Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

ĐẶC ĐIỂM PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA TRƯƠNG TỬU pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.66 KB, 13 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012

ĐẶC ĐIỂM PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA TRƯƠNG TỬU
Nguyễn Thành
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

Tóm tắt. Trương Tửu là một trong những cây bút phê bình văn học tiêu biểu trước
tháng 9 năm 1945. Trong sự nghiệp phê bình của mình, ơng đã sử dụng nhiều lý
thuyết phê bình khác nhau khi nghiên cứu văn học Việt Nam: lý thuyết thực chứng
của H. Taine (trường phái văn hóa - lịch sử), phân tâm học, xã hội học mác xít. Có
khi trong một cơng trình nghiên cứu, ông kết hợp nhiều lý thuyết khác nhau, chẳng
hạn kết hợp phê bình mác xít với phân tâm học, hoặc mác xít với tinh thần thực
chứng của trường phái văn hóa lịch sử... Có khi cùng một tác phẩm, nhưng trong
các lần nghiên cứu khác nhau, ông đã sử dụng các lý thuyết khác nhau.
Bài báo nghiên cứu và đánh giá một cách tồn diện đặc điểm phê bình văn học của
Trương Tửu (bao gồm nội dung và hình thức, thành tựu và hạn chế), thơng qua các
cơng trình tiêu biểu. Qua đó, khẳng định những nỗ lực có tính tiên phong của ơng
trong phê bình văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20. Bài báo cũng đồng thời chỉ ra
những luận giải và nhận định chủ quan, phiến diện của nhà phê bình ở một số
trường hợp.

Trương Tửu (trước Cách mạng tháng Tám, ông lấy bút danh Nguyễn Bách
Khoa) tham gia viết phê bình văn học từ 1935, khi ơng cịn là cộng tác viên thường
xun của báo Loa và cơ bản chấm dứt sự nghiệp phê bình sau năm 1958. Việc đánh giá
cuộc đời hoạt động văn chương của ơng (bao gồm phê bình, sáng tác và giảng dạy văn
học) có những ý kiến trái ngược nhau, tuy nhiên gần đây, khi những chuyện cũ đã qua đi,
giới học giả có ý hướng muốn ghi nhận lại một cách khách quan những gì ơng đã làm
được cho văn học sử Việt Nam. Trên tinh thần đó, Tuyển tập nghiên cứu phê bình và
Tuyển tập văn xi của Trương Tửu đã lần lượt được xuất bản. Với văn xi, Trương
Tửu khơng có nhiều đóng góp, nhưng với phê bình văn học, thì ơng là một trong những
cây bút năng nổ, có phong cách.


Trước Cách mạng tháng Tám, khi khá nhiều cây bút cịn loay hoay với phê bình
ấn tượng, thì Trương Tửu đã lựa chọn và vận dụng khá thành thạo các phương pháp phê
bình khách quan, trên cơ sở tiếp thu các lý thuyết phê bình hiện đại của phương Tây.
Trong phê bình văn học, việc vận dụng một lý thuyết mới vừa tạo nên một đời sống mới
cho tác phẩm (hiệu quả tiếp nhận), vừa góp phần mở ra một hướng tiếp cận mới đối với
văn học (chứng minh tính khả dụng của lý thuyết). Trương Tửu là người đã làm được cả
237


hai công việc trên cùng một lúc, tuy nhiên, điều kiện lịch sử khách quan và những hạn
chế chủ quan, đã dẫn đến những giới hạn về sự hoàn thiện trong các cơng trình nghiên
cứu của ơng.
Dấu ấn phê bình đậm nét nhất của Trương Tửu là các cơng trình sử dụng lý
thuyết xã hội học mác xít, tuy nhiên, trong lịch sử phê bình, ơng từng bị các nhà phê
bình mác xít chỉ trích nhiều nhất về một số luận điểm của ơng. Vì sao có hiện tượng
này? Theo tơi, có mấy lý do sau đây:
- Thứ nhất, tiếp nhận một lý thuyết mới mẻ, mà trước đó chưa có một thành tựu
ứng dụng, cụ thể như phê bình xã hội học mác xít và vận dụng nó vào thời điểm mà
cuộc đấu tranh ý thức hệ đang diễn ra gay gắt (trước và sau Cách mạng tháng Tám),
chắc chắn, bất cứ nhà phê bình nào cũng khó tránh khỏi chủ quan, phiến diện.
- Thứ hai, trước Cách mạng tháng Tám, Trương Tửu tiếp nhận chủ nghĩa Marx
theo tinh thần của giới học giả phương Tây, tức là chủ nghĩa Marx thuần tuý, chứ không
phải là chủ nghĩa Marx - Lenin như sau này phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Trương Tửu đã tìm đến với một
chủ nghĩa Marx gắn với thực tiễn công nông hơn, nhưng thật rủi ro cho ơng, lúc bấy giờ
ảnh hưởng chính trị từ Trung Quốc quá mạnh, nên ông đã bị chi phối bởi chủ nghĩa
Marx mang màu sắc Mao Trạch Đơng. Cuốn Văn nghệ bình dân Việt Nam thể hiện khá
rõ sự tiếp thu đó.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Marx phương Tây hoặc chủ nghĩa Marx kiểu Mao Trạch
Đông đã dẫn đến sự khác biệt trong các cơng trình phê bình văn học của Trương Tửu so

với các nhà phê bình mác xít tiếp thu chủ nghĩa Marx - Lenin ở Việt Nam trước và sau
Cách mạng tháng Tám. Đồng thời, nó cũng tạo cho các cơng trình phê bình của ơng có
những đặc điểm riêng. Đặc điểm này đã khiến cho các cơng trình của Trương Tửu vừa
có những phát hiện nổi bật, vừa không tránh khỏi những suy diễn chủ quan. Điều đó
được thể hiện trong các cơng trình tiêu biểu với những đối tượng nghiên cứu cụ thể sau
đây:
1. Nghiên cứu Truyện Kiều của Nguyễn Du
Truyện Kiều được Trương Tửu chọn làm đối tượng khảo sát, nghiên cứu khi ơng
có ý thức sử dụng phương pháp phê bình khách quan. Và đó là một sự lựa chọn đúng
đắn vì Truyện Kiều là một kiệt tác ẩn chứa những giá trị nội dung tư tưởng và nghệ
thuật phong phú, sâu sắc, độc đáo. Trương Tửu là tác giả của ba cơng trình nghiên cứu
về Truyện Kiều: Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Văn chương Truyện Kiều (1945) và
Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956). Mỗi cơng trình đều thể hiện rõ dấu ấn của
các lý thuyết phê bình khác nhau, trong đó chúng tơi chú ý hai cơng trình được xuất bản
năm 1942 và 1956, bởi chúng thể hiện rõ đặc điểm phê bình của Trương Tửu.
238


