Nguyễn Thị Thanh Huyền
44
NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ CHỨNG KHOÁN, GIÁ VÀNG VÀ GIÁ USD
INVESTIGATION INTO THE RELATIONSHIP BETWEEN STOCK PRICE,
GOLD PRICE AND USD EXCHANGE RATE
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin, Đại học Đà Nẵng; Email:
Tóm tắt - Kể từ khi ra đời vào đầu năm 2000, thị trường chứng
khoán (TTCK) Việt Nam đã trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn.
Chỉ số Vn-Index là thước đo phản ánh sự biến động giá chứng
khốn nói chung trên TTCK. Mục đích chính của việc xây dựng nên
các chỉ số này là dự đoán xu thế thị trường, làm cơ sở cho các
quyết định của nhà đầu tư. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam tương đối
nhỏ so với thị trường tại các nước có nền kinh tế phát triển nên chỉ
số Vn-Index có thể cũng dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác. Đặt
biệt là bởi hai kênh đầu tư phổ biến khác là vàng và Đôla Mỹ (USD).
Nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố giá vàng, giá đồng Đôla
Mỹ (USD) và giá chứng khốn là rất quan trọng. Vì vậy, trong phạm
vi bài báo này, tác giả tập trung đo lường mức độ tác động của giá
vàng, giá USD đến biến động chỉ số giá chứng khoán.
Abstract - Since its debut in 2000, the stock market in Vietnam has
become an attractive channel of investment. Vn-Index indicators
are the ruler which generally reflects the stock price on the stock
market. The main purpose of creating these indicators is to predict
the trend of the stock market, which is the basis for buying or selling
stocks of investors at certain times. Nevertheless, the stock market
in Vietnam is relatively small compared to that in developed
countries. Therefore, the Vn-Index indicators may be affected by
other factors, especially by the two common channels, namely gold
and USD. The study of the relation between gold price, USD
exchange rate and stock price is essential. Accordingly, in this
paper, the author has focused on measuring the extent of the
impact of gold price and USD exchange rate on the stock price.
Từ khóa - Vn-Index; giá vàng; giá USD; nhà đầu tư; thị trường
chứng khoán.
Key words - Vn-Index; gold price; USD exchange rate; investor;
stock market.
1. Đặt vấn đề
Đã hơn 10 năm kể từ khi thị trường chứng khoán Việt
Nam đi vào hoạt động. Từ 2 mã chứng khoán niêm yết ban
đầu là REE và SAM, cho đến nay đã có gần 700 cơng ty
niêm yết. Điều đó cho thấy rằng, thị trường chứng khoán
Việt Nam ngày càng phát triển. Các hoạt động đầu tư vào
các chứng khoán vốn tại Việt Nam hiện nay là khá phổ
biến. Bên cạnh đó, hai kênh đầu tư truyền thống là vàng và
Đô la Mỹ (USD) là một kênh đầu tư hấp dẫn với các nhà
đầu tư bởi mức sinh lợi cao.
Chỉ số giá chứng khoán là chỉ báo giá cổ phiếu phản
ánh xu hướng phát triển của thị trường cổ phiếu, thể hiện
xu hướng thay đổi của giá cổ phiếu và tình hình giao dịch
trên thị trường.
Chỉ số giá chứng khoán là căn cứ để các nhà đầu tư đưa ra
quyết định của mình. Nó là thước đo phản ánh sự biến động
giá chứng khốn nói chung. Tuy nhiên, chỉ số giá chứng khốn
có thể cũng dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố phổ biến khác là
vàng và USD. Sự biến động giá của hai kênh này tác động rất
mạnh lên tâm lý của nhà đầu tư. Nghiên cứu quan hệ giữa các
yếu tố giá vàng, giá USD và giá chứng khoán sẽ tìm hiểu được
sự biến động của giá vàng, giá USD tác động như thế nào tới
chỉ số giá chứng khoán. Nhằm giúp những nhà đầu tư đưa ra
các quyết định trong đầu tư cổ phiếu. Trên thế giới đã có một
số nghiên cứu lý thuyết về mối quan hệ giữa giá vàng với giá
chứng khoán, giá USD với giá chứng khoán. Những nghiên
cứu của Gan, Lee và Zhang [4], Mukhejee và Naka [7],
Rahman, Sidek và Tafri [10], Narayan, K. P. và Narayan, S.
