LUẬT TỤC CÁC DÂN TỘC TÂY NGUYÊN VỚI QUYỀN
BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM
1- Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi
khác nhau như của người Ê Đê, của người M Nông, của người Gia
Rai, của người Ra Glai, của người Mạ, của người S`Rê… được coi
là sự biểu hiện thái độ ứng xử của con người với môi trường tự
nhiên và cộng đồng xã hội. Bên cạnh mặt hạn chế, nhìn chung các
bộ luật trên trong một chừng mực nhất định, vẫn phát huy tác dụng
tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Luật tục đề cập tới nhiều vấn đề khác nhau trong đời sống tộc người
từ môi trường tự nhiên, quan hệ sản xuất và sở hữu, tổ chức và các
quan hệ xã hội, phong tục tập qn, hơn nhân và gia đình…
2- Trước hết phải thấy rằng, xã hội truyền thống của các dân tộc Ê
Đê, M Nông, Gia Rai… là xã hội mẫu hệ. Dòng họ mẹ thống trị mọi
mặt trong đời sống xã hội như quyền thừa kế tài sản, hôn nhân và
gia đình. Do vậy, luật tục là cơng cụ hữu hiệu để bảo vệ xã hội mẫu
hệ, khẳng định vai trò của dịng họ nữ, khẳng định vị trí to lớn của
người phụ nữ trong xã hội.
Trong luật tục Ê Đê, mọi của cải trong gia đình do người phụ nữ
quản lý, giữ gìn cho tổ tiên dịng họ. Luật tục nói rõ : "Dù là cái
chén sứ con, cái bát đồng nhỏ hay những đồ lặt vặt cũng không
được cả gan đem bán đi để ăn mà phải mãi mãi cất giữ.
Từ những cái gùi Gia Rai (có nắp đậy) đến những cái sọt, cái túi, cái
nải và những đồ lặt vặt, người chị cả đại diện cho người mẹ là người
có nhiệm vụ chăm nom, giữ gìn.
Tất cả những cái bát vỏ bầu, cái thúng đựng tro, cái hòn để mài, các
cái trã để luộc rau, người chị cả là người phải bảo quản.
Các ché Mnơng, các vịng đeo tay, các chén bát đẹp bằng bạc bằng
vàng là những của cải quý giá do tổ tiên xưa kia giàu có để lại, chính
người chị cả là người phải giữ gìn"
Tài sản trong gia đình đều thuộc về quyền quản lý của người mẹ hay
người đại diện cho mẹ là chị cả. Việc thừa kế tài sản chỉ thực hiện
theo dòng họ nữ. Khi vợ chết, mọi của cải và cả con cái đều thuộc
về phía gia đình vợ (dì, bà ngoại) quản lý, còn người chồng phải trở
về sinh sống với cha mẹ mình mà khơng được mang theo tài sản và
con cái. Trong trường hợp người chồng được gia đình bên vợ cho
nối dây (lấy em vợ) thì cùng với vợ tiếp tục quản lý con cái và tài
sản đó.
Cơng việc quản lý và phân chia tài sản được tiến hành như sau : nếu
gia đình có nhiều chị em sống chung với nhau, thì số tài sản, của cải
đó do người con gái lớn nhất quản lý. Trường hợp có người đi lấy
chồng và ra ở riêng thì mới phân chia cho họ một phần. Các anh em
trai đều không được chia phần trong số tài sản đó. Nếu khơng có các
con gái thì các con trai về ở với bà ngoại hoặc các dì và số tài sản do
mẹ để lại thuộc về bà hoặc các dì.
Như vậy, luật tục Ê Đê về thừa kế tài sản có phần ưu ái với phụ nữ
mà khơng bình đẳng giữa chồng và vợ, giữa trai và gái, gia đình
chồng và gia đình vợ. Quy định này không phù hợp với pháp luật
dân sự hiện hành.
3 Ở các dân tộc Ê Đê, M Nông, Gia Rai… quan hệ hôn nhân theo
chế độ mẫu hệ. Theo tập tục này, người phụ nữ đóng vai trò chủ
động cưới chồng, người chồng sinh sống bên nhà vợ và con cái sinh
ra mang họ mẹ. Nhìn chung, quan hệ hôn nhân của các dân tộc thiểu
số kể trên là tự nguyện. Trai gái đến tuổi trưởng thành tự do yêu
đương, tự do tìm hiểu người bạn đời của mình mà khơng phải chịu
sức ép nào cả. Đây là nét tiến bộ quan trọng trong quan hệ hôn nhân.
Luật tục đã chỉ rõ điều đó : "Trâu bị không ai ép thừng, trai gái
không ai ép duyên. Nếu hai người ưng nhau muốn lấy nhau thì vịng
cứ đặt trên chiếu, tự họ họ sẽ cầm lấy, không một ai cầm trao cho
họ"
Họ là đôi trai gái không ai ép phải nhận vòng đồng, chuỗi cườm của
nhau. Ngay cả những người làm mai mối cũng khơng có quyền ép
buộc : "Nếu anh bằng lịng lấy người ta thì cái vịng đồng để trên
chiếu anh hãy cầm lấy. Chúng tơi là người hỏi người mối, chúng tôi
không cầm trao tận tay anh đâu kẻo mai kia anh lại bảo những người
mối kia ép anh"
Nhìn chung, hơn nhân trong xã hội mẫu hệ theo chế độ một vợ một
chồng. Thế nhưng trong cuộc sống, những kẻ có thế lực, giàu có lại
muốn lấy nhiều vợ. Trong trường hợp này, người chồng phải thực
hiện việc đền bù vật chất cho vợ cả :
Người phụ nữ có quyền địi người chồng nộp đầy đủ của cải đền bù
về việc vi phạm phong tục truyền thống của mình.
Ở người Ê Đê, tục "nối nòi" được luật tục bảo vệ nghiêm ngặt, cũng
giống như : "Dầm nhà gãy thì phải thay, dát sàn nát thì phải thế.
Chết người này thì phải nối bằng người khác" Theo đó, khi chồng
chết, người đàn bà có quyền địi hỏi nhà chồng một người em trai
chồng để nối nòi. Ngược lại, người vợ chết, chồng bà ta có thể lấy
em gái vợ để nối nịi.
Cũng có khi tục nối nịi truyền thống vượt ra ngồi phạm vi hơn
nhân chị em vợ và hơn nhân anh em chồng. Chẳng hạn, khi cậu chết
thì nối lại bằng cháu , bà chết cũng được nối lại bằng cháu.
Tập quán của người Gia Rai không để cho người đàn bà chịu cảnh
góa bụa, bất hạnh suốt đời mà cho họ đi bước nữa "để nối lại sợi dây
bị đứt", "khơng để bếp lị rạn nứt, ngơi nhà bị thủng", "không để nỗi
buồn trùm lấp"
Luật tục Gia Rai cho phép người đàn bà có chồng chết được quyền
lấy cháu ruột của người chồng đó. Việc lấy trong dòng họ tạo nên
mối quan hệ bền chặt của dòng họ đó cũng giống như mối quan hệ
giữa các thanh xà với sàn nhà và mái nhà trong một ngôi nhà. Đó là
quyền được duy trì nịi giống, huyết thống, duy trì sự tồn tại của
dịng họ.
Tuy nhiên, tính khắt khe của tập tục nối nòi đã khiến cho nhiều
người phụ nữ rơi vào tình trạng bất hạnh, chịu cảnh khốn khổ về
chênh lệch tuổi tác. Đây quả là vấn đề hết sức phức tạp.
Nếu khơng chịu "nối nịi" thì vi phạm luật tục, nhưng nếu chấp nhận
"nối nòi" mà quá chênh lệch tuổi tác thì vi phạm pháp luật nhà nước
hiện hành. Do đó phải có biện pháp hữu hiệu nhằm tun truyền giải
thích để hạn chế tình trạng này là việc làm cần thiết.