1.1. Nguyễn Du và Truyện Kiều
Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942) là cơng trình phê bình văn học vận dụng kết
hợp những luận điểm của trường phái văn hoá - lịch sử với xã hội học và phân tâm học.
Theo Trương Tửu, những nhà phê bình và độc giả trước ông suốt gần hai thế kỷ đều
không thoát khỏi quan niệm cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều là để “ký thác tâm
sự” của mình. Vì thế, để tránh lối phê bình chủ quan, ơng chủ trương dùng phương pháp
phê bình khách quan để nghiên cứu. Phương pháp phê bình khách quan theo Trương
Tửu là phải dựa vào những kiến giải của khoa học, mà khởi điểm của nó là đi tìm
“nguồn gốc sự cấu tạo ra cá tính Nguyễn Du”. Theo ơng, cá tính của nhà văn là một yếu
tố căn bản của sự sáng tạo và “nhờ có cá tính mà mỗi người cảm xúc, suy nghĩ và hành
động một cách khác, không ai giống ai”. Tiếp thu những quan niệm của trường phái văn
hoá - lịch sử, Trương Tửu cho rằng, cá tính của nhà văn do sự chi phối của di truyền,

đẳng cấp xã hội và “hồn cảnh thiên nhiên” (q qn, khí hậu, vị trí địa dư và lịch sử)
và theo ơng thì “đẳng cấp tính, quốc tính và địa phương tính” là ba yếu tố căn bản tạo ra
cá tính”. Tuy được diễn giải khá dài và có nhấn mạnh đến hồn cảnh xã hội, nhưng về
cơ bản những luận điểm của Trương Tửu là được dựa vào những luận điểm của H. Taine
trong trường phái văn hoá - lịch sử.
Trên cơ sở những lý thuyết được giới thuyết, nhà phê bình đã vận dụng vào
nghiên cứu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều. Cuốn sách gồm 2 phần, 9 chương. Trong
chương 1 (phần thứ nhất) viết về “Huyết thống Nguyễn Du”, nhà phê bình khẳng định
và chứng minh Nguyễn Du thuộc “dịng họ trâm anh, gia tư giàu có, nổi tiếng về tài văn
học”. Vì vậy, Nguyễn Du là một phần tử tinh tuý của “đẳng cấp nho sĩ”. Ngoài ra, cái
huyết thống của họ Nguyễn Tiên Điền này còn “chịu ảnh hưởng sâu xa của vùng Nghệ
Tĩnh”. Do đặc điểm của vùng đất (địa lý, khí hậu) nên con người ở đây rèn đúc một
“tinh thần chiến đấu dũng cảm”, “lòng kiên nhẫn phi thường”. Đó là đặc điểm chung
của con người xứ Nghệ, nhưng ở Nguyễn Du, theo nhà phê bình, thì có một vài ngoại lệ.
Chẳng hạn, việc ra làm quan cho Triều Nguyễn và tính đa cảm trong nhiều tác phẩm của
Nguyễn Du mà Trương Tửu gọi là “văn chương uỷ mị” thì do những “biến thái di
truyền” riêng: người mẹ của Nguyễn Du vốn là người con của đất Bắc Ninh, “thích văn
chương và phong tình diễm lệ”. Bắc Ninh là “đất của ái tình”. Người đàn bà đẻ ra
Nguyễn Du là “cơ gái đa tình”. Vận dụng khái niệm “thời điểm” của H. Taine, Trương
Tửu cho rằng Nguyễn Du sinh ra vào một “thời khắc” rất đáng chú ý: sự loạn lạc dai
dẳng, tàn bạo và thảm khốc từ khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến lúc chúa
Trịnh cai trị bạo quyền và ăn chơi xa xỉ. Trước tình hình ấy, đẳng cấp văn thân, nho sĩ,
trong đó có thân phụ Nguyễn Du (ơng Nguyễn Nghiễm) vô cùng căm thù chúa Trịnh và
những kẻ nịnh thần, nhưng bất lực, đành “gặm nhấm suông mối nguyện vọng phù Lê và
nỗi căm hờn đối với kẻ cường quyền”. Theo nhà phê bình, “qua di truyền họ tộc, tất cả
vận mệnh của đẳng cấp đã thấm vào mạch máu Nguyễn Du từ phút nằm trong bụng mẹ”.
Do vậy, cá tính của Nguyễn Du được hợp thành từ “cái khí phách tàn tạ của cha” và “cái
239