[8] khẳng định các yếu tố như giá vàng, giá USD có ảnh hưởng
đến chỉ số giá chứng khốn.
2. Các nghiên cứu có liên quan
2.1. Chỉ số giá chứng khoán
Chỉ số thị trường chứng khoán là một giá trị thống kê phản
ánh tình hình của thị trường cổ phiếu. Nó được tổng hợp từ
danh mục các cổ phiếu theo phương pháp nhất định. Thông
thường, danh mục này sẽ bao gồm các cổ phiếu có những
điểm chung như cùng niêm yết tại một sở giao dịch chứng
khoán hoặc cùng ngành hoặc cùng mức vốn hóa thị trường.
Các chỉ số chứng khốn có thể do sở giao dịch chứng
khốn định ra hoặc có thể do các hãng thơng tin hay một định
chế tài chính nào đó định ra.
Chỉ số giá chứng khoán được theo dõi chặt chẽ và được
các nhà kinh tế học quan tâm vì nó có mối liên quan chặt chẽ
đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia. Mỗi
thị trường chứng khoán có thể cơng bố một hoặc một vài chỉ
số giá chứng khốn. Có thể là chỉ số cho tất cả các cổ phiếu
trên thị trường của một quốc gia như chỉ số giá cổ phiếu thổng
hợp của Hàn Quốc (KOSPI) hay chỉ số cho từng ngành như
chỉ só giá cổ phiếu ngành công nghiệp của Mỹ (DJIA).
Biến động của thị trường chứng khốn có thể quan sát
bằng cách nhìn vào những thay đổi quá khứ của giá cổ
phiếu. Chỉ số giá chứng khốn có thể được coi như là nền
tảng và thước đo sự biến động cơ bản của thị trường chứng
khoán. Tại Mỹ, chỉ số S&P 500 thường được sử dụng đánh
giá sự biến động của thị trường chứng khốn do mức độ
bao phủ rộng rãi của nó. Mặc dù chỉ tập trung vào các cơng
ty có mức độ vốn hóa lớn nhưng độ bao qt khoảng 75%
chứng khốn Mỹ, chỉ số này là đại diện thích hợp cho toàn
bộ nền kinh tế Mỹ. Và chỉ số này được coi như là phong vũ
biểu cho nền kinh tế Mỹ.
2.2. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán
Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán
được rất nhiều nhà nghiên cứu nghiên cứu giải thích, tuy
nhiên, kết quả của những nghiên cứu này vẫn không thống
nhất được chiều ảnh hưởng của tỷ giá lên giá chứng khốn.
Về mặt lý thuyết có 3 cách tiếp cận mối quan hệ giữa tỷ giá
hối đoái và giá chứng khoán.
Đầu tiên, theo cách tiếp cận của Dornbusch và Fisher [3]
cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa giá chứng khoán và
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 12(85).2014, QUYỂN 2
tỷ giá. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: Khi đồng tiền trong
nước được định giá thấp sẽ làm cho những doanh nghiệp
trong nước tăng tính cạnh tranh hơn, từ đó làm gia tăng trong
hoạt động xuất khẩu của họ. Điều này làm cho giá cổ phiếu
của những doanh nghiệp này tăng lên. Ngược lại nếu như
những doanh nghiệp này sử dụng nhiều chi phí nhập khẩu
cho đầu vào trong sản phẩm của họ. Sự gia tăng chi phí trong
sản phẩm do đồng tiền trong nước được định giá thấp có thể
làm cho doanh thu và lợi nhuận của họ giảm, điều này sẽ làm
cho giá cổ phiếu của những doanh nghiệp này giảm.
Một nghiên cứu khác là mơ hình cân bằng danh mục
đầu tư về tỷ giá của Branson [1] đã chứng minh rằng: quan
hệ giữa tỷ giá và giá cổ phiếu là ngược chiều. Nguyên nhân
là từ chiều tác động của giá cổ phiếu lên tỷ giá. Trong mơ
hình này, những nhà đầu tư cá nhân nắm giữ những tài sản
trong nước và tài sản nước ngồi. Và tỷ giá hối đối giữ
một vai trị là điều chỉnh cân bằng cung và cầu tài sản. Khi
nhà đầu tư cá nhân này muốn mua nhiều tài sản trong nước
hơn thì họ sẽ bán bớt những tài sản nước ngồi mà hiện tại
ít hấp dẫn. Dẫn đến đồng tiền trong nước được định giá cao
hay tỷ giá giảm. Khi có sự gia tăng đầu tư trong khối đầu
tư nước ngoài vào tài sản trong nước cũng làm gia tăng giá
chứng khoán.
