2. ánh sáng.
•
ÁNH SÁNG HAY ĐÚNG HƠN LÀ NGUỒN NĂNG LƯỢNG
TỪ BỨC XẠ MẶT TRỜI, ĐƯỢC COI LÀ BẢN CHẤT CỦA
MÔI TRƯỜNG, NGUỒN SỐNG CỦA CÂY CỎ.
•
ÁNH SÁNG CHIẾU TRÊN HÀNH TINH, TẠO RA NHIỆT
NĂNG, TỪ ĐÓ LÀM ĐẤT, ĐÁ NỨT NẺ, NƯỚC BỐC HƠI
TRONG ĐIỀU KIỆN NHIỆT ĐỘ CAO VÀ NGƯNG TỤ
THÀNH NƯỚC HAY ĐÔNG ĐẶC THÀNH BĂNG TRONG
ĐIỀU KIỆN NHIỆT ĐỘ HẠ THẤP, LÀM BIẾN ĐỔI KHÍ ÁP
ĐỂ TẠO NÊN GIÓ, BÃO V.V.
•
ÁNH SÁNG VỪA LÀ YẾU TỐ ĐIỀU CHỈNH VÀ VỪA LÀ
YẾU TỐ GIỚI HẠN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG SINH VẬT, ĐẶC
BIỆT LÀ THỰC VẬT. THỰC VẬT CẦN ÁNH SÁNG CHO
VIỆC QUANG HỢP ĐỂ TẠO RA NGUỒN THỨC ĂN SƠ
CẤP, CHO NÊN CÓ THỂ NÓI RẰNG ÁNH SÁNG LÀ
NGUỒN SỐNG CỦA HẦU HẾT MỌI SINH VẬT.
Bức xạ Mặt Trời là một dãy nguồn liên tục, gồm một phổ rộng các dải sóng, từ cực
ngắn (tần số cao) đến các tia có bước sóng rất dài (tần số thấp)
"bức xạ quang hợp tích cực", chiếm 45% tổng bức xạ của MT chiếu xuống trái đất.
Do vậy, nguồn sống hay năng lượng được sử dụng trong quang hợp cũng bị giới
hạn. Tuy nhiên có một số vi sinh vật có chứa nhưng sắc tố có khả năng hấp thụ
ánh sáng có bước sóng lớn hơn, từ khoảng 8000 đến 9000 Å.
•
Năng lượng bức xạ Mặt Trời chiếu xuống mặt trái đất không
đều, phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố khác nhau, như vị trí
địa lý, điều kiện khí hậu thuỷ văn, hay nói cách khác: ánh
sáng phân bố trên hành tinh không đều phụ thuộc vào góc của
tia chiếu, vào mức độ hấp thụ khác nhau của các vật thể mà
ánh sáng phải vượt qua như lớp không khí, hơi nước bao
quanh hành tinh, phụ thuộc vào phần được phơi ra phía Mặt
trời hay bị che khuất.
Tia tới từ
Mặt trời
Đông chí (22-12)
Thu phân (23-9)
Xuân phân (21-3)
Hạ chí (21- 6)
Trong mùa hè ở Bắc Bán cầu, khi đi từ xích đạo lên cực, ngày càng dài,
còn nếu đi theo hướng ngược lại, ngày lại ngắn dần. Trong mùa đông, khi
đi từ xích đạo lên cực, ngày càng ngắn và theo chiều ngựơc lại, ngày lại
dài ra. Trong ngày xuân phân và thu phân, ánh sáng tràn lên cả 2 cực và
chiếu thẳng góc với xích đạo vào giữa trưa.
•
Ánh sáng chiếu xuống nước biến đổi rất
mạnh:
•
về thành phần ánh sáng,
•
về cường độ và
•
độ dài của thời gian chiếu sáng,
•
Những tia có bước sóng dài bị hấp thụ
ngay ở lớp nước bề mặt, chỉ còn những
tia có bước sóng ngắn hơn mới có khả
năng xâm nhập xuống các lớp nước sâu
hơn.