phong tình ưu du của mẹ”. Khi phân tích “thời đại Nguyễn Du”, nhà phê bình đã chứng
minh đó thời kỳ xã hội loạn lạc, do sự rối loạn từ trong triều đình bởi nạn kiêu binh, dân
tình khốn khổ, điêu linh, kéo dài 22 năm từ 1767 (lúc Trịnh Sâm lên ngôi) đến 1789 (khi
Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phá tan quân Thanh, đánh đổ vua Lê, chúa Trịnh). Hồn
cảnh đó đã tác động đến tâm hồn và tư tưởng Nguyễn Du, góp phần kết tinh lại “cá
tính” của ông. Như vậy, khái niệm “thời điểm” (moment) của H.Taine đã được Trương
Tửu hiểu là bao gồm cả thời khắc nhà văn được sinh ra lẫn thời gian mà nhà văn sinh
sống và sáng tác. Trong những thời đoạn đó, tình trạng xã hội ra sao và nó sẽ tác động
đến nhà văn như thế nào. Sự tác động này chắc chắn góp phần hình thành “cá tính” của
nhà văn. Từ “cá tính” được Trương Tửu sử dụng theo nghĩa bao hàm tâm tính, tư tưởng
của nhà văn, gần với khái niệm “tính khí” (tempérament) mà trường phái văn hố - lịch
sử nêu ra.
Tham khảo các cơng trình y học, Trương Tửu còn cho rằng, Nguyễn Du là “một
con bệnh thần kinh”, thuộc vào loại người có “căn tạng cảm xúc quá độ”, thường biểu
hiện “lúc nào cũng lo sợ hãi hùng, rồi trí tưởng tượng bị kích thích thái quá phải làm
việc cấp bách, đâm ra sáo loạn”, “cho nên văn thơ ông phần lớn chỉ là ảo giác, khóc lóc
trầm muộn”. Và chính ảo giác đã tạo ra các cảnh tượng hãi hùng gắn với những kiếp
người lang thang, vật vờ như trong bài Văn tế thập loại chúng sinh (còn gọi là Văn
chiêu hồn) và cả trong Truyện Kiều, tập trung ở những hình ảnh gắn với oan hồn nhân
vật Đạm Tiên.
Như vậy, trong phần thứ nhất của cuốn sách, Trương Tửu đã cơ bản bám sát các
khái niệm của H.Taine để phân tích về tác giả của Truyện Kiều. Khi phân tích “thời đại”
Nguyễn Du, nhà phê bình đã chú ý những yếu tố chính trị - xã hội lúc bấy giờ, chứ
không thuần tuý mơi trường mang tính vật lý, do vậy thực ra, Trương Tửu đứng trên nền
tảng lý thuyết của H. Taine nhưng lại kết hợp vận dụng lý luận của Karl Marx. Phần viết
về thân thế và gia cảnh của Nguyễn Du cung cấp nhiều thông tin sát thực về nhà thơ.
Tuy nhiên, trong phần dẫn giải về trạng thái xúc cảm trong “cá tính” của Nguyễn Du,
nhà phê bình đã khơng tránh khỏi những suy diễn mang tính chủ quan, khi ông cho
Nguyễn Du thuộc căn tạng cảm xúc quá độ - một dấu hiệu của căn bệnh thần kinh (được
hiểu theo nghĩa của khoa học). Trong phần thứ hai, nhà phê bình vận dụng lý thuyết của

H. Taine lẫn lý luận của Karl Marx vào nghiên cứu tác phẩm Truyện Kiều. Ơng cho rằng,
có bốn động lực thúc đẩy Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều: 1) Sự tương đồng về xã hội
trong Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) và xã hội thời Nguyễn Du đang
sống; 2) Mỗi nhân vật trong truyện đều thể hiện một góc cá tính của nhà thơ; 3) Triết lý
của truyện cùng tính chất với nhân sinh quan của ông; 4) Kiến trúc tâm lý toàn truyện
phản chiếu đúng nguyện vọng của đẳng cấp ơng [1]. Bốn động lực trên được nhà phê
bình vận dụng vào các nhân vật trong truyện. Trước hết ông phân tích xã hội trong
Truyện Kiều, mà khởi sự là chuyện nàng Kiều tài hoa, xinh đẹp bị xã hội buộc phải lưu
lạc suốt 15 năm trời. Theo nhà phê bình đó là một xã hội bất minh, quan lại thối nát và
240


Nguyễn Du đã nhận ra sự tương đồng về mặt xã hội khi đọc Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) với xã hội Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân
tranh: chúa Trịnh Sâm chơi bời xa xỉ dẫn đến việc cho phép mua quan bán tước để có
nhiều tiền tiêu xài, khiến quan trường ngày càng xa rời nho hạnh, sinh ra đục khoét,
tham lam.
Khi phân tích các nhân vật tiêu biểu trong truyện Kiều (Kim Trọng, Từ Hải,
Thuý Kiều), Trương Tửu cho rằng, tâm tính các nhân vật này ít nhiều phản chiếu tâm
tính của Nguyễn Du. Ở Kim Trọng, đó là sự đa tình, đa cảm, quả quyết, đó là tâm tính
của con người thuộc “nịi tình” mà Nguyễn Du thì “vốn là một nịi tình thượng đẳng”
[2] Khi phân tích Từ Hải - nhân vật mà theo Trương Tửu “có lẽ là Nguyễn Du thích nhất
trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân”, nhà phê bình đã dùng những
kiến giải của Freud về tâm lý vô thức của con người và sự chuyển tải vơ thức qua các
giấc mộng, từ đó cho rằng: “Với Từ Hải, Nguyễn Du đã làm một vị anh hùng trong
mộng tưởng” [3]. Về cái chết của Từ Hải, Trương Tửu có sự lý giải khá lý thú:“ Ơng
(tức Nguyễn Du - chú thích của N.T.) vừa thỏa mãn được ước vọng thầm kín của trái
tim (muốn chết như Từ để trọn danh tiết một kẻ thất thế), vừa thoả mãn được bản ngã trí
thức hợp với thời đại và đẳng cấp (mong mỏi sự thái bình n ổn). Cịn nhân vật Thúy
Kiều thì Trương Tửu cho rằng nàng mới là “cái bóng thực của thi sĩ Nguyễn Du” [4].

Nhà phê bình cho rằng, sinh ra và lớn lên trong gia đình trưởng giả phong lưu, Vương
Thúy Kiều từ tấm bé đã sống cuộc đời đài các, nhàn hạ, lại được khuôn đúc theo một
thứ “giáo dục kiều dưỡng”, nên nảy sinh ở nàng “một tâm hồn nhu nhược quá đến bi
sầu, một bộ thần kinh dễ rung động quá đến hoảng hốt” [5]. Đi xa hơn nữa, nhà phê
bình cịn dựa vào thuyết phân tâm học của Freud để chứng minh các trạng thái dồn ép
tâm lý ở Kiều là vừa do tâm tính, vừa do bản năng chi phối, dẫn đến Kiều thường hay lo
sợ (nghe chuyện Đạm Tiên liên hệ đến đời mình), thường hay thèm khát tình dục
(Trương Tửu xem Thúy Kiều là người đàn bà mắc chứng bệnh uỷ hoàng và ưu uất). Tuy
không lập luận một cách khắt khe như các nhà nho (Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ,
Tản Đà) - những người đánh giá Kiều từ đạo đức nho gia, nhưng quan điểm của Trương
Tửu về nhân vật Thuý Kiều cũng khá nặng nề và do vậy không tránh khỏi chủ quan, áp
đặt: “Tóm lại Kiều là một người ốm yếu thần kinh. Vì ốm yếu, nàng đã đã có một căn
tính dâm đãng, trầm uất, sầu muộn, hoảng hốt, liều lĩnh, sợ hãi. Căn tính này cộng với
cái lý tưởng thấp hèn về sự sống của nàng do giáo dục gây nên khiến nàng thành một kẻ
hèn nhát, ích kỷ, vụ lợi, vụ nhàn, thèm giàu sang, không chung thuỷ, thiếu đức độ và
nhân nghĩa” [6].
Nhìn chung, ý thức vận dụng phương pháp phê bình khách quan khi nghiên cứu
văn học nói chung và Truyện Kiều nói riêng của nhà phê bình Trương Tửu vào thời
điểm năm 1942 là nỗ lực đáng được ghi nhận. Bởi vì, các cơng trình được viết trước
Nguyễn Du và Truyện Kiều, về cơ bản chưa thốt khỏi lối bình phẩm chủ quan. Tuy
nhiên, cơng trình đầu tiên của ơng nghiên cứu về Truyện Kiều dù được viết khá say sưa
241