Nếu coi tỷ giá như giá một tài sản (giá của một đơn vị
ngoại tệ) trong thị trường tài sản thì Gavin [6] đã khẳng
định tỷ giá và giá cổ phiếu có mối quan hệ yếu hoặc hồn
tồn khơng có quan hệ. Bởi, giống như những tài sản khác,
tỷ giá cũng được xác định bởi tỷ giá tương lai kỳ vọng. Bất
kỳ yếu tố nào ảnh hưởng đến giá trị tương lai của tỷ giá thì
sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá ở hiện tại. Những yếu tố gây nên
sự thay đổi trong tỷ giá có thể khác biệt với những yếu tố
gây nên sự thay đổi trong giá cổ phiếu.
Tại Việt Nam, kết quả phân tích từ nghiên cứu của Huỳnh
Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết [9] cho thấy sự biến động tỷ
giá hối đoái sẽ tạo ra các cú sốc tiêu cực đến giá cổ phiếu.
Tóm lại, các kết quả trên đây cho thấy mối liên hệ của
hai biến số này hầu như khơng có một xu hướng chung cho
tất cả các thị trường. Bởi những nghiên cứu thực nghiệm ở
các thị trường sẽ cho một kết luận khác nhau.
2.3. Mối quan hệ giữa giá vàng và giá chứng khoán
Vàng khác với các tài sản khác bởi tính thanh khoản
cao. Sự biến động của giá vàng ảnh hưởng đến phần lớn
các nền kinh tế trên thế giới trong đó có TTCK. Các nhà
đầu tư có thói quen sử dụng chiến lược quản trị rủi ro là đa
dạng hóa danh mục đầu tư trong đó có vàng vì nó thường
có mối quan hệ nghịch đảo với xu huớng của TTCK.
Các tác giả Garefalakis, Dimitras, Koemtzopoulos và
Spinthiropoulos [5] cho thấy rằng, sự biến động của giá
vàng ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi nhuận đầu tư trên
TTCK Hong Kong. Hay giá và giá chứng khoán biến động
ngược chiều.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Huỳnh Thanh Bình và
Nguyễn Minh Hà [2] về thị trường chứng khốn Việt Nam
đưa ra kết luận: Giá vàng thế giới có tác động cùng chiều
lên chỉ số giá chứng khoán.
Trong lịch sử giá vàng thường được xem là “nơi tránh
bão” giúp tránh thiệt hại xảy ra trong thời kỳ lạm phát, bất
ổn xã hội, và chiến tranh - các thời kỳ mà giá cổ phiếu luôn
45
luôn sụt giảm. Đồng thời, vàng cũng được xem như một
chỉ báo hàng đầu đối với thị trường chứng khoán. Trong
các cuộc khủng hoảng, giá vàng tăng mạnh khi giá chứng
khoán sụt giảm, mặc dù mức độ tác động mạnh yếu có thể
khác nhau đối với từng nền kinh tế.
3. Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khốn Việt Nam đã hình thành và
phát triển được hơn 10 năm. Đây là khoảng thời gian rất
ngắn so với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, TTCK Việt
Nam đã đạt được những thành quả rất đáng khích lệ.
Trong lịch sử chỉ số VNI đạt mức cao nhất trong lịch
sử là: là 1170,67 điểm (12/03/2007). Tính đến tháng 5 năm
2014, tồn thị trường đã có gần 700 mã cổ phiếu được niêm
yết. Tính đến hết năm 2013, tổng giá trị vốn hóa đạt khoảng
964 nghìn tỉ đồng, tương đương mức 31% GDP. Điều đó
cho thấy thị trường chứng khoán đã và đang là kênh đầu tư
thu hút với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Ngày 28/07/2000, trung tâm giao dịch chứng khốn
thành phố Hồ Chí Minh thực hiện phiên giao dịch đầu tiên
với 2 loại cổ phiếu niêm yết là SAM và REE. Chỉ số VnIndex mở màn ở mức 100 điểm.
Ngày 8/3/2005, Sở giao dịch chứng khốn Hà Nội
chính thức đi vào hoạt động. Nếu như Sở giao dịch chứng
khốn thành phố Hồ Chí Minh là nơi niêm yết của các
doanh nghiệp lớn thì sở giao dịch chứng khoán Hà Nội là
“sân chơi” cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ số thể
hiện của sàn giao dịch này là HNX-Index.
