoá học điển hình là quá trình sản xuất phân khoảng, những
sản phẩm chứa các nguyên tố cần thiết cho sự phát triển của cây trồng, người ta cho rằng
phân bón quy định khoảng 50% sự gia tăng năng suất trong cây trồng. Một trong những
loại phân khoáng quan trọng nhất là phân phốt-phát, thì phân supe-phốt phát được sản xuất
với khối lượng lớn nhất và được sử dụng rộng rãi nhất.
Như trình bày ở trên, quá trình khai thác và làm giảm quặng Apatit đã thải ra một
lượng chất thải lớn, quá trình sản xuất axit Sunfuric đến lượt nó là một quá trình phức tạp
hơn nhiều trong đó chất thải lớn hơn nhiều. Trong đó chất thải là xỉ của quá trình nướng
quặng Apatit và H
2
SO
4
giải phóng ra một lượng lớn chất thải là CaSO
4
. Tất cả các chất
thải này đều chứa một lượng đáng kể Selen, các kim loại nặng, các hợp chất chứa Flo,
những chất ô nhiễm có tính chất cao. Trong số các chất thải này thì chỉ một phần nhỏ
CaSO
4
được tinh chế và sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau. Phần còn lại được chất
đống trong các bãi chứa. Thông thường các chất thải của nghành công nghiệp hóa chất
thường chứa axit hay kiềm dư cho nên kho chứa phải là cấu trúc có dạng tường cao, nền
ximăng láng bằng vật liệu chống thấm để tránh sự rò rỉ của axit, kiềm và các cấu tử độc hại
khác ra bên ngoài và thấm vào lớp nước ngầm. Tuy nhiên trong thực tế nguyên tắc này ít
được tôn trọng, nhất là các nước nghèo, vì vậy tác hại ô nhiễm của chất thải với môi
trường ngày càng nghiêm trọng.
Ngoài các nghành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường chủ chốt nói trên cần phải
kể thêm các ngành công nghiệp khác như: nghành chế tạo máy, vải sợi, da, giấy, cao
su,…là những nghành cũng đóng góp đáng kể vào việc làm ô nhiễm môi trường. Có thể
nói rằng hiện nay tất cả các ngành công nghiệp, kể cả công nghiệp điện tử là ngành công
nghiệp được xem là “sạch” nhất, đều đóng góp làm ô nhiễm môi trường ở các mức độ khác
nhau.
II. Phân tích tác động đến môi trường.
1. Khái niệm:
Việc đánh giá tác động của môi trường đòi hỏi phải nhận định các hoạt động phát
triển, phát hiện và phân tích những biến đổi của môi trường, đánh giá định lượng các tác
động đến lợi ích, sức khoẻ con người do hoạt động phát triển gây ra.Việc xác định, đặc
biệt là lượng hoá những thay đổi chất lượng của các hệ thống tự nhiên và các thể tiếp nhận
của con người, động vật…là rất cần thiết, song vô cùng khó khăn phức tạp. Nó đòi hỏi
phải thực hiện hàng loạt các phân tích về kỹ thuật và công nghệ, về kinh tế- tài chính, về
xã hội.
Như có thể trong hình.
Ho
ạt
đ
ộng
của
con
ngườ
i
Các chất
tồn dư và
ảnh hưởng
đến chất
lượng môi
trường
Trong và
ảnh hưởng
đ
ến các hệ
thống tự
nhiên và
chất lư
ợng
môi trường
xung quanh
Trong và
ngoài ph
ạm
Đánh
giá
kinh
tế
các
tác
động
ảnh hưởng
đến các
thể tiếp
nhận, con
người,
thực vật,
động vật.
Trong và
Các bi
ện pháp quản lý
chất lượng môi trư
ờng
nh
ằm giảm nhẹ, loại
trừ các tác đ
ộng có
hại của các hoạt đ
ộng
phát triển đ
ến chất
lư
ợng môi tr
ư
ờng xung
Đánh giá
kinh tế
các giải
pháp quản
lý ch
ất
Việc phân tích khởi đầu bằng việc phân tích các hoạt động. Ví dụ như một xí
nghiệp công nghiệp có một dự án tưới tiêu, một chương trình quản lý rừng mà các hoạt
động đó tạo ra các phế thải khác nhau (dưới dạng khí, lỏng hay rắn) các sản phẩm này sẽ
tác động đến hệ thống thiên nhiên và môi trường xung quanh. Chất lượng môi trường xung
quanh, tới lượt nó sẽ tác động lên các thể tiếp theo, có thể là con người, cây cối, con vật
hay vật liệu. Những tác động này có thể hữu hiêụ hay bất lợi, tuy nhiên điều quan trọng và
cần thiết là được đánh giá về mặt kinh tế, vì vậy chỉ sau những tác động vật lý được xác
định một cách đầy đủ, chính xác rõ ràng.