vẫn khơng tránh khỏi những sai sót. Cơng bằng mà xét, cuốn sách có hai phần, thì phần
viết về Nguyễn Du đã cung cấp nhiều tư liệu có giá trị (vào thời điểm lúc bấy giờ),
nhưng phần viết về Truyện Kiều trên cơ sở vận dụng “cá tính” Nguyễn Du rồi áp vào
các nhân vật trong truyện thì khơng tránh khỏi chủ quan. Đặc biệt, khi phân tích nhân
vật trung tâm của tác phẩm - Thuý Kiều, nhà phê bình chưa cảm nhận được đầy đủ vẻ
đẹp của hình tượng nhân vật và cảm hứng chủ đạo của tác phẩm, nên đã suy diễn máy

móc. Do vậy, kết luận cuối cùng của nhà phê bình về kiệt tác của văn học Việt Nam là
vơ tình phủ định nó. Trương Tửu cho rằng: “Truyện Kiều chỉ là kết tinh của những cái
suy nhược trong cốt tính Việt Nam (uỷ mị, hèn, trốn tránh)”. Đó là một kết luận sai lầm
rất đáng tiếc. Sự sai lầm này, theo chúng tôi, không phải do phương pháp mà là do
những luận giải chủ quan sa đà của nhà phê bình. Theo Phương Lựu, đây có thể là một
sự kết hợp lý thuyết của K. Marx với Freud [7]. Sau này, khi trở lại nghiên cứu Truyện
Kiều, từ những lý thuyết khác, Trương Tửu đã có những kiến giải khách quan hơn về
Nguyễn Du và tác phẩm của ông.
1.2. Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du
Cuốn Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) là cơng trình được tác giả của
nó ý thức rõ rệt việc vận dụng lý thuyết phê bình mác xít vào việc nghiên cứu tác phẩm
văn chương. Ông viện dẫn các ý kiến của Mao Trạch Đông về việc đánh giá văn học
quá khứ, của Trường Chinh gợi ý về việc tiếp nhận Truyện Kiều từ góc độ giai cấp, của
Lenin trong việc đánh giá những đóng góp của Lev Tolstoy. Từ đó, Trương Tửu tự đánh
giá hai cơng trình trước đây, tuy đã “phân tích và phê phán Truyện Kiều theo quan điểm
đấu tranh giai cấp” nhưng do “trình độ lý luận cịn ấu trĩ, lập trường chính trị cịn lệch
lạc”, nên việc sử dụng phương pháp phê bình mác xít cịn “phiến diện, gị ép, máy móc”,
tạo ra “những nhận định sai lầm căn bản”. Thực ra, trước đây, Trương Tửu khơng vận
dụng đúng phương pháp mác xít, nhưng lần này, ông đã chú ý đầy đủ phương pháp phê
bình này. Cuốn sách được bắt đầu với việc điểm lại lịch sử vấn đề nghiên cứu Truyện
Kiều trước đó (trước 1956). Nhà phê bình đã tổng quan được một vốn tài liệu phong phú
liên quan đến việc bình giá Truyện Kiều, phân ra các quan điểm chính, rồi đánh giá,
bình luận về những quan điểm ấy. Qua việc lược thuật và bình luận về những ý kiến
khác nhau xoay quanh việc đánh giá nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều, Trương
Tửu cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến tác phẩm này cần phải làm sáng tỏ.
Và trên cơ sở vận dụng quan điểm mác-xít trong phê bình văn học, ơng đã phân tích
Truyện Kiều qua các bình diện sau:
Một là, tinh thần chống phong kiến của Truyện Kiều. Trương Tửu đồng thuận
với một số nhà phê bình cách mạng, tiêu biểu là Hồng Xn Nhị, rằng Truyện Kiều thể
hiện rõ tinh thần chống phong kiến. Tuy nhiên, theo nhà phê bình, thì những người đi

trước “chưa bao quát được hết ý nghĩa nhân đạo của Truyện Kiều”, tức là họ chỉ chú ý
bình diện “ốn ghét chế độ phong kiến đã tiêu huỷ tài tình, vùi dập con người, nhưng
chưa đề cập được các bình diện khác, và ngay cả bình diện được đề cập thì họ vẫn chưa
242