Trong hôn nhân, sống thủy chung là địi hỏi chính đáng : "Đã lấy vợ
thì phải ở với vợ cho đến chết, đã cầm cần mời rượu thì phải vào
cuộc cho đến khi rượu nhạt, đã đánh cồng thì phải đánh cho đến khi
người ta giữ tay lại"
Tập quán của các dân tộc thiểu số thường bênh vực, bảo vệ các cuộc
hôn nhân hợp với phong tục, trị tội những kẻ làm trái, làm cản trở
hôn nhân, đồng thời lên án, phê phán quyết liệt những cuộc hôn
nhân không theo phong tục như cưới xin không báo cho buôn làng,
không nộp đủ đồ lễ cưới… Cịn nếu người chồng có ý định ly hơn
thì việc đầu tiên anh ta phải nộp của cải, đền bù vật chất theo
nguyên tắc một đền hai :
Đối với những người chồng lười biếng, khơng chăm sóc vợ con, thì
luật tục cho phép người vợ có quyền đi lấy chồng khác và tất nhiên,
mọi của cải thuộc về người phụ nữ
Lễ trao vòng của người Gia Rai tương tự như lễ dạm hỏi của người
Kinh (Việt), nhưng có ý nghĩa quan trọng hơn. Lễ này do nhà gái
tiến hành, chủ động sang phía nhà trai dạm hỏi. Sau lễ trao vịng, đơi
trai gái đã có thể ở với nhau với điều kiện khơng được có con trước
khi tổ chức lễ cưới chính thức. Việc trả vịng đồng nghĩa với việc từ
chối đám cưới và lúc này, hai bên có thể tự do tìm bạn tình mới,
giao ước hơn nhân giữa hai gia đình coi như được xóa bỏ. Luật tục
bênh vực quyền lợi chính đáng của người phụ nữ
Nếu người con trai đơn phương không thực hiện lời giao ước sau lễ
trao vòng, anh ta phải bồi thường danh dự cho cơ gái đó, mức bồi
thường có khi là cả một con bò.
Trường hợp hai vợ chồng đã có con với nhau nhưng vì lý do nào đó
người chồng bỏ vợ tập tục Gia Rai bênh vực quyền lợi của người
phụ nữ trong việc đền bù vật chất của cải và xử phạt người chồng rất
nặng vì anh ta không phải nuôi con
Những quy định xử phạt nặng của luật tục đối với người chồng đã
hạn chế tình trạng bỏ bê vợ con, chểnh mảng cơng việc làm ăn, hạn
chế tình trạng ly hơn trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên. Điều đó có tác động tích cực trong việc củng cố quan hệ vợ
chồng, gia đình, bảo vệ lợi ích của người phụ nữ.
Luật tục các dân tộc thiểu số có nhiều điều bênh vực quyền và lợi
ích của người phụ nữ. Điều này thể hiện rất rõ trong những vụ xét
xử có liên quan đến người phụ nữ, thì ý kiến của họ thường được
người xử kiện coi trọng. Luật tục Ê Đê có câu : (con gái ngã là con
trai chết). Theo đó, nếu người phụ nữ đã khai thì dù có hay khơng,
người đàn ơng cũng bị quy tội là đã có quan hệ bất chính với chị ta.
Tiếp đó, nếu người đàn ơng có vợ sẽ bị vợ phạt. Nói chung, người ta
tin lời nói của người phụ nữ, mặc dù có khi sự thật là khơng có.
Trong vấn đề ly hôn, lỗi của người phụ nữ bao giờ cũng được đánh
giá nhẹ hơn so với đàn ông. Khi giải quyết các vụ kiện ly hơn, người
ta vẫn có những quy định ưu tiên quyền lợi của phụ nữ.
Tập tục của người Ê Đê, Gia Rai cho phép người phụ nữ có quyền
"đi bước nữa" trong trường hợp người phụ nữ đó có chồng đi vắng
lâu năm, khơng cịn chờ đợi được nữa. Trường hợp khác, khi người
chồng bị cầm tù hay bị bắt làm nô lệ, luật tục không bắt buộc người
vợ phải chờ mà có thể đi lấy chồng khác. Điều này được luật tục
Êđê biện luận như sau : "Chị ta đã mịn mỏi trơng chờ, đã già đi,
cơng việc nương rẫy lại khơng có người làm. Chịi khơng có ai đi
thăm, rẫy khơng có ai đi phát, con két, con vẹt khơng có ai xua đuổi.
Chị ta đã chờ hết năm này qua năm khác, hết mùa khô này đến mùa
khô khác. Đã đến lúc phải thôi đi những năm tháng đợi, phải để chị
ta kiếm người chồng khác, một đời chồng thứ hai" . Phong tục cho
phép người phụ nữ đó mời họ hàng đến để thưa chuyện và sau đó
được quyền đi lấy chồng khác.
4 Tập quán của nhiều dân tộc thiểu số rất quan tâm đến trẻ em bởi
trẻ em là hình ảnh ngày mai của mỗi dân tộc. Do đó, nhiều tập tục
thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với lớp người nhỏ tuổi này. Luật
tục phê phán những ông bố bà mẹ khơng biết ni dạy, chăm sóc
con cái, thậm chí cịn bỏ rơi hoặc đẩy những đứa trẻ đáng thương ra
ngoài đường
Trách nhiệm của cha mẹ là phải làm lụng để ni dạy con cái nên
người, chăm sóc chúng đến khi trưởng thành. Trong trường hợp trẻ
con chưa có khả năng tự chủ, nuôi sống bản thân mà chẳng may cha
mẹ mất sớm hoặc khơng có khả năng chăm sóc, ni dưỡng, thì
trách nhiệm đó thuộc về anh chị em ruột của người đó. Nếu khơng
có anh em ruột hoặc có nhưng cịn nhỏ thì bà con họ hàng bên phía
mẹ phải có trách nhiệm chăm sóc, rồi đến họ hàng của bố. Trong
trường hợp họ hàng khơng cịn ai thì buôn làng vận động người khác
nhận làm con nuôi. Điều đó thể hiện sự quan tâm của gia đình và
cộng đồng làng buôn đối với trẻ em. Quy định này của tập quán là
phù hợp với pháp luật hiện hành, cần được khuyến khích.
Trách nhiệm ni nấng, chăm sóc trẻ em là bổn phận của bậc làm
cha mẹ, gia đình và cộng đồng làng buôn. Tập quán của đồng bào
các dân tộc phê phán những ông bố, bà mẹ không làm trọn bổn phận
của mình, thậm chí cịn bỏ rơi con trẻ
Đối với những đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ do nhiều hồn cảnh khác
nhau xơ đẩy, có thể do cha mẹ chúng vô trách nhiệm, không thể nuôi
nổi chúng vì q nghèo khổ hoặc rơi vào hồn cảnh éo le cha mẹ
không may bị mất sớm khi tuổi chúng hãy còn nhỏ dại, luật tục cho
phép quyền được nhận con ni
Luật tục cho phép mọi người dân có quyền nhận người khác làm con
nuôi hoặc được người khác nhận làm con ni mà khơng phân biệt
họ hàng dịng tộc. Việc nhận con ni chỉ cần có sự thỏa thuận giữa
bà con họ hàng đôi bên và mặc nhiên được buôn làng chấp thuận.
Con ni có đủ các quyền và nghĩa vụ như con đẻ, được tơn trọng
và đối xử bình đẳng, kể cả quyền được nhận tài sản thừa kế
Nhận con nuôi không phải để bắt chúng làm việc như người hầu,
đứa ở trong nhà, càng không được bán hoặc đổi lấy lúa, đổi lấy
muối, mà phải đối xử tử tế, phải chăm sóc dạy dỗ đến nơi đến chốn,
vì ni trẻ mồ côi không tử tế là mang tội. Luật tục khun bảo
những người có lịng tốt hãy ra tay làm phúc cứu vớt những trẻ mồ
côi. Theo quan niệm dân gian, nếu ni những đứa trẻ mồ cơi thì
điều may mắn, tốt lành sẽ đến với người làm phúc
Có thể nói luật tục quy định về con ni là khá cụ thể và phù hợp
với pháp luật hiện hành. Điều đó thể hiện trách nhiệm chung của
cộng đồng làng bn, của gia đình đối với trẻ em.
Một trong những tội bị luật tục lên án gay gắt nhất, mạnh mẽ nhất là
tội hãm hiếp trẻ con và được khép vào loại tội lớn nhất, dơ dáy nhất
mà không một vật chất nào đền bù thỏa đáng
Luật tục coi tội hãm hiếp trẻ con là tội khơng thể xóa sạch
5 Tập tục truyền thống của các dân tộc có nhiều điều đề cập đến
quyền của người phụ nữ và trẻ em. Nhiều điều quy định đến nay vẫn
có giá trị và phù hợp với pháp luật Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh
những điều luật đề cao và bênh vực người phụ nữ thì cịn khơng ít
những tập tục tỏ ra khơng phù hợp, thậm chí lạc hậu. Có những tập
tục xử phạt người phụ nữ quá nặng như tội ngoại tình, loạn ln, hay
quan hệ tình dục trước hơn nhân. Chẳng hạn, dân tộc Xê Đăng cư
trú ở huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum quy định, nếu phụ nữ có thai
trước khi cưới sẽ bị phạt heo và rượu để cả bn làng cùng uống.