Bên cạnh đó, TTCK Việt Nam cịn có thêm 1 chỉ số
riêng dành cho thị trường giao dịch các công ty đại chúng
chưa được niêm yết trên (thị trường UPCOM).
4. Đo lường mối quan hệ giữa giá chứng khoán, giá
vàng và giá USD
4.1. Dữ liệu nghiên cứu
Các biến số được sử dụng phân tích gồm: Chỉ số VnIndex (VNI), giá vàng (GOD), giá USD (USD).
Dữ liệu về chỉ số Vn-Index thu thập từ trang web
cophieu68.com. Đâylà website chuyên cung cấp số liệu về
thị trường chứng khoán Việt Nam. Vn-Index được xem là
danh mục thị trường do chỉ số Vn-Index được tính theo
phần lớn các chứng khốn hiện có trên thị trường. Bởi đây
là chỉ số giá chứng khốn của Sở giao dịch chứng khốn
thành phố Hồ Chí Minh với số lượng doanh nghiệp lớn, giá
trị vốn hóa cao.
Dữ liệu giá vàng, giá USD được thu thập từ báo cáo
thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được
thống kê thường xuyên hàng tháng.
Những dữ liệu trên được thu thập từ tháng 1 năm 2004
đến tháng 12 năm 2011. Đây là những dữ liệu dạng chuỗi
thời gian.
Chuyển hóa dữ liệu là công việc phổ biến đối với các
mô hình dữ liệu thời gian nhằm giúp người phân tích lựa
chọn mơ hình phù hợp hoặc thực hiện mục đích nghiên cứu
có sẵn. Chuyển dữ liệu gốc thành dữ liệu logarit để chuyển
các mơ hình phi tuyến thành các mơ hình tuyến tính hoặc
khắc phục một số hiện tượng hay gặp trong phân tích hồi
quy như: đa cộng tuyến, phương sai của sai số thay đổi, tự
Nguyễn Thị Thanh Huyền
46
tương quan, giảm bớt độ phân tán… Đồng thời việc dùng
dữ liệu dưới dạng Logarith để thuận lợi trong việc nhận
dạng và phân tích dữ liệu. Bên cạnh đó do đơn vị tính khác
nhau nên ta chuyển sang tính mức độ tăng giá hay cịn gọi
là tỷ suất sinh lợi theo tháng của các biến. Khi đó ta có các
biến số mới RVNI, RGOD, RUSD.
4.2. Mơ hình nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa giá chứng khốn và
giá vàng, giá USD, trong khn khổ bài báo này, tác giả
thực hiện nghiên cứu định lượng.
Sử dụng phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất
(OLS) với 3 biến số: Vn-Index, giá vàng, giá USD. Đây là
phương pháp phổ biến nhất để ước lượng các hệ số hồi quy.
Phương pháp này được cho là của nhà toán học nổi tiếng
người Đức Carl Friedrich Gauss đưa ra. OLS có nhiều tính
chất thống kê hấp dẫn làm cho nó trở thành một phương
pháp mạnh và rất đáng tin cậy.
Các bước nghiên cứu gồm có: Kiểm định tính dừng, xây
dựng mơ hình hồi quy, kiểm định kết quả của mơ hình và
phân tích kết quả.
Dữ liệu chuỗi thời gian theo tháng nên ta có tất cả 96
quan sát cho mỗi biến trong nghiên cứu.
Các số liệu được thực hiện thống kê, ước lượng, kiểm
địnhbằng phần mềm Eview (Econometric Views) 5.1. Đây
là phần mềm chuyên về kinh tế lượng, nghiên cứu với dữ
liệu chuỗi thời gian, dữ liệu chéo, dữ liệu mảng…
4.3. Kết quả nghiên cứu
Khi thực hiện hồi quy biến chuỗi thời gian thì chuỗi dữ
liệu phải có tính dừng. Và nếu tìm thấy mối quan hệ hồi
quy thì mối quan hệ này luôn xác thực. Nếu các biến độc
lập không dừng, thì khi đó giả thiết của OLS bị vi phạm
(kỳ vọng tốn, phương sai và hiệp phương sai khơng đổi
theo thời gian) dẫn đến việc sử dụng kiểm định t và p khơng
hiệu quả (hay cịn gọi là hồi quy giả mạo).