đi sâu các vấn đề cụ thể. Nhà phê bình, một mặt khảo sát khá kỹ những cấu trúc giai cấp
trong Truyện Kiều, nhưng mặt khác, ông không tránh khỏi sự lên gân, suy diễn. Chẳng
hạn, ông phân biệt rạch rịi trong Truyện Kiều có “hai chiến tuyến” đối lập, xung đột gay
gắt: một bên là “giai cấp thống trị”, bao gồm: thằng bán tơ, tên quan hối lộ, lũ sai nha
đầu trâu mặt ngựa, mụ mối, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Khuyển, Ưng, Hoạn bà,
Hoạn Thư, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến; bên khác là “những kẻ bị áp bức, bị xã hội
thống trị làm cho đau khổ”: Thúy Kiều, Vương viên ngoại, Vương Quan, Thúy Vân,
Kim Trọng, Mã Kiều, Thúc Sinh, Quản gia, Từ Hải... Ông cho rằng, những người bị áp
bức này là lực lượng phản kháng lại “chế độ phong kiến nghẹt thở”. Từ đó, nhà phê
bình luận giải: “Chính sức phản kháng của họ đã xô đẩy xã hội phong kiến vào trạng
thái tan rã, đổ nát phân hoá”, rồi kết luận: Nguyễn Du đứng về phía tầng lớp bị áp bức,
nên ơng có tư tưởng tiến bộ.
Nhà phê bình cịn phân tích những mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Du. Vận
dụng một số quan điểm của các nhà mác xít về sự hạn chế trong tư tưởng của các nhà
văn do những giới hạn lịch sử trong xã hội cũ, Trương Tửu cho rằng Nguyễn Du mặc dù
có tư tưởng tiến bộ ở tinh thần phản phong, nhưng “chưa triệt để, tồn diện”. Theo ơng,
Nguyễn Du cũng như Balzac, là người xuất thân từ giai cấp phong kiến (trong gia đình
ba anh em đều làm quan), nhưng “đã thoát khỏi sự nơ dịch của thiểu số bóc lột và đã
biểu hiện trong tác phẩm kinh nghiệm lịch sử của quần chúng” [8]. Tuy nhiên, nó chưa
triệt để, vì tác giả Truyện Kiều còn vướng trong nhận thức thế giới và trong việc tìm giải
pháp cải tạo xã hội, vì vậy, “Nguyễn Du rất lúng túng trong khi quan niệm và giải quyết
vấn đề xã hội đương thời” [9].
Trong hai chương 3 và 4, cùng một tiêu đề “Thời đại Nguyễn Du và nội dung tư
tưởng Truyện Kiều” - hai chương chính của cơng trình phê bình theo quan điểm mác xit,

Trương Tửu đã tập trung phân tích các bình diện sau: Nhà văn và thời đại; Tình hình
đấu tranh giai cấp ở thế kỷ XIII, trước Tây Sơn; Quá trình thành bại của phong trào Tây
Sơn; Tính chất phản động của Triều Nguyễn; Vai trò bá chủ của đồng tiền trong sinh
hoạt xã hội của thời đại; Sự bần cùng hóa của tầng lớp thị dân tiểu tư hữu; Tự do, cơng
bằng - hai vũ khí phản phong của nhân dân. Mặc dù có nhiều mục khác nhau trong hai
chương cùng một nội dung, nhưng những vấn đề chính mà nhà phê bình muốn phân tích
và khẳng định có thể tóm tắt như sau:
- Về phương diện lý luận, Trương Tửu dựa vào một số luận điểm của những nhà
lý luận theo quan điểm mác xít trên thế giới, khẳng định giữa nhà văn và xã hội bao giờ
cũng có một mối quan hệ nhất định, nhà văn chịu sự “quy định và giới hạn” của thời đại
trên nhiều phương diện.
- Về vấn đề xã hội, Trương Tửu cho rằng phong trào Tây Sơn giai đoạn này là
phong trào nông dân khởi nghĩa chống phong kiến, biểu hiện mâu thuẫn sâu sắc “giữa
quan hệ sản xuất phong kiến phản động với toàn bộ lực lượng sản xuất đang phát triển”.
Theo nhà phê bình, Nguyễn Du là người trải nghiệm qua hai triều đại: triều đại Tây Sơn
243


với những thắng lợi oanh liệt chống ngoại xâm, những chính sách cởi mở và những mâu
thuẫn nội tại của chế độ; triều đại Gia Long khôi phục trật tự phong kiến, tăng cường
chuyên chính, phản dân, phản nước và sự phản kháng yếu ớt của dân chúng. Nguyễn Du
đã chứng kiến “những điều trông thấy” trong giai đoạn lịch sử ấy.
- Phân tích vai trị bá chủ đồng tiền trong xã hội thời kỳ tiền tư bản, Trương Tửu
dựa trên gợi ý của nhà cách mạng Lê Duẩn, từ đó phác thảo diện mạo xã hội mà mọi tai
biến, hư hỏng, đọa lạc đều vì tiền và cậy tiền, từ bọn quan lại, sai nha đến lũ người vô
lương tâm: mẹ mối, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh. Nhà phê bình
ghi nhận tác giả Truyện Kiều ln tỏ thái độ bất bình khi nói đến thế lực đồng tiền:
“Một ngày lạ thói sai nha/ Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”. Cịn khi phân tích sự
bần cùng hóa của tầng lớp “thị dân tiểu tư hữu” (chữ của Trương Tửu), nhà phê bình
cho rằng “tình trạng bần cùng hóa của các gia đình tiểu tư hữu là một hiện tượng phổ

biến trong xã hội phong kiến suy đồi” [10]. Theo ông, Kiều, Vương ông, Vương bà đều
tiêu biểu cho tầng lớp tiểu thị dân qua gia cảnh và tâm lý suy tính hằng ngày. Tầng lớp
này luôn yếu thế trước thế lực phong kiến quý tộc.
Trong phần viết “Tự do và công bằng - hai vũ khí phản phong của nhân dân”,
Trương Tửu cho rằng “Ở Từ Hải, tự do cá nhân chủ nghĩa lại cịn phối hợp với một ý
chí cơng bằng rất mãnh liệt” và Từ Hải không phải là con người xa lạ với thời đại lúc
bấy giờ, mà đó là hình bóng của anh hùng Nguyễn Huệ qua sự cảm nhận của đại thi hào
Nguyễn Du. Ông nhận định: “Hình bóng của anh hùng Nguyễn Huệ bao trùm cả thời
đại đã làm cơ sở hiện thực cho sự sáng tạo nhân vật Từ Hải của nhà thơ thiên tài
Nguyễn Du” [11].
Sau khi phân tích các bình diện cơ bản trên, nhà phê bình kết luận Truyện Kiều
là một “tác phẩm cổ điển tiêu biểu của văn học Việt Nam” (từ cổ điển được hiểu là tính
mẫu mực - chú giải của N.T.), là “tập đại thành” đầy sáng tạo của văn học Việt Nam.
Như vậy, so với hai công trình nghiên cứu về Truyện Kiều trước đây, thì Truyện
Kiều và thời đại Nguyễn Du là một cơng trình vận dụng khá nhuần nhuyễn lý thuyết phê
bình mác xít hơn cả.
2. Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ
Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Cơng Trứ được hồn thành vào năm 1943, cũng là
một cơng trình nghiên cứu theo quan điểm mác xít của Trương Tửu. Trong lời tựa của
cuốn sách, ông khẳng định khi nghiên cứu nhà văn, nhà phê bình phải dựa trên quan
điểm duy vật biện chứng, nghĩa là phải thấy được “trong cá nhân chỉ là những ảnh
hưởng của xã hội kết tinh lại”. Trương Tửu đề xuất phương pháp luận nghiên cứu một
nhà văn, nhà thơ là cần phải theo ba yêu cầu: 1) Khảo sát kỹ hồn cảnh xã hội trong đó
cá nhân ấy sinh sống và hành động; 2) Khảo sát kỹ nguyện vọng, tâm lý, tư tưởng, xu
hướng cùng vai trò lịch sử của đẳng cấp cá nhân ấy; 3) Khảo sát xem những ảnh hưởng
của cuộc xung đột đẳng cấp trong xã hội đã tác động đến cá nhân ra sao và đã chịu sức
phản động của các nhân ấy tới chừng nào [12].
244