2. Các cách tiến hành phân tích:
-Bảo đảm sự phát triển nhất quán tính hệ thống.
Các hệ thống tự nhiên vốn phức tạp và tương tác chặt chẽ với nhau, vì vậy cần được
chú ý đến tính hệ thống, tiếp cận một cách có hệ thống đối với các khía cạnh môi trường
trong quá trình sản xuất.
-Xác định rõ ràng hợp lý các mặt sau.
+Giới hạn lãnh thổ của các hoạt động vật chất.
+Nội dung của các vấn đề hoạt động phát triển.
+Mối quan hệ giữa các thành phần của hệ thống.
-Nhận dạng các tác động chính đối với môi trường dựa trên 3 tiêu chuẩn chủ yếu
sau:
+Độ dài thời gian và diện tích lãnh thổ mà trên đó xảy ra các ảnh hưởng.
+Tính cấp bách của các tác động, mức độ suy giảm nhanh chóng và khả năng phục
hồi môi trường.
+Mức tổn hại không phục hồi được đối với cây cối, động vật, đất, nước.
Ngoài ra, còn có các tác động khác như tác động đến môi trường sức khoẻ, sự thay
đổi vì khí hậu, tác động tổng hoá khi xem xét riêng từng thành phần cũng như xem xét
đồng thời các thành phần của hệ thống.
Định lượng các thay đổi của các yếu tố tự nhiên, kinh tế- xã hội do hoạt động phát
triển gây ra. Để định lượng trước hết cần đo đạc các tham số liên quan đến chất lượng môi
trường.
Đánh giá mức độ của hoạt động phát triển đến môi trường, sức khoẻ và phúc lợi của
con người trước mắt cũng như lâu dài.
3. Phân tích kinh tế, tài chính và ứng dụng thực tế:
- Phân tích kinh tế: Bao gồm phân tích chi phí-lợi ích của các hoạt động phát triển
mang lại đối với môi trường. Vì thế, phân tích kinh tế được gọi là phân tích lợi ích-chi phí
mở rộng hay phân tích lợi ích-chi phí mở rộng chính là phân tích kinh tế của một hoạt
động phát triển cụ thể nào đó.
- Phân tích tài chính: Khi phân tích tài chính người ta tập trung chủ yếu và việc
phân tích giá trị thị trường và các dòng lưu thông tiền tệ.
- ứng dụng thực tế:
Phân tích kinh tế các tác môi trường được tiến hành trên cơ sở công tác nhiều lĩnh
vực khác nhau. Điều khó khăn nhất ở đây là quyết định chọn những tác động nào đến tài
nguyên và môi trường để đưa vào phân tích và bằng cách nào đó có thể định lượng cũng
như định giá các tác động đó.
- Trong phân tích cần chú ý đến các điểm sau.
+ Bắt đầu từ những ảnh hưởng đến môi trường dễ nhận biết và dễ đánh giá nhất.
+ Đối xứng của lợi ích-chi phí: Một lợi ích bỏ qua tức là chi phí và ngược lại, tránh
được chi phí chính là lợi ích. Do đó, phải luôn luôn chú ý tới khía cạnh lợi ích- chi phí của
bất cứ hoạt động nào.
+ Phân tích kinh tế cần được tiến hành với cả hai trường hợp: có và không có hoạt
động phát triển.
+ Mọi giả thiết đưa ra một cách rõ ràng.
Khi không thể sử dụng thực tiếp được giá cả thị trường thì có thể sử dụng giá bóng
4. Một số phương pháp phân tích thông dụng.
Phân tích đánh giá kinh tế những tác động đến môi trường của hoạt động phát triển
cả hai hệ thống tự nhiên và nhân văn đều có thể bị tác động.
-Sự thay đổi sức sản xuất.