•
ở nơi biển cực trong, ánh sáng có thể
xâm nhập đến độ sâu khoảng 200 m.
•
Ngoài khơi đại dương, năng suất quang
hợp cao nhất thường nằm ở độ sâu từ bề
mặt xuống lớp nước sâu 50-60 m,
•
ở lớp nước sát mặt của vùng biển nhiệt
đới, cường độ quang hợp giảm do ánh
sáng quá mạnh.
![]()
Liên quan với cưòng độ chiéu sáng, cây
xanh được chia thành 3 nhóm : cây
ưa sáng, cây ưa bóng và cây chịu
bóng.
•
Cây ưa sáng tiếp nhận ánh sáng trực
tiếp, thường sống ở nơi tráng nắng,
cường độ quang hợp tăng khi cường
độ chiếu sáng tăng, nhưng cường độ
quang hợp cao nhất không trùng vào
cường độ chiếu sáng cực đại, trừ
thực vật C 4 như Zea mays,
Saccharum officinale, Sorghum
vulgare và hàng nghìn loài C4 khác.
•
Cây ưa bóng là những cây ưa ánh
sáng khuyếch tán, thường sống dưới
tán cây khác hay trong bóng rợp.
Cường độ quang hợp đạt giá trị cực
đại ở cường độ chiếu sáng trung
bình.
•
Cây chịu bóng là những cây có khả
năng sống cả ở nơi thiếu ánh sáng và
nơi được chiếu sáng tốt, tuy nhiên,
cường độ quang hợp tăng khi cường
độ chiếu sáng tăng.
![]()
Liên quan đến thời gian chiếu sáng, thực vật còn có 2 nhóm:
•
Nhóm cây ngày dài (sống ở vĩ độ trung bình): khi ra hoa, kết trái
cần pha sáng nhiều hơn pha tối,
•
Nhóm cây ngày ngắn (sống ở vĩ độ thấp): đòi hỏi độ dài chiếu sáng
khi ra hoa kết trái ngắn hơn.
Dựa vào sự phản ứng của động vật với ánh sáng, chia 3 nhóm:
nhóm ưa hoạt động ban ngày,
nhóm ưa hoạt động ban đêm và
nhóm ưa hoạt động vào thời gian chuyển tiếp
•
Những loài ưa hoạt động vào ban ngày có cơ quan tiếp nhận ánh sáng, từ
các tế bào cảm quang đơn giản, phân bố trên cơ thể ở những loài động vật
bậc thấp đến cơ quan thị giác phát triển như ở các loài có mức tiến hoá cao
như côn trùng, cá, lưỡng cư, bò sát, chim, thú. Cùng với cơ quan thị giác,
những loài ưa hoạt động ban ngày có mầu sắc, thậm chí rất sặc sỡ.
•
Những loài ưa hoạt động vào ban đêm hay trong bóng tối (hang, hốc)
thường có mầu xỉn, tối hoà lẫn với màn đêm. Nhiều loài mắt trở nên kém
phát triển, nhất là những loài sống trong các hang hoặc phát triển theo
hướng ngược lại, mắt rất tinh như mắt hổ, mắt mèo, mắt cú Những động
vật sống ở biển sâu, mắt thường tiêu giẩm hoặc mù tịt, thay vào đó là sự
phát triển của cơ quan xúc giác. Nhiều loài động vật biển còn có khả năng
phát ra ánh sáng lạnh. Đó cũng là những tín hiệu sinh học để nhận biết
đồng loại hoặc sử dụng như phương tiện nhử mồi.
•
Những loài sống ở tầng nước chênh sáng, chênh tối, mắt thường phát
triển theo cách mở rộng tầm nhìn : mắt to ra hoặc mắt được đính trên
những cuống thịt dài, có thể xoay theo các phía.