Tóm lại, phương pháp nghiên cứu Nguyễn Cơng Trứ của Trương Tửu là đặt nhà
văn trong hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Tây Sơn đi xuống và nhà
Nguyễn ngày càng giành được ưu thế, dẫn đến sự kiện vua Gia Long lên ngơi hồng đế
(1802); Từ đó, khảo sát tâm lý, tư tưởng của nhà văn, xem xét sự tác động của xã hội và
của “đẳng cấp” đối với nhà văn và ngược lại. Theo phương pháp này, cơng trình của
Trương Tửu đã tìm hiểu và chỉ ra vị thế gia đình Nguyễn Cơng Trứ là một gia đình nhà
nho đỗ đạt, có danh tiết ở xứ Nghệ. Về đẳng cấp của nhà văn, theo nhà phê bình, là đẳng
cấp nho gia mà bản chất của giai cấp này lâu nay vẫn khơng có gì thay đổi, nghĩa là khi
nắm quyền thống trị, họ ln ra sức bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời bảo vệ cả lợi ích
của tầng lớp địa chủ và phú thương vì những lợi ích sống cịn của họ. Cũng từ sự phân
tích về quyền lợi giai cấp, Trương Tửu cho rằng, sở dĩ phong trào Tây Sơn thất bại, là vì
họ từ bỏ quyền lợi của giai cấp nơng dân khi họ nắm quyền. Khi phân tích tâm lý và tư
tưởng Nguyễn Cơng Trứ, nhà phê bình cho rằng vào thời buổi xã hội vua Lê chúa Trịnh
lâm vào tình trạng đổ nát, thì thân phụ nhà văn (ông Đức Ngạn Hầu) là một trong những
người thuộc tầng lớp “sĩ phiệt” lấy câu “quân tử ưu đạo bất ưu bần” của Khổng Tử làm
châm ngôn để tự an ủi.
Trước những bấn loạn của xã hội lúc bấy giờ, chàng trai trẻ Nguyễn Công Trứ
đã nhờ đạo đức và tư tưởng Nho gia “an bần lạc đạo” mà mặc dù gia cảnh nghèo nàn,
chàng vẫn luôn “lạc quan và hy vọng”. Từ chỗ ghét bọn phú hộ giàu có, coi khinh
chúng, Nguyễn Cơng Trứ đề cao thú hành lạc (cầm kỳ thi tửu phong vân tuyết nguyệt)
của lớp nhà nho tài tử (mẫu hình là từ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lưu Linh ở Trung Hoa thời
Đường). Và vì thế, ơng cũng mê hát ả đào, vì hát ả đào là nơi tập trung đầy đủ nhất cho
tư tưởng hành lạc của nhà nho tài tử. Trong thơ văn, ông nói nhiều về thú hát ả đào, ca
ngợi triết lý hành lạc, khơng loại trừ khao khát tình dục, nhưng biểu hiện cái dâm trong
thơ văn ông “tế nhị lắm, đẹp lắm” nên “cũng có tính cách q tộc”. Nguyễn Công Trứ
đã đậu giải nguyên và được bổ nhiệm làm quan năm 1819 (lúc ông 41 tuổi) là thời điểm
tư tưởng Tống Nho được nhà Nguyễn (từ vua Gia Long) ra sức khôi phục và tôn dựng.
Nguyễn Công Trứ làm quan suốt trong thời các vua Minh Mạng và Thiệu Trị trị vì. Ơng
chủ yếu đóng góp cho triều chính bằng chuyện “dẹp giặc”, nhưng cuộc đời làm quan
của ông cũng không suôn sẻ, lúc được thăng chức, lúc bị giáng chức. Đến 70 tuổi, ông

mới được vua Thiệu Trị cho nghỉ hưu. Điều này, theo nhà phê bình, đã góp phần hình
thành tư tưởng “phản kháng” của Nguyễn Cơng Trứ. Ơng đề cao nhân cách cao thượng
của người quân tử “trọng nghĩa, khinh tài” với chất khí khái, ngang tàng, và cũng có lúc
ngán ngẫm cho cuộc đời đen bạc. Về cuối đời, chứng kiến sự mâu thuẫn và bế tắc của
chế độ phong kiến nhà Nguyễn và cũng là của đẳng cấp mình, trước sự xâm lăng của
phương Tây bởi đạo Gia Tô và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, Nguyễn Công Trứ không
tránh khỏi tư tưởng bi quan, yếm thế, thể hiện qua thái độ “nhân sinh ảo mộng” và
“ thoát tục”. Như vậy, về cơ bản, Trương Tửu đã phân tích một cách thuyết phục tâm lý
và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (thể hiện qua tác phẩm văn học của ông) bằng cơ sở lịch
sử - xã hội một cách rõ rệt, trong đó hai bình diện được nhà phê bình đặc biệt chú ý bám
245