Các kỷ thuật dựa trên sự thay đổi sức sản xuất làm cơ sở phân tích,chỉ là sự mở
rộng phân tích truyền thống.Sự thay đổi vật chất của sức sản xuất được đánh bằng giá cả
thị trường đối đối với đầu vào và đầu ra. Khi có sự không rỏ ràng, cần thiết phải có điều
chỉnh giá cả thị trường. Các giả trị đó sẻ được gán cho việc phân tích kinh tế của hoạt phát
triển, tính toán cho dù nó xuất hiện trong giớ hạn của hoạt động phát triển đó hay ở ngoài.
Khi sử dụng kỷ thuật này, các bước phân tích là:
+ Sự thay đổi về sức sản xuất, do hoạt động phát triển phải được xác định đầy đủ,
cả trong và ngoài phạm vi hoạt động.
+ ảnh hưởng tới mức sản xuất phải được đánh giá với từng hoạt động.
+ Cần có giả thiết về thời gian và sự thay đổi sản xuất được đo đạc, giá cả được sử
dụng, bất kỳ một sự thay đổi nào có thể xảy ra về giá cả tương đối.
- Sự giảm thu nhập: kỹ thuật này tương tự như đối vơí sự thay đổi năng suất chỉ
khác ở chỗ, đây là sự thay đổi năng suất nhân văn, sự giảm thu nhập và chi phí y tế do hoạt
động phát triển gây ra đối với môi trường hoặc các khoản tiết kiệm đáng kể cần thiết để
phòng ngừa, sự phá huỷ đó đã trở thành chuẩn mực để đánh giá, có thể được ước lượng
mức giảm thu nhập và mức giảm chi phí y tế do sự thay đổi chất lượng môi trường gây
nên. nói chung, có tthể đánh giá ảnh hưởng môi trường bằng phương pháp này khi bệnh
xẩy ra trong một thời gian tương đối ngắn , rời rạc và không có di chứng lâu dài. Căn bệnh
mãn tính thì xử lý khó hơn. có thể chọn cách tiếp cận sự giảm thu nhập để phân tích các
hoạt động phát triển trong các trường hợp sau:
+ Khi có thiết lập mối quan hệ nhân quả và nguyên nhân gây ra bệnh có thể xác
định rõ ràng .
+ Bệnh xẩy ra trong một thời gian ngắn không đe doạ tính mạng và không có hiệu
quả lâu dài.
+ Biết được thu nhập một cách chính xác và cả mức độ chăm sóc thuốc men.
Một số dạng bệnh tật có liên quan đến chất lượng môi trường rất khó có thể đánh
giá được, do đó khi sử dụng phương pháp này cần thiết có một số điều kiện sau:
- Nguyên nhân không được thiết lập rõ ràng
- Nhiều nguồn ô nhiễm sẽ làm cho mối quan hệ này khó xác định.
Nếu như là bệnh mãn tính và ảnh hưởng của nó làm suy giảm chứ không gây bệnh
tật thì vấn đề đánh giá trở nên phức tạp, bởi vì nó vẫn thường như là “khoẻ mạnh”
- Chi phí cơ hội: khái niệm này dựa trên sự phân tích chi phí sử dụng tài nguyên do
những mục đích không thể làm ra hoặc không thể buôn bán, có thể ước lượng được bằng
cách sử dụng lợi nhuận ròng thu được khi sử dụng ô nhiễm và mục đích khác. thay cho
việc xác định trực tiếp mục đích của việc bảo vệ tài nguyên (không định gía hoặc buôn bán
được) ta đo giá trị bị mất cho bảo tồn nó. Vì vậy, chi phí cơ hội là một cách tiếp cận trong
việc xác định “cái giá” của việc bảo vệ.
Bình thường, kỹ thuật này dựa trên cách tiếp cận tới chi phí. Tuy nhiên, trên thực tế
nó đo lợi ích của việc bảo vệ, bản thân việc này rất khó đánh giá. Những trường hợp mà
trong đó tiếp cận này tỏ ra có giá trị là các hoạt động có liên quan tới các khu rừng nhiệt
đới, thành lập các khu bảo vệ, các khu di tích lịch sử văn hoá.