![]()
![]()
Màu sắc trên thân những sinh vật nào
là:
Màu sắc đàn
Mầu sắc nguỵ trang
Màu sắc báo hiệu
Màu sắc đe doạ
Có tên khoa học là Phylliidae, những con côn trùng lá này
giống hệt những chiếc lá dù bạn có hình dung cách nào đi nữa
- chỉ để nhằm đánh lừa kẻ thù. Chúng lắc mình về trước - sau
khi bước để ra vẻ một cái lá đung đưa trong gió. Một số con
thậm chí còn có các vết cắn giả trên hai bên sườn của chúng.
Cá bơn Cơ thể bất cân xứng kỳ lạ của nó giúp con vật
sống sót bằng cách ngụy trang giống với nền đáy biển. Điều
này giúp nó bị các kẻ đói ăn bỏ qua. Một số loài cá bơn có thể
thay đổi sắc tố trên lưng.
•
Mata mata là một loài rùa nước ngọt ở Nam Mỹ, chủ yếu sống ở vùng
Amazon. Chúng có cái đầu gai mỏng dẹt, một cái sừng ở mõm và đôi
khi bị nhầm là vỏ cây.
Cá sư tử thường sống ở các rặng đá ngầm thuộc Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương. Những chiếc vây mỏng
manh của nó chứa chất độc có thể hạ gục kẻ thù.
Chỉ trong vòng 30 phút, một con cá sư tử lớn có thể chén đến
20 con cá nhỏ, và chỉ trong 5 tuần, loài này hạ gục đến 79%
quần thể cá con.
Những loài ưa hoạt động trong bóng đêm
Những loài ưa hoạt động lúc hoàng hôn/bình minh
Ánh sáng còn ảnh hưởng đến sự phát dục và sinh sản
của nhiều loài động vật.
•
ở một số loài côn trùng sự giảm cường độ chiếu sáng vào mùa thu đưa
đến hiện tượng đình dục.
•
Thay đổi độ dài thời gian chiếu sáng có thể làm thay đổi thời gian đẻ
trứng của cá, làm thay đổi tỷ lệ đực cái đối với những loài vừa sinh sản
hữu tính vừa sinh sản đơn tính (hay trinh sản).
•
Ánh sáng của Mặt Trăng biến đổi theo các pha cũng gây ảnh hưởng
mạnh đế sự kiếm ăn, sinh sản của nhiều loài động vật biển.
•
Nhiều loài cá, cua, giun thường đi kiếm ăn vào những đêm tối trời.
•
Rươi ở ven biển đồng bằng Bắc bộ sinh sản tập trung vào những pha
trăng khuyết và trăng non của tháng 9 và tháng 10 âm lịch.
•
Rươi Palôlô ở quần đảo Fiji (Thái Bình dương) chỉ xuất hiện và sinh sản
tập trung vào ngày cuối cùng của tuần trăng thứ tư trong tháng 10 và 11
dương lịch.
•
Loài thỏ rừng lớn trên bán đảo Malayxia lại tăng các hoạt động sinh dục
vào những đêm trăng tròn.
Loài vượn cáo rậm lông miền tây được tìm thấy
trong các cánh rừng phía tây Madagascar.
Phelsuma lineatais là một loài tắc kè ở phía bắc hòn
đảo Madagascar.
Do thiếu các biện pháp
tự vệ nên nhiều loài cá
ấu trùng tận dụng sự
trong suốt như một
cách ngụy trang.
Ấu trùng tôm trong
suốt cưỡi trên lưng
một con sứa trong
suốt khác ở Hawaii.
Cá bơn trong giai
đoạn phôi thai trông
như những bóng ma
vật vờ ở Hawaii.
Con sên biển có màu xanh đen này đang nuốt chửng một con
mồi. Màu sắc sặc sỡ của nó đến từ những thức ăn mà chúng
xơi hằng ngày.
Cá ngựa lùn (Hippocampus denise) tại vùng biển Indonesia.
Dài chưa tới 2,5 cm, kích cỡ và màu sắc giúp ngụy trang nó
trong san hô.