Vì vậy, trước khi hồi quy ta thực hiện kiểm định nghiệm
đơn vị (Augemented Dickey-Fuller test) dựa vào thống kê
tauτ của Dickey và Fuller để kiểm định tính dừng. Đây là
kiểm định phổ biến để kiểm định tính dừng của chuỗi thời
gian. Ta thu được kết quả như bảng sau:
Bảng 1. Kiểm định tính dừng
Biến
Xác suất
Kết luận
RVNI
0.0000
Chuỗi dừng
RGOD
0.0000
Chuỗi dừng
RUSD
0.0001
Chuỗi dừng
Kết quả cho thấy tất cả xác suất của kiểm định đều nhỏ
hơn 5% chứng tỏ 3 chuỗi dữ liệu thời gian trên đều có tính
dừng. Vì vậy, khi thực hiện hồi quy giữa 3 biến, nếu tồn tại
mối quan hệ hồi quy thì mối quan hệ này ln xác thực.
Mơ hình hồi quy bội với phương trình như sau:
Yt = 1 + 2 X 2t + 3 X 3t + t
Thực hiền hồi quy bằng Eviews 5.1 ta có kết quả hồi
quy như bảng 2.
Dựa vào bảng kết quả hồi quy ta thấy:
Yt=0.00791+0.129647X2-1.389953X3
Bảng 2. Kết quả hồi quy
Dependent Variable: RVNI
Method: Least Squares
Date: 05/25/14 Time: 23:02
Sample (adjusted): 2004M02 2011M12
Included observations: 95 after adjustments
Variable Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
C
0.007190
7.986904
8.543393
0.0000
RGOD
0.129647
0.164781
9.068897
0.0000
RUSD
-1.389953
0.933948
-8.039783
0.0000
Hệ 2 = 0.129647 có nghĩa là khi giá vàng tăng 1% thì
chỉ số Vn-Index tăng 0.129647%. Điều này cho thấy vàng
giá vàng và chỉ số Vn-Index biến động cùng chiều. Theo
kết quả này, tác động của vàng tới chứng khoán là khơng
lớn lắm.
Để trực quan hơn ta có thể quan sát như đồ thị sau:
.4
.3
.2
.1
.0
-.1
-.2
-.3
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
RVNI
RGOD
Hình 1. Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa RVNI và RGOD
Từ đồ thị ta thấy, đa số các thời điểm giá vàng và
giá chứng khoán quan hệ đồng biến. Chỉ có rất ít thời điểm
thể hiện chúng thể hiện quan hệ nghịch biến. Mức độ biến
động của chỉ số Vn-Index mạnh hơn mức độ biến động của
giá vàng.
Kết quả này ngược với nghiên cứu của Garefalakis [5]
nhưng lại cùng kết quả với nghiên cứu của Huỳnh Thanh
Bình và Nguyễn Minh Hà (2012) [2]. Điều này cho thấy,
tại Việt Nam, người dân vẫn có thói quen xem vàng là một
tài sản, nguồn vốn dự trữ. Nhu cầu về vàng tăng theo tốc
độ phát triển kinh tế và sự tích lũy của người dân. Như vậy,
cùng với các tài sản khác vàng vẫn là một tài sản trong danh
mục của nhà đầu tư. Kết quả thực nghiệm có sự khác biệt
là do thời gian nghiên cứu khác nhau và những nét riêng về
đặc thù văn hóa, kinh tế, chính trị ở từng nước.
Hệ 3 = -1.389953có nghĩa là khi giá USD tăng 1% thì
chỉ số Vn-Index giảm 1.389953%. Điều này cho thấy giá
USD và chỉ số Vn-Index biến động ngược chiều. Theo kết
quả này, tác động của giá USD tới chứng khoán là khá lớn.
Khi nhà đầu tư nhận định rằng đồng nội tệ có thể bị mất
giá, đồng USD tăng giá (tỷ giá tăng) trong thời gian tới thì
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 12(85).2014, QUYỂN 2
nhà đầu tư đó sẽ quyết định khơng đầu tư vào chứng khốn
và tìm cách thay thế đầu tư chứng khốn bằng tài sản ngoại
tệ (USD). Nếu được phép đầu tư ra thị trường nước ngồi
thì có thể nhà đầu tư này sẽ chuyển vốn ra đầu tư ở thị
trường nước ngoài.