- Chi phí phòng ngừa: trong một vài trường hợp, có thể xác lập một giá trị tối thiểu
mà mỗi cá nhân có thể chi phí cho việc giữ chất lượng môi trường của họ, do đó cần thiết
có bao nhiêu người sẵn sàng cho việc phòng ngừa việc phá hủy môi trường này. Điều đó
cũng đúng với các cộng đồng và các quốc gia, chỉ có thể ước lượng các giá trị này ở mức
tối thiểu vì khoản chi tiêu thực tế có thể bị hạn chế do mức thu nhập cuả mỗi cá nhân. Nhu
cầu để loại trừ các tổn hại đến môi trường có thể xem như là một nhu cầu thay đổi bảo vệ
môi trường. Đương nhiên mỗi cá nhân sẽ chỉ cam kết với tài nguyên của họ nếu như lợi ích
thu được tối thiểu chỉ bằng chi phí. Vì vậy cách tiếp cận này chỉ cho ta một ước lượng tối
thiểu và lợi ích thu được. Đây là phương pháp khá thông dụng.
- Chi phí ẩn tiềm năng: Đầu tiên là các chi phí môi trường cập nhật được chi trả
trước khi xẩy ra quá trình hoạt động cuả các quả trình hệ thống hay thiết bị, những chi phí
bao gồm.
+ Chi phí liên quan đến mặt hàng.
+ Chi phí thiết kế sản phẩm và quá trình sản xuất có xét đến môi trường
+ Chi phí đánh giá các thiết bị kiểm soát môi trường.
- Các chi phí môi trường được điều chỉnh và tự nguyện được chi trả khi có hoạt
động, hệ thống hay thiết bị vì những công ty thường xem những chi phí này như tổng chi
phí nên chúng có thể không được quan tâm đúng mức của người quản lý có trách nhiệm
cho các hoạt động hàng ngày và quy định kinh doanh. Tầm quan trọng của chi phí này có
thể khó được xác định hơn khi chúng được đưa vào tổng hợp chi phí, trong khi các chi phí
hoạt động hiện tại và cập nhật có thể bỏ qua bởi thực tế hạch toán quản lý, các chi phí môi
trường cuối cùng có thể không được đưa vào hệ thống quản lý. Nếu các chi phí môi trường
cho các hoạt động hiện tại thành chi phí tiềm ẩn thì có nghĩa là chúng ta chắc chắn có thể
xẩy ra nhiều hay ít tại một thời điểm trong tương lai làm rõ được chi phí ẩn tiềm năng thì
điều đó có lợi cho các nhà quản lý phân được các loại chi phí.
+ Xử lý ô nhiễm môi trường không liên quan tới các hoạt động đang tiến hành.
+ Kiểm soát và chống ô nhiễm từ các hoạt động đang tiến hành .
+ Giảm ô nhiễm gây ra cho các hoạt động trong tương lai.
+ Chi phí phát sinh:
Các chi phí có thể có hay không được chi trả tại một thời điểm trong tương lai bao
gồm
+ Chi phí đền bù cho các tai nạn xẩy ra trong tương lai có ảnh hưởng đên môi
trường.
+ Các khoản phạt do các quy định trong tương lai
+ Các chi phi trong tưong lai do các hậu quả không mong muốn về việc cấp giấy
phép….
Hiện này chi phí này thường dựa trên xem xét với mục đích khác nhau nên nó
không được quan tâm đầy đủ trong hệ thống hạch toán, quản lý nội bộ và quá trình ra
quyết định.
- Chí phí cho uy tín và mối quan hệ: Một số chi phí môi trường được gọi là hữu
hình hay vô hình nó được chi trả để tác động đến nhận thức của người quản lý, của khách
hàng, của nhân viên, cộng đồng và những người điều khiển. Loại chi phí này có thể bao
gồm chi phí cho các báo cáo môi trường và chương trình chống ô nhiễm.
Chương II. Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của
công ty.
I. Hiện trạng môi trường tại công ty.
1. Vị trí địa lý.
Công ty Cao su Sao vàng được xây dựng tại khu công nghiệp Thượng Đình ở phía
Tây nam Hà Nội.
- Phía bắc giáp với tập thể Công ty Cao su Sao vàng cách 100 m.
- Phía nam tiếp cận với công ty Xà Phòng Hà Nội
- Phía tây giáp quốc lộ 6 và cách khu dân cư mới xây dựng 200 m.