Cịn theo tập qn của người Xê Đăng ở huyện Kon Plơng, nếu
người phụ nữ có thai trước khi cưới thì gia đình, họ hàng, bn làng
khơng giúp đỡ mà hai người tự tổ chức lấy, trường hợp khơng cưới
sẽ bị phạt một con bị và 10 ché rượu
Trong những năm đổi mới, đời sống kinh tế – xã hội ở vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến tích cực. Nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần đang dần dần tác động và thay thế nền
kinh tế nương rẫy tự nhiên. Việc giao lưu văn hóa có ảnh hưởng nhất
định đến lối sống, phong tục tập quán, tạo nên những biến đổi trong
đời sống. Điều đó đã và đang tác động mạnh mẽ đến luật tục, làm
cho một số điều luật không còn tác dụng hoặc bị thay đổi. Vấn đề
đặt ra hiện nay là cần phải điều chỉnh luật tục cho phù hợp với pháp
luật Nhà nước hiện hành. Việc điều chỉnh luật tục phải trên cơ sở
phong tục và truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng tộc người,
nhằm bảo đảm sự bình đẳng về mọi mặt cho phụ nữ và trẻ em phù
hợp với tình hình hiện nay. Có như vậy, việc điều chỉnh mới có tác
dụng và luật pháp mới thực sự đi vào cuộc sống.
Chế độ mẫu hệ và uy quyền phụ nữ
Bắt nguồn từ thời nguyên thủy với quan hệ tạp hôn bầy đàn không
thể xác định ai là cha của những đứa trẻ, người mẹ tất yếu được xem
là tác giả duy nhất chắc chắn về cuộc sinh nở và xác định huyết
thống nên luôn được đặc biệt tôn trọng. Từ đó con cái mang họ mẹ,
người phụ nữ nắm quyền quyết định mọi việc từ trong gia đình đến
ra cả cộng đồng. Cho tới bây giờ các tộc trưởng và chủ hộ ở Tây
Nguyên vẫn là phụ nữ. Người được mời uống ngụm rượu cần đầu
tiên là phụ nữ. Con gái lớn lên được chủ động chọn lựa đối tượng
yêu đương để … bắt làm chồng.
Nhà trai thách cưới và tục “nối dây”
Thiếu nữ các dân tộc Êđê, J’Rai, K’Ho vào tuổi dậy thì bắt đầu để ý
tìm hiểu về các chàng trai. “Chấm” được ai nàng sẽ về thưa với gia
đình, nếu nhất trí cha mẹ nàng cúng ng bằng 1 ché rượu và 1
chiếc vòng đồng để cầu mong mọi việc suôn sẻ, rồi nhờ người làm
mối đi cùng ông cậu (anh hoặc em trai của mẹ) sang nhà trai ướm
hỏi.
Ông cậu nhà trai tập trung mọi người trong họ lại để hỏi ý, nếu mọi
người đều ưng thuận thì đơi bên trao đổi chiếc vịng đồng đính hôn,
nhà trai đãi rượu và đưa ra điều kiện thách cưới, thường là chiêng
ché, trâu bò, áo chăn thổ cẩm. Sau nghi thức dạm hỏi này, nếu bên
nào không thực hiện đúng điều cam kết sẽ bị buôn làng phạt nặng về
tội bội ước. Sau đó, theo thoả thuận giữa đôi bên, cô gái sẽ sang nhà
chàng trai làm dâu một thời gian để đền bù công nuôi dưỡng của cha
mẹ chồng trước khi nhà gái được đón rể.
Hồn tất nhiệm vụ làm dâu mới tới lễ cưới chính thức, ngày đầu nhà
gái đưa lễ vật sang, ngày thứ hai họ hàng tiễn đưa chàng trai về bên
vợ. Mọi chi phí lễ cưới đều do nhà gái đảm nhận. Có trường hợp nhà
gái nghèo xin khất nợ, đôi vợ chồng chung sống đẻ cả đàn con rồi
mới dành dụm được đủ lễ để tổ chức cưới trước buôn làng. Một quy
định đặc biệt nữa về hôn nhân ở nhiều dân tộc Tây Nguyên là tục
“nối dây”.
Khi chồng hoặc vợ qua đời, kẻ goá được quyền tái hôn với bất cứ
em trai hoặc em gái nào cịn độc thân của người đã khuất . Tục này
đơi lúc dẫn tới bi hài kịch khi bà chị dâu già thích lấy cậu em chồng
trai tơ, ơng anh rể già địi cưới cơ em vợ cịn nhỏ xíu hoặc đã có
người u. Riêng ơng rể gố nào khơng chịu nối dây sẽ phải trắng
tay rời khỏi nhà vợ, con cái khơng được mang theo. Có một ví dụ
vui vui ai cũng biết bởi chuyện đời đã thành tiểu thuyết và dàn dựng
thành phim “ Đất nước đứng lên”, là khi H’Liêu xinh đẹp lâm bệnh
chết trẻ, được em vợ rất thương chiều nên Anh hùng Núp người dân
tộc Bơh Nar cũng đã vui lòng nối dây .
Chặt củi hứa hôn và… rửa chân cho vợ cả
Đồng bào Jẻ Triêng ở Kon Tum phía cực bắc Tây Nguyên quy định:
thiếu nữ trước lúc bắt chồng phải thông thạo việc dệt vải và chuẩn bị
cho đủ đống củi hứa hơn. Vì vậy từ khi còn “chùi mũi chưa sạch”
con gái Jẻ Triêng đã phải ngồi vào khung tập dệt rồi mài rựa vào
rừng chặt củi. Củi hứa hôn phải chọn loại đượm lửa, đẽo dài đều cỡ
8 tấc, gùi về cho đủ 100 bó chất cao q đầu.
Trai Jẻ Triêng ln chấm điểm trước tiên về tay nghề dệt vải và chặt
củi của cơ gái đang rắp tâm bắt mình làm chồng. Nếu chàng ưng,
nàng sẽ gùi củi sang cho nhà trai dùng để nướng thịt thết đãi dịng
họ đơi bên . Cực nhọc vậy mới kiếm được chồng nên phụ nữ Jẻ
Triêng khơng bao giờ cho phép chồng vì bất cứ lý do gì mà lăn tăn
với ả nào khác.
Riêng đối với đồng bào Mạ - một dân tộc thiểu số hiếm hoi ở Tây
Nguyên theo chế độ phụ hệ thì trái lại. Nam nữ thanh niên Mạ đều
có quyền chủ động hỏi vợ hoặc bắt chồng nhưng con mang họ cha
và quyền làm chủ gia đình thuộc về nam giới. Đàn ông Mạ thi
thoảng cũng lợi dụng quyền lực để vòi vĩnh cưới thêm vợ lẽ.
Để được sống chung với gã đàn ơng đã có vợ, bà lẽ phải chuẩn bị gà
heo rượu cúng Yàng, đến nhà chồng cung kính rửa mặt rửa chân cho
bà cả. Chừng nào Chị Hai vừa lịng thì đức ơng đèo bịng kia mới
chia thời gian để lần lượt mưa móc theo tỉ lệ vợ cả 1 vợ lẽ 3. Nếu lỡ
say sưa quá thời hạn bên này, có thể năn nỉ bên kia nhận ít tiền hay
quà coi như đền bù, an ủi …
Chuyện cưới xin Những tục lệ khác nhau
Trong các dân tộc ít người, việc lựa chọn người bạn đời thường
được dành cho từng cá nhân. Ở Tây Nguyên, nam nữ thanh niên có
thể hẹn hò, gặp gỡ nhau trong rừng, ở nhà hoặc trong các lễ hội. Một
số cha mẹ còn dựng các lều nhỏ cho con gái mình làm nơi hị hẹn.
Cơ gái sẽ mời người u của mình về ở với cô trong lều năm đêm.
Nếu chàng trai không đồng ý lấy cơ thì phải nộp phạt cho nhà gái
một con gà và một ché rượu. Nếu đôi trai gái đồng ý kết hôn, họ sẽ
thưa chuyện với cha mẹ. Qua các ông mối, các thiếu nữ Gia Lai và
Ê Đê thường ngỏ tình cảm và đưa tặng người yêu chiếc vòng tay.