Để trực quan hơn ta có thể quan sát như đồ thị sau:
47
Bảng 4. Kết quả kiểm định Q
.4
.3
.2
.1
.0
-.1
-.2
-.3
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
RUSD
RVNI
Hình 2. Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa RVNI và RUSD
Kết quả từ nghiên cứu cho thấy chỉ số giá chứng khoán
chịu tác động mạnh từ giá USD. Chứng khốn và USD có
biến động ngược chiều. Kết quả này cũng tương đồng với
kết quả nghiên cứu của Branson (1983) [1], Huỳnh Thế
Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013) [9].
4.4. Kiểm định mơ hình
4.4.1. Kiểm định Wald
Thực hiện kiểm định Wald các biến độc lập có giải
thích được cho biến phụ thuộc hay không?
Giả thuyết:
H0: c(i) = 0 với = 5%.
H1: c(i) 0.
Thực hiện kiểm định bằng Eviews ta có kết quả như
sau. Với = 5%.
Bảng 3. Kết quả kiểm định Wald
Giả thuyết
Đối thuyết
Xác suất
Kết luận
H0: c(2) = 0
H1: c(i) 0
0.00000 Bác bỏ H0
H0: c(3) = 0
H1: c(i) 0
0.00000 Bác bỏ H0
H0: c(2)=c(3)
H1: c(2) c(3)
0.00000 Bác bỏ H0
Vậy các hệ số 2và 3 đều khác 0. Vì vậy mơ hình hồi
quy có hiệu lực, các giá trị ước lượng của mơ hình có giá
trị thực tế.
4.4.2. Kiểm định mơ hình có biến bỏ sót khơng?
Việc kiểm định mơ hình có bỏ sót biến hay khơng ta sử
dụng kiểm định thống kê Q.
Giả thuyết: H0: mơ hình khơng có biến bỏ sót.
Đối thuyết: H1: mơ hình có biến bỏ sót.
Với = 5%.
Thực hiện kiểm định bằng Eviews 5. Thao tác: View/
Residual Tests/ Correlogram–Q-statistics/Enter.
Theo Bảng 4, ta có tất cả các Prob(probability) đều lớn
hơn 5% nên chấp nhận H0.
Vậy mơ hình khơng bỏ sót biến.
5. Kết luận
Từ kết quả trên của mơ hình, cho phép ta giải thích sự
biến động giá chứng khoán trong thời gian qua. Vn-Index
chịu tác động bởi biến giá USD, giá vàng. Điều này cũng
phù hợp với lý thuyết là vốn đầu tư chạy khỏi đồng tiền có
xu hướng mất giá trong tương lai. Thực tế cho thấy có
những thời gian, giá USD tăng cao do nhu cầu USD tăng
để thanh toán hàng nhập khẩu, hoặc trong giai đoạn, khi
Chính phủ điều chỉnh tăng giá xăng dầu, làm cho đồng
USD kỳ vọng tăng giá rất lớn. Đây đều là những yếu tố gây
bất lợi cho giá chứng khốn, có thể làm cho giá chứng
khốn sụt giảm mạnh. Và điều đó tiềm ẩn nguy cơ nhà đầu
tư nước ngồi có thể rút một lượng vốn đầu tư sang nước
khác, trong điều kiện tự do hóa về vốn. Nếu hiện tượng này
xảy ra, sẽ gây khơng ít khó khăn trong việc quản lý vĩ mô
ở Việt Nam, nhất là trong điều kiện chống lạm phát như
hiện nay.
Tuy nhiên, thực tế TTCK Việt Nam và trên các đồ thị
của bài viết cho thấy, có những giai đoạn cả giá USD tăng
cao mà giá chứng khoán cũng tăng. Hơn nữa, giá vàng và
giá chứng khốn có lúc có mối quan hệ đồng biến. Vậy bản
chất của mối liên hệ này được giải thích ra sao? Chúng ta
đều biết là giá chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố khác nữa, các yếu tố này đều tác động tổng hợp lên giá
chứng khốn, trong những yếu tố đó, có yếu tố tác động
trội hơn những yếu tố khác trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn. Khi xây dựng mơ hình nghiên cứu ảnh hưởng của giá
vàng, giá USD lên giá chứng khoán, ta giả định là những
yếu tố khác không đổi như yếu tố lãi suất, yếu tố kỳ vọng,
yếu tố tâm lý của nhà đầu tư… Song Vn-Index trên thực tế
lại chịu tác động của những yếu tố kể trên. Và có giai đoạn,
các yếu tố không đề cập tới trong mô hình lại tác động
mạnh mẽ, tác động trội hơn lên giá chứng khốn so với các
biến trong mơ hình.