- Phía đông giáp xã Khương Đình (một khu vực dân cư nhỏ)
Tổng số diện tích mặt bằng của công ty hiện nay là 59 539 m
2
. Diện tích xây dựng
khoảng 30 000 m
2
, diện tích xây dựng nhà sản xuất là 20 000 m
2
.
2. Đặc điểm khí hậu.
Khu vực Công ty Cao su Sao vàng nằm trong vùng khí hâu nhiệt đối gió mùa, có
đặc điểm là mùa hè nóng, ít mưa, mùa đông lạnh, theo số liệu những năm gần đây của trạm
khí tượng thủy văn Hà Nội, Ban thanh tra môi trường thành phố Hà Nội đã đo đạc được.
2.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ không khí là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của công
ty, ảnh hưởng trực tiếp đên quá trình chuyển hóa và phát tan của các chât ô nhiễm trong
khí quyển, theo kết quả khảo sát ban thanh tra môi trường thành phố Hà Nội nhiệt độ trung
bình hàng năm.
- Nhiệt độ trung bình hàng năm: 23
o
C
- Nhiệt độ tối cao trung bình 35
o
C
- Nhiệt độ tối thấp trung bình 12
o
C
2.2. Mưa
Theo số liệu đo đạc về lượng mưa: lượng mưa trung bình hàng năm là 1900 mm,
trung bính số mưa khoảng 120 ngày/năm và phân bố như sau: mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 8 năm sau, mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 11.
2.3. Độ ẩm không khí
Độ ẩm không khí là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình khuyếch tán và
chuyển hoá các chất gây ô nhiễm không khí.
Độ ẩm khu vực Công ty Cao su Sao vàng cả năm là 70 %, mùa khô có độ ẩm giảm
đi, mùa mưa có độ ẩm tăng lên.
2.4. Chế độ gió
Đây là yếu tố ảnh hưởng rất mạnh tới sự phát tán trong môi trường không khí và độ
thông thoáng trong môi trường làm việc.
Mùa khô tốc độ gió 2m/giây, mùa mưa 1,5 m/giây.
2.5. Nắng và bức xạ.
Bức xạ mặt trời là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chế
độ nhiệt trong vùng và độ bền vững khí quyển là yếu tố khí hậu quan trọng ảnh hưởng đến
quá trình phát tán, biến đổi các chất gây ô nhiễm môi trường không khí.
Thời gian nắng trung bình trong ngày là 7 giờ. Cường độ bức xạ trong những ngày
nắng cũng không giống nhau, cường độ mùa hè lớn hơn cường độ bức xạ vào mùa đông,
những buổi trưa hè cường độ lớn hơn cường độ vào buổi tối, buổi sáng.
3. Cấp và thoát nước
3.1. Cấp nước
Hiện tại công ty khai thác nước từ 3 giếng khoan có độ sâu 70 đến 75 m, với tổng
công suất 7000 m
3
/ngày đêm (chỉ sử dụng 6360 m
3
).
Nước khai thác từ giếng được xử lý thông thường (dàn mưa ô xi hóa, lắng, lọc).
Nước dùng cho nồi hơi được xử lý bằng lọc áp suất cao và trao đổi ion. Lượng nước được
sử dụng như sau:
- Cấp cho nồi hơi 765 m
3
/ ngày đêm
- Nước làm mát máy và nước công nghệ 5556 m
3
/ ngày đêm
- Nước dùng cho vệ sinh của công nhân 36 m
3
/ngày đêm
3.2. Hệ thống nước thải bao gồm.
- Rãnh thóat nước từ các xí nghiệp của công ty có chiều dài 880 m.
- Mương thải chung của cả khu cao su- xà phòng- thuốc lá chảy qua công ty có
chiều dài là 320 m.
- Một mương thoát nước mưa từ quốc lộ 6 chảy qua công ty có chiều dài là 250 m.
II. Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động môi trường của công ty
1. Mối quan hệ giữa hoạt động giữa công ty vơi môi trường.
1.1. Những hoạt động chính của công ty cần được xem xét.
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Công ty cao su sao vàng là tiền thân của nhà máy cao su sao vàng Hà nội được bắt
đầu xây dựng vào ngày 22/12/1958 tại khu công nghiệp Thượng Đình, nay thuộc quận
Thanh Xuân- Hà nội. Với sự giúp đỡ toàn bộ về máy móc thiết bị kỹ thuật từ nước cộng
hoà nhân dân Trung Hoa.