Nếu người bạn trai nhận vòng, tức là họ chấp nhận lời hứa hôn và
hôn lễ sẽ được cử hành sau đó.
Đối với người Mơng, khi đơi trai gái đồng ý cưới nhau, chàng trai sẽ
báo trước cho người yêu biết ngày và nơi mà cô sẽ bị "bắt". Theo
tục lệ “bắt vợ” này, người con gái sẽ được đưa về nhà người yêu như
một "tù nhân". Sau 3 ngày bị "bắt", nếu cô gái không trốn khỏi nhà
có nghĩa là cơ gái đã đồng ý cưới chàng trai. Sau đó, cha mẹ chàng
trai nhờ ơng mối chọn ngày lành tháng tốt cho lễ cưới. Cô gái được
trở về nhà để chuẩn bị tư trang và váy áo cho đám cưới.
Đôi khi, thêm một lần thử thách người yêu, cô gái Mông lại yêu cầu
người yêu "bắt" cô ngay tại nhà vào giữa đêm - việc này không phải
là dễ vì lúc này trong nhà thường có đầy đủ mọi người. Để giúp
người yêu, cô gái thường để ngỏ cửa sau. Khi bị "bắt", cơ gái có thể
sẽ hoảng sợ, kêu thật to, đánh thức cả nhà. Nếu chàng trai kéo được
cơ thật nhanh ra khỏi nhà thì càng chứng tỏ chàng trai của cô là
người dũng cảm và mạnh mẽ.
Nhiều chàng trai Mông muốn mang hạnh phúc bất ngờ cho người
yêu. Họ đến "bắt" mà không báo trước, lại cịn giả làm người lạ để
cơ gái khơng nhận ra ngay từ đầu. Nhưng sau đó, cơ gái sẽ vô cùng
hạnh phúc khi nhận ra người yêu. Một số cô gái đã biết trước
thường tách ra khỏi bạn bè, ở nơi vắng vẻ để bị "bắt" được thuận
tiện. Từ bao đời nay, tục lệ "bắt vợ" này vẫn còn tồn tại.
Ở vùng Tây Bắc, khi chàng trai muốn cưới cô gái, anh ta thường rủ
bạn bè, mang những chiếc khèn bè, đến diễn tấu dưới cửa sổ nhà sàn
các cơ gái. Qua thời gian tìm hiểu, chàng trai nào chọn được người
yêu rồi sẽ nói với cha mẹ để lo chuyện hôn nhân. Theo tục lệ cũ,
người con trai phải đến ở nhà người con gái trong 3 tháng trước khi
làm lễ cưới chính thức. Anh ta chỉ được phép ở gian đầu nhà sàn
dành cho khách nam giới. Anh ta cũng chỉ được phép mang theo
một con dao để làm việc. Sau thời gian “thử thách” 3 tháng, nếu
được bố mẹ vợ tương lai ưng ý, chàng trai sẽ trở về nhà để báo cho
bố mẹ mình biết. Lần này, anh ta mới được mang tư trang của mình
đến và ở đó suốt 3 năm. Lễ thành hơn chính thức chỉ được tiến hành
sau 3 năm! Sau 3 năm, nếu đồng ý lấy chàng trai, cơ gái sẽ búi tóc
bằng trâm cài đầu và cái độn tóc giả do gia đình nhà trai mang đến.
Cô gái nào không muốn cưới chàng trai sau 3 năm đó sẽ phản kháng
bằng cách cắt trụi tóc mình. Sau lễ cưới, chú rể sẽ tiếp tục ở nhà gái
từ một đến mười năm và chỉ được phép đưa vợ về nhà mình sau một
nghi lễ đưa dâu long trọng. Lần này, nàng dâu phải chuẩn bị nhiều
quà biếu gia đình bên chồng như tấm áo khốc thật đẹp cho mẹ
chồng, một bộ quần áo thật đẹp biếu bố chồng và những tấm khăn
piêu biếu cô bắc bên chồng.
Trong một số trường hợp khi đám cưới do bố mẹ sắp xếp, lễ nạp thái
đánh dấu lần đầu tiên hai gia đình gặp nhau. Ở giai đoạn này, chàng
trai và cơ gái đã được "lựa chọn". Sau đó, gia đình chú rể sẽ hỏi họ
tên, ngày sinh tháng đẻ cô dâu tương lai. Song, họ thường nhờ thầy
số bấm tuổi từng người, so đôi tuổi xem đôi trai gái có thể sống hịa
hợp nhau và bền lâu hay khơng.
Khi mọi thứ sn sẻ, gia đình chú rể sẽ thơng báo cho gia đình cơ
dâu biết và trước lễ ăn hỏi, gia đình nhà gái sẽ thách cưới. Lễ vật
gồm gạo nếp, gà, thịt heo, trà, trầu cau cho lễ cưới, một số nữ trang
và vải vóc cho con gái. Việc đem những lễ vật này đánh dấu bước ăn
hỏi giữa hai gia đình.
Trầu cau mang điển tích nhắc nhở long thủy chung của đơi trai gái.
Gia đình cơ dâu sẽ biếu lại nhà trai một phần lễ vật, số cịn lại đem
chia thành gói nhỏ, biếu họ hàng, bạn hữu để báo tin con mình đã
đính hơn.
Từ ngày ăn hỏi đến ngày cưới, có tục sêu tết. Chàng rể chưa cưới
biếu nhà vợ mùa nào thức nấy những thứ đầu mùa như chim ngói,
ngỗng, dưa hấu v.v. và qua ngày Tết. Thời gian này, nhà gái thường
phải tỏ ra không vội vã trong khi chú rể biết rằng anh ta phải cưới
vợ càng nhanh càng tốt. Trong dân gian có câu rằng: “cưới vợ thì
cưới liền tay” bởi vì cơ gái có thể bỏ đi với người khác nếu phải chờ
đợi quá lâu.
Lễ cưới được tổ chức khác nhau tùy theo từng vùng. Ở vùng nơng
thơn miền bắc có tục chăng dây tơ hồng đám cưới. Một số thanh
niên bên nhà gái chăng một sợi chỉ đỏ ngang đường mà cắt đi là
điều tối kỵ. Nếu sợi tơ hồng bị đứt, cặp vợ chồng không thể ăn đời ở
kiếp với nhau lâu được. Dưới sợi tơ hồng đó đặt một chiếc bàn, có
sẵn bút, mực và giấy, trên giấy đã ghi sẵn một vế đối mà chú rể phải
viết nốt vế đối cịn lại. Thí dụ: nếu một vế của câu đối là: "Đông
sàng tự Cổ, Đơ Tây tịch." (Cái giường phía Đơng từ xưa vẫn trải
chiếu phía Tây) thì chú rể đối lại như sau: "Nam nhạn quy Trình, Xá
Bắc chân." (Con chim nhạn ở phương Nam bay về - đỗ ở bãi phía
Bắc).
Một khi chú rể hoặc một người trong họ nhà trai hoàn thành vế câu
đối, chú rể coi như đã “đậu”. Nhà gái cuốn sợi dây tơ hồng lại, nổ
pháo tưng bừng, đón mừng chú rể. Gia đình chú rể được mời ăn
trầu, uống rượu và ăn cơm chiều. Sau bữa ăn, đại diện nhà gái mặc
quần áo đẹp, cùng cô dâu, chú rể trở về nhà chú rể.
Về đến nhà chú rể, cô dâu phải bước qua một lị nhỏ than hồng, tục
rằng để đốt vía, tránh dư luận dèm pha. Hai người làm lễ tế tơ hồng,
khấn Ông Tơ Bà Nguyệt, rồi cùng uống chung chén rượu, cùng ăn
chung khẩu trầu. Đến lễ gia tiên, hai người lạy ông bà, cha mẹ.
Nghi lễ cuối cùng chấm dứt khi cơ dâu chú rể vào phịng. Một bà
cao tuổi, vợ chồng song tồn, con cái đơng đủ được mới sắp giường,
giải chiếu cho đôi vợ chồng mới. Xong, mọi người rút lui.
Ngày hôm sau hoặc sau 4 ngày, đôi vợ chồng mới về thăm gia đình
nhà vợ, thường mang theo mâm lễ, có cả con lợn quay. Nghi lễ này
gọi là Lễ nhị hỷ hoặc lễ tứ hỷ. Nếu rủi thấy tai con lợn đem sang bị
xẻo, đó là báo hiệu có chuyện “trục trặc”.