Nguyễn Thị Thanh Huyền
48
Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh là điều
kiện quan trọng để TTCK vận hành tốt. Thơng qua TTCK
chúng ta cũng có thể nhanh chóng xác định được các cú
sốc như giá vàng, giá USD hay lạm phát, … tác động như
thế nào đến tồn bộ nền kinh tế. Vì vậy, khi hoạch định các
chính sách kinh tế, các nhà hoạch định cần xem xét mối
quan hệ giữa các yếu tố trên để đạt được mục tiêu đã đề ra
một cách hiệu quả.
Để nền kinh tế phát triển ổn định hay TTCK ổn định thì
cần hướng đến sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Bởi tỷ giá
hối đoái biến động ngược chiều và tác động mạnh đến
TTCK. Biến động mạnh về giá USD sẽ tác động tiêu cực
đến giá chứng khoán. Khi tỷ giá ổn định, các doanh nghiệp,
nhà đầu tư sẽ an tâm đầu tư và sản xuất. Giá chứng khoán
sẽ thể hiện gần đúng nhất mức giá trị thật của nó.
Theo nghiên cứu này, trong dài hạn mơ hình hồi quy có
hiệu lực. Tuy nhiên, do TTCK Việt Nam tương đối nhỏ so
với thị trường tại các nước có nền kinh tế phát triển nên thị
trường chứng khoán Việt Nam có thể cũng rất dễ bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố kinh tế vĩ mơ tồn cầu hoặc các yếu
tố kinh tế vĩ mô của những đối tác thương mại chính. Vì
vậy, cần có thêm những nghiên cứu mở rộng sau bằng cách
cách xem xét thêm các yếu tố vĩ mơ khác để kết quả có thể
sát với thực tế hơn nữa. Bên cạnh đó cũng cần có các
nghiên cứu về tâm lý đám đông để đo lường mức độ ảnh
hưởng của tâm lý nhà đầu tư đối với hoạt động đầu tư trên
TTCK Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Branson, W. H, Managening Foreign Exchange Risk, Cambridge
University Press, 1983.
[2] Huỳnh Thanh Bình và Nguyễn Minh Hà, “Tác động của giá vàng,
giá dầu và các chỉ số chứng khoán lớn thế giới đến chỉ số chứng
khốn Vn-Index”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế
giới, số 4 (2012), trang 67-73.
[3] Dornbusch, R. and Fischer, S., “Exchange Rates and the Current
Account”, The American Economic Review, Vol. 70, No. 5, 1980,
pp.960-971.
[4] Gan, C., Lee, M., Young, H. W. A. and Zhang, J.‚”Macroeconomic
variables and stock market teractions: new zealand evidence”,
Investment Management and Financial Innovations, Vol.3, Issue 4,
2006, pp.89-101.
[5] Garefalakis, E. A., Dimitras, A., Koemtzopoulos, K., and
Spinthiropoulos, K.,“Determinant factors of Hong Kong stock
market”, International Research Journal ofFinance and Economics,
Vol. 62, 2011, pp.50-60.
[6] Gavin, M., “The Stock Market and Exchange rate Dynamic”, Journal
of International Money and Finance, Vol.8 (2), 1988, pp.181-200.
[7] Mukhejee, T. K. and Naka, A,“Dynamic Relations between
Macroeconomic Variables and the Japanese Stock Market: An
Application of a Vector Error Correction Model”, Journal of
Financial Research, Vol.18, No.2, 1995, pp.223-237.
[8] Narayan, K. P. and Narayan, S., “Modelling the impact of oil prices
on Vietnam'sstock prices”, Applied energy, Vol.87, No.1, 2010,
pp.356-361.
[9] Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết, Mối quan hệ giữa tỷ giá hối
đoái, lãi suất và giá cổ phiếu tại TP. HCM, Tạp chí Phát triển và Hội
nhập, Số 11 (21), 2013, trang 37-41.
[10] Rahman, A. A., Sidek, N. Z. M. and Tafri, F. H., “Macroeconomic
determinants of Malaysian Stock Market”, African Journal of
Business Management, Vol.3 (3), 2009, pp.095-106.
(BBT nhận bài: 22/08/2014, phản biện xong: 25/12/2014)