Ngày 23/5/1960 nhà máy làm lễ cắt băng khánh thành thành lập nhà máy Cao su
sao vàng Hà nội và cũng từ đó hàng năm nhà máy lấy ngày này làm ngày truyền thống.
Ngày kỷ niệm nhà máy thành lập một bông hoa hữu nghị của đoàn kết keo sơn Việt- Trung
(với viện trợ không hoàn lại của Đảng Chính phủ nhân dân Trung quốc cho công trình xây
dựng này). Đây là một xí nghiệp quốc doanh lớn nhất, lâu đời nhất và duy nhất sản xuất
săm lốp ôtô- con chim đầu đàn của ngành công nghiệp chế tạo các sản phẩm cao su Việt
nam, và ngay từ những ngày đầu tiên sau ngày đi vào chính thức sản xuất với kế hoạch
Nhà nước giao, nhà máy đã hoàn thành các chỉ tiêu sau:
- Giá trị tổng sản lượng: 2.459.422 đ
- Các sản phẩm chủ yếu.
+ Lốp xe đạp: 93.664 chiếc
+ Săm xe đạp: 38.388 chiếc
- Với đội ngũ cán bộ công nhân viên 232 người (không có tốt nghiệp đại học chỉ
có hai người trình độ trung cấp). Được phân bổ trong 3 phân xưởng sản xuất và 6 phòng
ban nghiệp vụ.
- Vốn sản xuất chủ yếu là tài sản cố định không quá 1000.000 đ, vốn lưu động rất
ít.
Trải qua nhiều năm tồn tại trong cơ chế hành chính bao cấp (1960- 1987) nhịp độ
sản xuất của nhà máy luôn tăng trưởng, số bình quân lao động tăng không ngừng, năm
1986 là 3280 người, song nhìn chung sản phẩm đơn điệu, chủng loại nghèo nàn ít được cải
tiến vì không có đối tượng cạnh tranh, bộ máy gián tiếp thì cồng kềnh, hoạt động còn trì
trệ, hiệu quả kém, thu nhập của lao động thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn.
Từ những năm 1988- 1989, nhà máy trong thời kỳ quá độ chuyển từ cơ chế hành
chính bao cấp sang cơ chế thị trường, với tinh thần sáng tạo, đoàn kết, nhất trí, nhà máy đã
tiến hành tổ chức, xắp xếp lại có chọn lọc với phương châm vì lợi ích của nhà nước trong
đó có lợi ích chính đáng của cá nhân mình, họ đã dần dần đưa nhà máy thoát khỏi cơn
khủng hoảng.
Năm 1990, sản xuất dần dần được ổn định, thu nhập của người lao động có chiều
hướng tăng, đã có biểu hiện tích cực chứng tỏ nhà máy có thể tồn tại và hoà nhập trong cơ
chế mới.
Từ năm 1991 đến nay nhà máy đã khẳng định được vị trí của mình là một doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có doanh thu tăng dần và các khoản nộp ngân
sách năm sau cao hơn năm trước, thu nhập của người lao động dần dần được nâng lên và
đời sống được cải thiện. Doanh nghiệp luôn được công nhận là đơn vị thi đua xuất sắc,
được nhiều cờ tặng và bằng khen của cơ quan cấp trên, các tổ chức đoàn thể luôn được
công nhận là đơn vị vững mạnh.
Từ thành tích trên đã dẫn đến kết quả là. Theo quyết định số 645/CNNG ngày
27/08/1992 của Bộ công nghiệp nặng đổi tên nhà máy thành Công ty cao su sao vàng.
Ngày 1/1/1993, nhà máy chính thức sử dụng con dấu mang tên Công ty cao su sao
vàng. Tiếp đến ngày 5/5/1993 theo quyết định số 215/QĐ/TCNĐT của Bộ công nghiệp
nặng cho thành lập doanh nghiệp nhà nước để chuyên môn hoá đối tượng quản lý. Ngày
20/12/1995, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 835/TTG và nghị định 02/CP. Ngày
25/11/1996 phê chuẩn điều lệ tổ chức hoạt động của công ty hoá chất Việt Nam. Theo văn
bản này, Công ty cao su sao vàng được đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty hoá
chất Việt Nam.