Ở, vùng nơng thơn, đơi vợ chồng mới cưới thường phải nộp cheo
bằng một số vật liệu như gạch, ngói để tu bổ hoặc xây mới các cơng
trình cơng cộng của làng xóm bên gái như đình, điếm, đường làng,
cổng làng.... Việc này chứng tỏ đơi vợ chồng mới là thành viên của
làng, của xóm.
Trong các đám cưới ở thành phố hiện nay, các phu cưới được thay
bằng các xe xích lơ lọng vàng hoặc ô-tô chở lễ vật từ nhà trai sang
nhà gái. Đám cưới giảm hầu hết các nghi lễ cổ kính mà thay bằng
tiệc tùng náo nhiệt, có ca hát, có nhạc mới, một số nơi có cả khiêu
vũ, chụp ảnh, quay phim. Cô dâu, chú rể lên xe hoa về nhà.
Ngày nay, đám cưới đã có những thay đổi lớn, theo thời gian và thời
thế. Người phụ nữ khơng cịn quanh quẩn trong nhà nữa, đã ra ngoài
xã hội, làm mọi cơng việc bình đẳng với nam giới, tự quyết định lấy
cuộc đời của mình. Tuy nhiên, những nghi lễ cần thiết như cưới, hỏi
v ẫn phải có vì thanh niên ngày nay vẫn phải xin phép cha mẹ khi
cưới xin.
Lễ bỏ mả - Lễ hội đặc thù của Tây Nguyên
Tuy khơng sợ những người chết, khơng có tục thờ phụng tổ tiên đã
khuất, người Tây Nguyên nói chung và người Gia Rai và Ba Na nói
riêng, sau khi tiễn đưa linh hồn người thân đã khuất về thế giới bên
kia, đều có những nghi thức giải phóng mình khỏi những ràng buộc
với người chết. Bởi vậy, trong tang tục của người Tây Nguyên, bao
giờ bên cạnh lễ tiễn đưa linh hồn người chết ra đi cũng đều có lễ giải
phóng cho người sống khỏi mọi rang buộc với người chết. Mặc dầu
mục đích thì chung, nhưng mỗi dân tộc Tây Nguyên lại có cách thể
hiện nghi lễ đó theo kiểu riêng của mình.
Nhiều tộc người khác trên Tây Nguyên cho răng mỗi người sống
đều có hồn nằm tít trong lỗ tai. Khi người nào đó chết, hồn biến
thành ma bay ra khỏi xác. Khi ra khỏi xác, hồn ma đó sẽ hóa thành
chim bay về với tổ tiên ở những hang đá tại vùng quê cha đất tổ. Vì
tin như vậy nên chỉ giữ mả một thời gian ngắn rồi làm lễ bỏ mả
(thường vào mùa xuân - trước lúc bước vào mùa gieo trồng). Vào
ngày làm lễ bỏ mả, người nhà thịt trâu, bò, lợn, đem rượu ra cúng,
ăn uống tại khu nghĩa đại. Mọi người đốt lửa, ăn uống, chia tay với
người chết rồi ra về. Từ sau hơm bỏ mả, người thân trong gia đình
coi như khơng cịn gí ràng buộc với người chết nữa và bỏ luôn cả
ngôi mộ của người chết cho nắng mưa, cây rừng hủy hoại. Không
chỉ đến hôm làm lễ bỏ mả mà ngay vào đầu tháng hết kiêng kị sau
khi chôn người chết (ngày thứ 11 sau khi chôn) đã làm lễ cắt đứt
quan hệ với người chết. Trong lễ này người ta đan một tấm phên
nhỏ, xếp lá có gai lên, rồi để lên đó ít gan gà, thuốc hút... Mục đích
của lễ cúng hơm hết kiêng là mời hồn người chết về ăn để nhắc nhở
là hồn hãy ở lại nghĩa địa, không được về làng nữa và nếu về thì sẽ
bị mắc gai như hồn đã bị mắc gai như khi về ăn lễ cúng hết kiêng
này.
Người Brâu tin rằng, khi cịn sống, mỗi người đều có một hồn nằm
ở đỉnh đầu. Và khi chết, hồn đó sẽ bay khỏi xác, biến thành ma để đi
xuống sống ở một cái hố dưới đất nơi cai quản của thần dưới đất
Bởi vậy, khi có người chết, người Brâu đem xác chôn vào rừng và
làm ngay lễ cắt đứt hoàn toàn mọi quan hệ giữa người sống và người
chết. Để ma người chết không thể về làng được, người Brâu đào
quanh mộ người chết bốn hố sâu và làm luôn nghi lễ vĩnh biệt người
chết bằng cách đem cho người chết ché, chiêng gùi, rìu, nỏ...lấy
rượu hịa tiết gà đem vẩy quanh mộ rồi đọc những lời cúng vĩnh
biệt. Sau hơm chơn đó, người thân trong gia đình bỏ ln mả và
khơng hề cúng bái gì nữa. Từ hơm đó trở đi, người sống coi như hết
tang và tiếp tục cuộc sống của mình như thường lệ.
Theo quan niệm của người Xơ Đăng, mỗi người khi sống đều có
một hồn . Nhưng khi chết thì hồn của người chết sẽ biến thành ma.
Trong thời gian chưa làm lễ bỏ mả, hồn ma người chết vẫn ở tại nhà
mả trong khu nghĩa địa nghĩa là rừng ma. Vì thế, trong thời gian
này, hàng tháng gia đình đem rượu, gà lợn ra nhà mả cúng cho
người chết. Đến ngày bỏ mả, người nhà và dân làng mới làm lễ cúng
lớn, những nhà giàu có thể thịt cả trâu hoặc bị. Hơm lễ bỏ mả,
người ta đào một lỗ lớn từ bên ngoài nhà mồ đến quan tài rồi gia chủ
lấy tim gan con vật cúng cho vào lỗ mới đào đó để cúng cho người
chết.Cúng xong, người ta lấp cái lỗ lại, rồi mọi người cùng ăn uống
đến tận tối mới ra về. Từ sau ngày bỏ mả người nhà được hoàn toàn
tự do và khơng cịn quan tâm gì đến mả của người chết nữa.
Để giải phóng cho người sống khỏi mọi ràng buộc với người chết,
người M'nơng ở tỉnh Đắc Lắc có nghi lễ gọi là cắt hồn . Nghi lễ này
thường được tổ chức sau ba năm kể từ khi chôn người chết. Sau lễ,
người thân trong gia đình mới thật sự hết tang, mới hoàn toàn cắt
đứt mọi quan hệ với người chết. Không chỉ ở lễ mà ngay khi đem
chôn người chết, người M'nông cũng làm một loạt các nghi thức để
cắt đứt mối quan hệ giữa người sống và người chết. Sau khi chôn cất
người chết xong, nghĩa là đã đắp mộ và làm nhà hồn , chủ nhà cầm
sợi chỉ nối từ ngực người chết dưới mộ lên mặt đất và đọc lời nhắn:
"anh (chị ...) ở lại, chúng tôi về". Khi chủ nhà nhắn xong, mọi người
quay đầu, cầm sợi chỉ và chạy, khơng ngồi cổ lại nhìn vì sợ người
chết đi theo. Một lát sau thì sợi chỉ đứt, và khi đó mọi người ra suối
tắm rửa, giặt rũ rồi mới về nhà. Đến nhà, mọi người đốt lên một
đống lửa trước cửa để bước qua trước khi vào nhà ăn uống.
Như một số dân tộc khác ở Tây Nguyên, người Ê đê tỉnh Đắc Lắc
cũng làm lễ bỏ mả để tiễn đưa hồn ma của người chết về bn (làng
ma)và để giải phóng cho người sống khỏi mọi ràng buộc với người
chết. Lễ này được tiến hành từ sau một đến mười năm kể từ sau khi
chôn cất người chết và thường kéo dài hai ngày. Ngày đầu, mọi
người làm nhà mổ mới, dựng cột kút, cột klao mới. Sau khi đã dựng
xong nhà mồ mới, sau khi đã làm xong mọi thứ như đồ cúng, đồ
ăn..., người thầy cúng đến ngồi bên chén rượu hướng mặt về phía
đơng, khấn: "Ơ hồn! người đã chết như lúa nát.Vĩnh biệt!" Sau khi
thầy cúng cúng xong, mọi người ngồi ăn uống ngay tại khu nghĩa
địa. Đêm hơm đầu ấy là đêm vui hồn tồn với mọi người và mọi
kiêng cữ khơng cịn nữa. Người ta ăn uồng, nhảy múa, trị chuyện.