sát là thời đại Nguyễn Cơng Trứ (hồn cảnh xã hội thời Nguyễn Công Trứ : cơ cấu giai
cấp, chế độ thống trị, sự tác động của bên ngoài, phong trào nông dân trong nước...) và
đẳng cấp của ông (con người Nguyễn Công Trứ gắn liền với giai cấp nhà nho - quan lại
của ông trong thời kỳ mà vị trí của nó lúc đầu rất chắc chắn nhưng càng về sau càng suy
yếu). Vận dụng quan điểm mác xít vào việc phê bình một tác giả mà tư tưởng phong
phú, đa dạng và ít nhiều phức tạp như Nguyễn Cơng Trứ, ngịi bút của Trương Tửu tỏ ra
có lợi thế. Nhà phê bình đã chứng minh khá thuyết phục về cơ sở xuất hiện các trạng
thái tư tưởng, tâm lý khác nhau của Nguyễn Công Trứ qua thơ văn và lý giải chúng
bằng những cứ liệu khá thuyết phục, có độ tin cậy cao.
Cũng theo Trương Tửu, Nguyễn Cơng Trứ khác nhiều người cùng thời, ở chỗ
ông ra làm quan khơng vì kiếm lợi mà chỉ đơn giản để “thỏa chí nam nhi”. Theo nhà
phê bình, có 3 yếu tố trực tiếp cấu tạo nên chí nam nhi ở Nguyễn Công Trứ: 1) Sự hun
đúc của thời loạn, 2) Tâm lý tự cao, tự đại của quý tộc, 3) Khí thế trung hưng của sĩ
phiệt. Trương Tửu cho rằng Nguyễn Cơng Trứ đã nhiễm cái chí nam nhi của thời đại
ông qua các bậc tiền nhân, dù công, tội khác nhau nhưng đều gặp nhau ở ý chí, nghị lực
tạo lập danh phận, khiến vua biết mặt, chúa biết tên như: Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn
Huệ, Nguyễn Ánh.

Có thể nói rằng, đến Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Trương Tửu đã
chứng minh được khả năng vận dụng phương pháp phê bình mác xít. Nhiều luận điểm
của ơng về Nguyễn Công Trứ, sau này, được các học giả kế thừa. Điều đó, chứng tỏ giá
trị khoa học của cơng trình. Tuy nhiên, cũng như một số cơng trình khác, Trương Tửu ít
chú trọng đến bình diện nghệ thuật của tác phẩm văn học. Trong cuốn sách, chúng ta
không thấy sự phân tích về thể loại, ngơn ngữ, hình tượng... Ở Việt Nam trước đây, khá
phổ biến tình trạng khi tiếp cận tác phẩm, nhà phê bình chỉ chú trọng phân tích bình
diện nội dung tư tưởng mà ít chú trọng phương thức thể hiện, đó là một nhận thức phiến
diện về phê bình mác xít, dẫn đến hậu quả, khá nhiều cơng trình phê bình mác xít thiếu
sự phân tích nghệ thuật hoặc có phân tích nhưng hời hợt. Nhà phê bình Trương Tửu chỉ
khắc phục được hiện tượng này trong cơng trình Văn nghệ bình dân Việt Nam, nhưng
ơng lại sai lầm ở bình diện khác.
3. Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam
Văn nghệ bình dân Việt Nam được viết trong thời kháng chiến chống Pháp (hoàn
thành năm 1951). Trong cuốn sách, Trưởng Tửu đã vận dụng quan điểm mác xít mới (bị
sàng lọc qua giới lý luận và chính trị Trung Quốc) để nghiên cứu các tác giả thuộc dịng
bình dân Việt Nam. Cuốn sách này từng bị phê phán nhiều từ phía những người phê
bình mác-xít lẫn những người phi mác-xít vì sự máy móc của người viết trong việc vận
dụng nguyên tắc “giai cấp tính” của lý luận phê bình mác - xít vốn còn sơ khai nhưng đã
thịnh hành lúc bấy giờ. Trong Văn nghệ bình dân Việt Nam, Trương Tửu phân chia lịch
sử văn học Việt Nam trước thế kỷ XX thành hai dịng: dịng q tộc và dịng bình dân,
rồi cho rằng: dịng q tộc thì “đầy rẫy những yếu tố bảo thủ phong kiến”, “phản quần
246


chúng”, “tính chất nơ lệ, giả tạo”. Ơng chỉ ghi nhận dịng bình dân “mang nhiều yếu tố
phản phong, dân tộc, quần chúng” (các tiêu chí đánh giá của ơng gần với tiêu chí của
Đề cương văn hố (1943) với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng, nhưng khơng
hồn tồn giống nhau). Để đề cao “văn nghệ bình dân”, nhà phê bình vơ tình (hay cố ý)
hạ thấp “văn nghệ quý tộc”. Nhưng ngay việc phân loại văn nghệ theo kiểu quý tộc hoặc

bình dân đã là một sai lầm, nguy hiểm hơn nữa, khi ông cụ thể hóa văn nghệ bình dân
(theo giai cấp) thành văn nghệ trung nông, văn nghệ bần cố nông và cùng dân.
Phần dẫn giải có tính chất lý luận thì cịn nhiều hạn chế, nhưng trong phần viết
phê bình tác phẩm của các tác giả thuộc “dịng bình dân” như Hồ Xn Hương, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, thì ơng có những đóng góp đáng ghi nhận. Đáng chú ý là, nếu như
trước đây, Trương Tửu chỉ chú ý phân tích nội dung tư tưởng, thì trong cuốn Văn nghệ
bình dân Việt Nam, ơng đã dành nhiều trang để phân tích nghệ thuật tác phẩm văn học,
ít nhiều giúp người đọc hình dung phong cách của tác giả. Chẳng hạn, việc phân tích
chất liệu và cách biểu hiện của Hồ Xuân Hương trong thơ “Về cách biểu hiện và phô
diễn, Hồ Xuân Hương là một thi sĩ hiện thực triệt để” [13]. Về ngôn ngữ, ơng đã chỉ ra
thơ Hồ Xn Hương “dùng tồn từ thuần Việt, có giá trị tạo hình đặc biệt”. Khi phân
tích Nguyễn Khuyến, nhà phê bình cũng đã chỉ ra đúng “lối châm biếm mát mẻ mà chì
chiết”, một “nụ cười ngậm kín, thanh lịch” và “một lịng u chân thật những cảnh thôn
dã, đồng nội” ở nhà thơ này. Trương Tửu cịn phân tích nghệ thuật tả cảnh, tả người đặc
sắc của tác giả Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Khi viết về Tú Xương, nhà phê bình cũng
đã chỉ ra sở trường trào phúng của nhà thơ và khẳng định nét riêng mang phong cách
của nhà thơ này là có cái cười “chỏng lỏn, xếch mé, xấc xược”, “cười mà gần như chửi”.
Nhà phê bình cịn đề cao khả năng dùng tồn chữ Nơm, “thơng thường, dễ hiểu mà tả
thực một cách tàn nhẫn”.
Tóm lại, Văn nghệ bình dân Việt Nam được Trương Tửu viết với tinh thần khẳng
định những tác phẩm văn nghệ mang tư tưởng bình dân trong q khứ, để ghi nhận nó
như là một bộ phận có thành tựu của văn nghệ dân tộc. Viết Văn nghệ bình dân Việt
Nam, có thể Trương Tửu thể hiện sự hưởng ứng chủ trương tiếp thu di sản văn nghệ quá
khứ của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ. Chắc chắn Trương Tửu còn dựa theo
phương châm của Mao Trạch Đơng được ơng trích dẫn trong sách này là đối với những
tác phẩm văn học q khứ “khơng nên một mực bài xích cũng khơng nên một mực
nhắm mắt phục tòng mà nên tiếp thu một cách có nhận xét phê bình có lợi cho việc thúc
đẩy về văn hoá dân chủ mới”. Trên tinh thần ấy và trong bối cảnh ấy, cuốn Văn nghệ
bình dân Việt Nam của Trương Tửu có những ưu điểm lẫn những nhược điểm trầm trọng
của nó. Ưu điểm của cuốn sách là đã đánh giá đúng vị trí của ba tác giả Hồ Xuân Hương,

Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Phương pháp tiếp cận của nhà phê bình là lý thuyết xã hội
học mác xít. Ở cơng trình này, lần đầu tiên ông đã mở rộng biên độ tiếp cận cho phê
bình mác xít, tức là tiếp cận hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học. Tuy nhiên, sự
hạn chế, hơn nữa là sai lầm của ơng, chính là tư duy máy móc, giáo điều, khi phân chia
247


giai cấp các nhà văn, từ đó định vị rằng trong xã hội phong kiến, tác phẩm của những
nhà văn có quyền lợi gắn với xã hội ấy là khơng có giá trị, cịn tác phẩm của nhà văn
thuộc giai cấp đối kháng với phong kiến thì mới có giá trị, cần tiếp thu, lưu giữ. Vơ hình
chung, nhà phê bình đã loại ra khỏi kho tàng văn học dân tộc nhiều tác phẩm văn học có
giá trị được viết bằng chữ Hán lẫn chữ Nơm vì “văn học bác học” theo Trương Tửu là
“nghèo về phẩm và lượng”.
***
Như vậy, về nội dung các cơng trình của Trương Tửu có thể cịn những chỗ cần
bàn luận, tranh luận, có chỗ khơng chuẩn xác, nhưng có nhiều chỗ có tính thuyết phục.
Về hình thức, Trương Tửu có thao tác khoa học rõ rệt. Trong các cơng trình
nghiên cứu của mình, ơng thường dùng nhiều luận cứ và luận chứng để chứng minh các
luận điểm. Các luận cứ của ông thường dựa vào các cơng trình của giới học giả phương
Tây, cịn các luận chứng thường được ơng trích dẫn rõ ràng và phong phú. Về sử học,
ông dựa vào nhiều sử liệu đáng tin cậy (Hồng Lê nhất thống chí, Đại Nam chính biên
liệt truyện, Lịch sử Việt Nam do Đào Duy Anh biên soạn, Việt Nam sử lược do Trần
Trọng Kim biên soạn, một số tài liệu lịch sử, văn hố do các tác giả Pháp biên soạn...)
Việc trình bày các vấn đề nghiên cứu theo kiểu “nói có sách, mách có chứng” như thế là
một thao tác cần thiết của khoa học phê bình.
Văn phê bình của Trương Tửu đầy tính tranh luận, thơng thường những ý kiến
mang tính tranh luận của ơng thường được trình bày ở phần đầu mỗi cơng trình, thực
chất đó là phần điểm lại lịch sử vấn đề nghiên cứu. Sự khởi động công trình bằng các
luận điểm có tính tranh luận như thế đã góp phần tạo cho giọng văn các cơng trình khoa
học của ơng thường khúc chiết. Văn phê bình của Trương Tửu nghiêng về lý tính hơn là

cảm tính, mạch văn trơi chảy, liên tục, có lúc hùng hồn.
Tóm lại, gạt bỏ một số luận điểm chủ quan vội vàng, có khi máy móc rải rác
trong các cơng trình phê bình quy mơ của Trương Tửu, chúng ta sẽ có những luận điểm
có tính gợi mở rất đáng ghi nhận về các tác gia lớn trong lịch sử văn học Việt Nam như
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Khơng ít
những luận điểm của ơng đã được các học giả sau này kế thừa, triển khai và có thành
tựu. Vì thế, cơng lao của Trương Tửu là khai phá (vận dụng một số lý thuyết phê bình
hiện đại) và khai mở (một số vấn đề nghiên cứu) cho phê bình văn học hiện đại Việt
Nam./.

248


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Tửu , Tuyển tập nghiên cứu phê bình, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2007, tr. 248.
2. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 275.
3. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 281.
4. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 287.
5. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 291.
6. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 330.
7. Phương Lựu, Góp bàn tư tưởng học thuật của Trương Tửu, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, số 10, 2008.
8. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 474.
9. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 479.
10. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 529.
11. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 545.
12. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 579.
13. Trương Tửu, Sách đã dẫn, tr. 845.

CHARACTERISTICS OF LITERARY CRITICISM OF TRUONG TUU

Nguyen Thanh
College of Sciences, Hue University

Abstract. Truong Tuu is one of the typical literary critics before September 1945.
During his job of criticism, he has used many different critical theories such as
Vietnam's literature studies, theory of H. Taine (Cultural - historical school),
psychoanalysis, Marxist sociology. Sometimes, he combines many different
theories, such as psychoanalysis with Marxist, or Marxist with the cultural historical school... Sometimes, at different times, he uses different theories.
This article studies and reviews some literary criticism features of Truong Tuu
(including the content and form, achievements and limitations), and then confirms
his efforts of literary criticism in the first half of the 20th century. The article also
points out the subjective comments and ideas from critic in some cases.

249



×