Tính đến nay, công ty đã có hơn 40 năm xây dựng và phát triển. Hiện nay công ty là
một trong những đơn vị kinh tế quốc doanh làm ăn có hiệu quả ở Hà Nội, xứng đáng là
con chim đầu đàn của nghành chế phẩm cao su trong cả nước. Ngoài sản những sản phẩm
truyền thống như săm lốp xe đạp. Công ty còn chế tạo săm lốp xe máy, ôtô, các loại sản
phẩm về cao su và đặc biệt công ty còn chế tạo thành công lốp máy bay dân dụng.
Ngoài ra công ty còn đạt được những thành tựu sau:
- Năm 1993, công ty được tặng 3 huy chương vàng tại hội chợ triển lãm hàng
công nghiệp.
+ Một huy chương vàng cho sản phẩm lốp ôtô, máy kéo.
+ Một huy chương vàng cho sản phẩm lốp xe máy.
+ Một huy chương vàng cho sản phẩm lốp xe đạp.
- Năm 1995, săm lốp Sao vàng được bình chọn là một trong mười sản phẩm được
người tiêu dùng ưa chuộng nhất và đã dành được danh hiệu topten năm 1995.
- Năm 1996, sản phẩm săm lốp được giải bạc về hàng chất lượng cao của Bộ khoa
học công nghệ và môi trường.
- Năm 1997, một lần nữa săm lốp sao vàng được người tiêu dùng bình chọn là
một trong mười sản phẩm ưa chuộng nhất và đạt danh hiệu topten năm 1997.
- Năm 1998, được Nhà nước tặng huân chương lao động hạng nhất.
Với những thành tích trên Công ty cao su sao vàng đã được nhà nước tặng 5 huân
chương các loại và một cá nhân là anh hùng lao động. Cũng bằng chính chất lượng của
mình công ty đã nhận được chứng chỉ ISO 9002 vào cuối năm 1999, đó là một trong
những công cụ quan trọng giúp công ty bước vào thị trường thế giới một cách tự tin hơn.
Xí nghiệp cao su số 1: chuyên sản xuất lốp xe đạp, xe máy, băng tải, gioăng cao su,
dây curoa, cao su chống ăn mòn, cao su chịu dầu, chịu nhiệt, ủng bảo hộ người lao
động…(gọi tắt là xí nghiệp tạp phẩm).
- Xí nghiệp cao su số 2: chuyên sản xuất lốp xe đạp các loại, ngoài ra còn có
phân xưởng sản xuất tanh xe đạp.
- Xí nghiệp cao su số 3: chuyên sản xuất săm lốp ôtô và lốp máy bay dân dụng.
- Xí nghiệp cao su số 4: chuyên sản xuất các loại săm xe đạp, xe máy.
- Chi nhánh cao su Thái Bình: chuyên sản xuất một số loại săm lốp xe đạp nằm ở
địa bàn tỉnh Thái Bình.
- Nhà máy Pin- cao su Xuân Hoà: có nhiệm vụ sản xuất pin khô mang nhãn hiệu
“Con Sóc”, ắc quy, điện cực chất độn hoá học và một số thiết bị nằm tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Các đơn vị sản xuất phụ trợ: chủ yếu là các xí nghiệp cung cấp năng lượng, ánh
sáng động lực điện máy, hơi đốt cho các xí nghiệp sản xuất chính.
- Xí nghiệp năng lượng: có nhiệm vụ cung cấp hơi nén, hơi nóng và nước cho các
đơn vị sản xuất kinh doanh chính toàn công ty.
- Xí nghiệp cơ điện: có nhiệm vụ cung cấp điện máy lắp đặt, sửa chữa về điện cho
các xí nghiệp và toàn công ty.
- Phân xưởng kiến thiết và bao bì: có nhiệm vụ xây dựng và kiến thiết nội bộ sửa
chữa các tài sản cố định và làm sạch các thiết bị máy móc, sản xuất bao bì đóng gói sản
phẩm.
Ngoài các xí nghiệp sản xuất chính và phụ công ty còn có các đội vận chuyển bốc
dỡ, đội xe vận tải và dịch vụ, các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm tới tận tay người
tiêu dùng
1.1. 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty Cao su sao vàng.