Cịn thanh niên nam nữ thì hát đối đáp giao duyên... Ngày hôm sau,
người ta thịt heo, nhà giàu thì mổ trâu, đem rượu bày la liệt... Mọi
người cùng ăn uống với nhau, vui chơi nhảy múa suốt ngày.
Mặc dầu khá nhiều dân tộc ở Tây Nguyên có lễ bỏ mả, nhưng theo
nghiên cứu của chúng tơi, chỉ có lễ bỏ mả của hai tộc người Gia Rai
và Ba Na là lớn nhất, dài ngày nhất và cũng mang tính nghệ thuật
nhất. Vì thế, để hiểu rõ ý nghĩa "giải phóng" của nghi lễ độc đáo này
của Tây Nguyên
Công việc đầu tiên của lễ bỏ mả ở người Gia Rai và Ba Na là làm
nhà mả. Trước lễ bỏ mả mười ngày, thậm chí cả tháng trời, dân làng
lập ra những đội đi vào rừng đẵn gỗ, chặt tre, cắt cỏ gianh đem về
khu nghĩa địa. Gỗ được chặt về làm nhà mả đều là những gỗ tốt và
dược quy định từng loại dùng vào việc gì: các loại gỗ cứng được
dùng làm cột nhà mả, những loại gỗ mềm dùng để chạm khắc các
hình trang trí... Khi gỗ, tre, nứa đã dược đem về đủ, già làng phân
chia mọi người thành từng nhóm: nhóm đẽo cột, nhóm đẽo tượng,
nhóm làm khung nhà và nhóm phục vụ ăn uống. Làm nhà mả là
công việc của đàn ông. Phụ nữ chỉ tham gia phục vụ cơm nước cho
những người làm nhà mả. Công việc làm nhà mả được tiến hành
ngay tại khu nghĩa địa. Suốt ngày tiếng chặt gỗ, đẽo gỗ rộn vang cả
khu nghĩa địa gần làng.
Nhà mả to hay nhỏ, có tượng và cột trang trí hay khơng được quy
định bởi mức độ to nhỏ của lễ bỏ mả. Nếu lễ bỏ mả có ăn trâu thì
nhà mả sẽ có nhiều cột trang trí và tượng. Nếu lễ bỏ mả ăn bị thì số
cột trang trí và số lượng tượng ít đi... ngồi ra cịn tính them có cất
lầu hay ko.
Mặc dầu lễ bỏ mả của từng gia định như ở người Ba Na hoặc của cả
nhóm gia đình của người người Gia Rai (người Gia Rai có tục chơn
chung), nhưng việc làm nhà mả cũng như lễ bỏ mả bao giờ cũng là
công việc chung của cả làng. Gia chủ chỉ phải đóng góp một phần
để ni thợ và người làm nhà mả chứ khơng được tham gia làm.
Hình giáng, kiểu cách và các hình trang trí nhà mả đều do những
người làm nhà mả quyết định và đã được luật tục quy định.
Theo lời các cụ già người Gia Rai và Ba Na, trước đây, lễ bỏ mả rất
lớn và kéo dài tới bảy đến mười ngày trời. Cịn hiện nay do nhiều
hồn cảnh tác động tới (chủ yếu là do kinh tế không cho phép), lễ bỏ
mả của người Gia Rai và Ba Na không được lớn như xưa, nhưng
cũng kéo dài từ ba ngày hay nhiều tới bảy ngày. Dù được tổ chức ít
ngày hay nhiều ngày, song bao giờ lễ bỏ mả của người Gia Rai và
Ba Na cũng được tiến hành theo ba bước tuần tự như sau: dựng
nhà mả, làm lễ bỏ mả và làm lễ giải phóng cho người sống. Trong
ba bước hay ba nghi lễ chính vừa nêu trên, thì bước thứ hai hay nghi
lễ bỏ mả là chính yếu và quan trọng nhất. Vì thế mà cả người Gia
Rai và Ba Na đều gọi lễ bỏ mả là lễ ăn bỏ ma hay lễ ăn bỏ mả Một
điều khá kỳ lạ và lý thú là, tuy thuộc hai ngữ hệ khác nhau (người
Gia Rai thuộc ngữ hệ Mã Lai - Đa đảo, người Ba Na thuộc ngữ hệ
Môn - Khơme), thế mà hai tộc người Gia Rai và Ba Na lại có những
từ rất chung gắn với tang tục và lễ bỏ mả
Tuy mỗi nhóm tộc người Gia Rai và Ba Na tiến hành lễ tiên đưa hay
lễ bỏ ma hay lễ bỏ mả có khác nhau đôi chút , nhưng bao giờ cũng
gồm những nghi thức sau: người thân trong gia đình hay già làng
đọc bài cúng vĩnh biệt đối với người chết; lễ tiễn đưa linh hồn người
chết ra đi hẳn với tổ tiên.
Sau khi làm lễ tiễn đưa xong, về mặt hình thức mà nói, thì người
chết đã đi và người sống đã khơng cịn dính líu và ràng buộc gì với
người chết nữa. Thế nhưng để người thân thực sự được giải phóng,
dân làng và bà con họ hàng vẫn phải làm một nghi lễ: nghi lễ tẩy
rửa. Ngay khi lễ tiễn đưa người chết kết thúc, lập tức nhạc cồng
chiêng chuyển ngay sang những bài nhạc vui nhộn của đời thường
và mọi người đưa nhân thân của người chết ra sông hoặc suối tắm
rửa, gội đầu rồi mặc bộ quần áo mới cho họ. Những nơi xa nguồn
nước thì mọi người té nước vào những người thân của người chết.
Sau khi đã tắm rửa, thay quần áo mới cho những nhân thân của
người chết xong, mọi người đưa họ vào nhảy múa vui chung với dân
làng trong tiếng nhạc cồng chiêng vui nhộn. Theo từng bước nhảy,
sau mỗi tiếng nhạc, giọt nước mắt tiếc thương trên mặt những người
góa khơ dần và họ bắt đầu mỉm cười, nói chuyện vui vẻ với mọi
người. Thế là từ đây, thời kỳ để tang đã hết, người góa hồn tồn
được tự do, có thể lấy vợ, lấy chồng lại và có thể tham gia mọi cuộc
vui của bà con làng xóm.
Như vậy, có thể nói lễ bỏ mả là một lễ hội không chỉ mang tính nghệ
thuật cao mà cịn đầy chất nhân văn: tái sinh cho người chết và giải
phóng cho người sống. Chất nhân văn còn được thể hiện rất linh
động trong những trường hợp, do chôn chung nên phải sau nhiều
năm mới làm lễ bỏ mả được (chủ yếu ở người Gia Rai). Trong
những trường hợp này, theo phong tục, từng gia đình vẫn có thể làm
lễ bỏ mả riêng (lễ bỏ mả nhỏ) trước khi có lễ bỏ mả chung để được
giải phóng khỏi mọi ràng buộc với người chết
Tính biểu tượng trong lễ bỏ mả của người Jrai
Như chúng ta biết, các nghi lễ nông nghiệp của người Jrai và của
các tộc người khác trên Tây Nguyên gắn liền với chu kì thiên nhiên,
với sự vận hành của mặt trời và mặt trăng và tinh tú. Thời gian cử
hành các hình thức cúng lễ trong gia đình, trong cộng đồng luôn
thuận theo sự vận hành của thời tiết, của vụ mùa. Trong các nghi
thức cúng tế, lễ hội trong thời gian này, lễ bỏ mả (pơthi) được người
Jrai chuẩn bị lâu dài, tổ chức trang trọng và hồnh tráng nhất.
Theo lịch nơng nghiệp dân gian, tháng neng nong của người Jrai bắt
đầu từ cuối mùa gặt lúa rẫy, khoảng đầu tháng 12 dương lịch kéo dài
đến tháng 4 khi cơn mưa đầu mùa đến. Tháng neng nong được coi
như thời gian nghỉ ngơi cho người và cho đất, là mốc thời gian kết
thúc vịng quay mùa nơng nghiệp cũ để bước sang mùa mới. Như
chúng ta biết, các nghi lễ nông nghiệp của người Jrai và của các tộc
người khác trên Tây Nguyên gắn liền với chu kì thiên nhiên, với sự
vận hành của mặt trời và mặt trăng và tinh tú. Thời gian cử hành các
hình thức cúng lễ trong gia đình, trong cộng đồng ln thuận theo sự
vận hành của thời tiết, của vụ mùa. Trong các nghi thức cúng tế, lễ
hội trong thời gian này, lễ bỏ mả (pơthi) được người Jrai chuẩn bị
lâu dài, tổ chức trang trọng và hoành tráng nhất.
Pơthi trong huyền thoại
Trong kho tàng truyện cổ dân gian, nghi thức bỏ mả được người Jrai
truyền kể từ rất lâu đời. Các câu truyện kể Jrai xưa không phải đơn
thuần là những ngụ ngơn mà là những huyền thoại chính cống.
Chúng là đối tượng của tín ngưỡng chung và là nguồn sáng tạo ra
các nghi thức tế cúng trong cộng đồng người Jrai. Tư tưởng tín
ngưỡng, niềm tin vào vạn vật hữu linh được truyền khẩu từ thế hệ
này sang thế hệ khác và được biểu hiện qua các nghi thức thờ cúng,
không phải bằng khái niệm nhưng bằng biểu tượng.
Trước lễ bỏ mả, hằng ngày người thân phải thay cơm mới, bỏ nước
mát cho người chết , hằng tháng phải đến uống rượu nơi nhà mả
cùng hồn ma . Lễ bỏ mả kết thúc giai đoạn quan hệ gắn bó giữa
người sống và người chết. Sau nghi thức này người đàn ơng gố vợ,
người đàn bà gố chồng được tự do tái giá, những bổn phận chăm
sóc mả, những ràng buộc với người chết được luật tục bảo vệ một
cách nghiêm ngặt cũng chấm dứt từ đây.
Người Jrai kể:
“Một gia đình nọ có con chết. Sau nhiều năm tháng người cha nhớ
thương con, ông lên đường băng rừng núi về hướng mặt trời lặn tìm
thăm con. Trong thời gian ơng đi người vợ ở nhà qua đời. Dân làng
bà con chôn cất người đàn bà bên cạnh mồ của con. Trong rừng sâu
hoang vắng người chồng đang đi bỗng thấy vợ và con mình, ơng hỏi
bà:
Sao bà lại đến đây? Bà cũng đi tìm con hả?
Người chồng vui mừng dẫn vợ con cùng về nhà. Nhưng khi đi
ngang qua khu nhà mả ông không thấy vợ con đâu nữa. Ơng loay
hoay tìm kiếm, sau cùng khi đến bên mả con mình ơng thấy có con
quạ đậu trên đó kêu “quạ... quạ... quạ... chúng tơi đã chết rồi”.
Người đàn ơng buồn rầu ngồi khóc. Tiếng vợ ông nói:
Nếu ông thương mẹ con tôi hãy đem cơm nước cho chúng tôi hàng
ngày. Mỗi tháng cùng đến đây uống rượu với chúng tơi một lần. Sau
đó ơng đan cho chúng tôi thúng to, nia nhỏ, chày cối giã gạo, khung
dệt và giết trâu bỏ mả, chúng tôi sẽ đi nơi khác sống.
Từ ngày ấy người Jrai có tục lệ đem cơm nước nuôi hồn người chết.
Sau vài ba năm họ làm lễ bỏ mả”.
Câu chuyện kể trên đưa chúng ta đến một sự sống khác sau cái chết
của con người. Trong thế giới mới, các cư dân nơi đó cũng có những
nhu cầu, những cơng việc thường ngày giống như thế giới người
sống và nhất là họ cũng “chết”. Xứ sở của các hồn ma người chết là
phiên bản của đời sống con người . Trong rất nhiều truyện kể, dưới
mắt những hồn ma người chết, người sống là những con chim và
ngược lại cũng như thế. Người Jrai tin rằng thế giới đó hồn tồn
trái ngược với thế giới con người. Bên này là ngày, bên kia sẽ là
đêm. Bên này trắng, bên kia đen. Bên này bể hư, bên kia lành
nguyên. Bên này giả, bên kia thực .Niềm tin có một thế giới khác
cho người chết của người Jrai giải thích những biểu tượng trong
phong tục, trong nghi thức cúng tế, và trong những ràng buộc của họ
với các hồn ma bên kia thế giới người sống.
Tượng nhà mồ và những ngôi mả mới
Bừng sáng và rõ nét nhất trong ngày lễ bỏ mả là hình ảnh những trụ
tượng được đẽo gọt dựng đứng chung quanh ngôi nhà mả mới làm.
Trước khi vào lễ khoảng 15 ngày, gia đình có người thân chơn đầu
tiên trong ngơi mả sắp bỏ tìm mời những nghệ nhân trong làng hoặc
ở các làng lân cận đến đẽo gọt tượng. Người nghệ nhân nhẩn nha
nhìn những súc cây nằm ngang dọc do những người đàn ông đốn
chặt từ rừng đem về. Khn mặt ơng mờ nhạt trong khói thuốc bốc
lên từ chiếc tẩu tre luôn ngậm trong miệng, ông thả hồn theo hình
dáng của những súc cây, nương theo làn khói thuốc đắm chìm trong
một thế giới khác để sau đó vung rìu đẽo chặt những nhát thật chính
xác. Hình dáng và kiểu cách của những cột tượng do ơng hồn toàn
chọn lựa và quyết định. Sau khi những tác phẩm đã hoàn thành,
người nghệ nhân bỏ chúng nằm ngổn ngang dưới gốc cây đa cổ thụ
với những tán lá dài sần sùi như những cánh tay người chết với về
quá khứ của mình. Trong thời gian người nghệ nhân cặm cụi với
những khúc cây, những gia đình có người chơn trong huyệt mả
chung lo cơm nước và thuốc hút cho ông. Khi xong việc họ tặng ông
một gùi gạo nhỏ, hoặc một tấm vải làm khăn đắp, một ít thịt chuột
sấy khơ, hoặc một lưỡi rìu...
Song song với việc khắc tượng, dân làng, bà con họ hàng những
người chôn chung trong huyệt mả cùng giúp dựng những ngôi nhà
mả mới với tất cả sự chăm chút và tỉ mỉ. Khi công việc đã xong, họ
làm hàng rào bao che quanh nhà mả bằng những khúc cây tròn cao
cách đất khoảng 1m. Xen kẽ giữa những súc cây chôn đứng là
những cột tượng do người nghệ nhân kia đã đẽo gọt. Hoa văn trang
trí, cột tượng, hình dáng ngơi nhà mả mới khác biệt tuỳ theo từng
vùng người Jrai và từng tộc người khác nhau. Với người Jrai hình
ảnh con chim rất được ưa chuộng. Bốn trụ tượng chim hạc đứng gần
nhau bốn góc kết nối bằng những đoạn cây gỗ ngắn tạo thành một
bệ dâng đồ cúng rất trang nghiêm. Bốn góc dựng đứng vươn cao,
bốn trụ tượng ngồi ơm mặt. Với cộng đồng người Bahnar hình
tượng con người được mô phỏng với mọi tư thế làm việc trong đời
thường: giã gạo, chọc lỗ tỉa lúa, săn bắn... và những hình tượng
miêu tả quan hệ tình dục, phơ trương dương vật, âm vật được đẽo
khắc nhiều hơn những nơi khác. Ngồi những hình tượng khác nhau
ấy, tượng người ngồi ơm mặt có mặt khắp mọi nơi, trong tất cả các
nghĩa trang của người Jrai. Kra kom có nghĩa là “khỉ ngồi chờ ăn”.
Người chồng đi xa để vợ ở nhà cùng với em trai của mình. Trong
thời gian chồng đi vắng, người vợ hằng ngày lên nương làm lụng
cùng em chồng. Ngày nọ chỉ có một mình nàng đi làm, khi đi ngang
đoạn đường vắng nàng bị một con khỉ đột nhào ra tấn cơng và hãm
hiếp. Sau đó ít lâu nàng biết mình có thai nhưng khơng biết là con
của khỉ hay của chồng. Nàng kể lại mọi chuyện cho chú em chồng
nghe và có ý định phá thai. Chàng thanh niên khuyên nhủ nàng đừng
làm như thế và hứa sẽ giải thích cho anh mình nghe. Một thời gian
sau nàng sinh hạ hai đứa con trai, hình dáng chúng nửa giống người
nửa giống khỉ. Nàng muốn giết chúng nhưng người em chồng can
ngăn khơng cho. Khi hàng hố đã đổi bán xong người chồng quay
về nhà. Khi ấy trong nhà chỉ có hai đứa bé đang chơi với nhau.Thấy
có hai đứa bé trong nhà, người chồng sinh nghi vợ mình đã ngoại
tình cùng em mình, ơng ta mài gươm thật bén chờ đợi để trừng phạt
cặp tình nhân. Hai chú bé thấy có người lạ vào nhà và đánh rượt
chúng, sợ hãi hai đứa bỏ chạy trốn vào rừng. Chiều đến người vợ và
chú em chồng về đến nhà, vừa bước vào họ đã bị người chồng lia
nhanh thanh gươm giết chết. Giết xong hai mạng người anh chồng
bỏ xứ đi thật xa. Dân làng hay tin cùng nhau chôn cất hai xác chết.
Trong khi đó hai đứa bé khơng dám xuất hiện, khi người ta đã chôn
cất mẹ chúng xong xuôi, hai anh em mới dám lén bị đến mộ mẹ
ngồi khóc. Chúng khóc từ ngày này sang ngày khác và cùng chết đói
bên mộ mẹ trong tư thế ngồi chờ cho ăn và nhớ thương mẹ. Từ đấy
người Jrai luôn đẽo khắc tượng kra kom trồng bốn góc khu nhà mả
trong dịp lễ bỏ mả.
Tượng nhà mồ khơng chỉ có trong cộng đồng người Jrai, chúng có
mặt ở rất nhiều nơi trong các cộng đồng dân tộc khác trên Tây
Nguyên, nơi các cộng đồng các tộc người trong quần đảo Salomon,
nơi các bộ lạc ít người ở Indonésia, ở Mã Lai... với nhiều hình dáng,
kiểu cách khác nhau. Người ta chế tạo những khung dệt bằng tre cây
thu nhỏ, những dụng cụ làm rẫy cũng bằng tre cây, bẫy bắt thú, ống
điếu, gùi, nồi, chén... Tất cả được sắp xếp gọn gàng trên nấm mồ
cùng với cơm mới, thịt nóng, nước mát. Bên ngoài là những cột
tượng vừa biểu trưng cho sự chia li với người chết vừa là một thông
báo cho cộng đồng: nhà mả này đã được bỏ. Ngôn ngữ điêu khắc
các tượng lễ như nhắc nhở với người chết rằng từ nay sẽ khơng cịn
ai đến khóc thương chăm lo cho họ nữa, hồn ma đừng thương con
nhớ vợ, đừng về quấy phá người thân vì cuộc sống hai bên nay đã
hoàn toàn khác biệt. Người chết phải sống chung với người chết,
phải tự tìm của ăn nước uống cho mình. Điều đáng chú ý là trong
những của chia cho người chết có một con gà con mới nở. Một sự
sống duy nhất trong của dâng cúng. Hình ảnh này tượng trưng cho
một sự sinh nở sau thời gian dài mang thai nay đã kết thúc. Hiểu
một cách khác, thời gian hồn ma sống trong nhà mả được cưu mang,
lo lắng, ni dưỡng bởi người sống được ví như thời gian một bào
thai được cưu mang trong bụng người phụ nữ, như thời gian con gà
con hình thành trong vỏ trứng. Tất cả nay đã viên mãn và kết thúc,
quả trứng đã là một con gà sống với đủ mọi khả năng tự mưu sinh
cho mình. Hồn ma người chết cũng sẽ tái sinh trong một cuộc sống
mới.
Với người Jrai, hình tượng chim hạc là hình ảnh âu yếm, đùm bọc,
nuôi dưỡng, lo toan của người mẹ, người phụ nữ.
Theo truyền thuyết Jrai ngày xưa bà già Rừng đi xúc cá và thấy một
quả trứng to trôi theo dòng nước. Bà đem quả trứng về bỏ vào ghè.
Sáng ngày hôm sau quả trứng nở ra một con chim hạc con xinh xắn.
Bà già Rừng chăm nuôi con chim nhỏ rất cẩn thận. Vài hôm sau, khi
đi xúc cá bà gặp chim hạc mẹ vừa đi vừa khóc. Chim mẹ hỏi tất cả
cư dân sống quanh bờ suối ai đã thấy quả trứng con của nó đã thất
lạc. Không ai biết. Khi gặp bà già Rừng, chim mẹ vui mừng khôn
xiết khi hay tin quả trứng của mình nay đã thành một con chim con.
Chim mẹ đưa con về rừng. Từ ngày hôm ấy, sáng nào bà già Rừng
cũng thấy có vài con cá trước hiên nhà do chim mẹ đem đến biếu bà.
Một thời gian sau bà già Rừng qua đời, người làng cùng nhau giúp
chôn cất bà già nghèo khổ cô đơn. Dân làng ngạc nhiên vô cùng khi
thấy trên nấm mồ của bà sáng nào cũng có vài con cá. Người ta rình
xem và biết chim hạc mẹ đem đến nuôi hồn ma bà già nghèo khổ
đơn chiếc. Từ ngày ấy người ta đẽo khắc tượng chim hạc trồng bên
nhà mả trong ngày bỏ mả với ước mong hồn người chết luôn no đủ.
Bà già Rừng hay chim hạc mẹ là hình ảnh biểu tượng của người mẹ,
của sự âu yếm, của sự sinh nở. Chim hạc cũng là loài chim kiếm ăn
về đêm, thuộc thế giới do mặt trăng soi sáng, thế giới của người
chết. Hiểu cách khác hai nhân vật là một. Mẹ/đất/chim.
Cụm tượng lễ được thổi vào một luồng sinh khí thần bí qua những
lời thương khóc của người thân bên trong ngôi nhà mả. Trong tiếng
chiêng rền vang bên ngồi, tiếng cười nói la hét, người sống tâm sự,
tỉ tê với hồn người chết lần cuối trước khi cắt đứt mọi ràng buộc.
Người sống gởi gắm hồn người thân cho đất đỏ phía dưới, cho đất
đen ở trên. Họ nhắn gởi cho sao trời, cho mặt trăng đùm bọc chăm
sóc hồn người chết. Một chi tiết khác đáng chú ý là màu sắc trang trí
các vật dụng chia cho hồn ma và ngơi nhà mả mới. Chúng được
trang trí, vẽ bằng nhiều màu đỏ. Màu đỏ, theo người Jrai, là màu của
thế giới hồn ma. Họ sẽ sống trong đất đỏ. Họ ăn cơm màu đỏ.
Thường ngày, theo phong tục người Jrai không dám cầm hoặc đụng
đến hoa trang rừng có màu đỏ rất tươi đẹp khi mặt trời sắp lặn. Vì
sau khi mặt trời lặn, thế giới của các hồn ma sẽ là ngày, thời gian bắt
đầu các sinh hoạt của cư dân nơi đây. Màu đỏ sẽ thu hút các hồn ma
tới sẽ gây nên bệnh tật, đau ốm cho người cầm nó. Màu đỏ hồng
trong cầu vồng là dấu hiệu của tai ương bệnh tật, của sự ô uế và của
sự chết. Khi người thầy cúng soi lữa tìm bệnh cho một người, nếu
thấy màu đỏ ửng hồng của cầu vồng là dấu hiệu nguy cơ tử vong rất
cao. Các vật dụng nhỏ bằng gỗ tre, chiếc bầu chứa nước trong nhà
mả được cột treo, trang trí bằng những chùm chỉ đỏ dấu chỉ chúng
thuộc về hồn ma. Sự kiện này hoàn toàn trái ngược với khi người ta
cột vào cổ tay em bé sơ sinh một sợi chỉ trắng để giữ em lại trong
thế giới người sống.
Cuối cùng, khi những giọt sương nửa đêm đã trịn trĩnh hình thành
trên những phiến lá rừng: thiên nhiên, vũ trụ, trai gái, trẻ già như vỡ
tan hồ lẫn với nhau trong một ngơn ngữ chung: chu kì mới, sự sống
mới. Trai gái đưa nhau tìm nơi thanh vắng riêng tư nhường lại
không gian quanh nhà mả cho những người lớn tuổi. Khác với sự ồn
ào, rộn rã của tiếng chiêng trẻ, trong sự tĩnh mịch lạnh lẽo của nửa
đêm chờ sáng, những nhịp chiêng khoan thai nhẹ nhàng nhưng vững
chắc, lịch lãm của những người lớn tuổi như vẽ thêm lên bức tranh
“chu kì sự sống” những nét chấm phá cuối cùng. Khi chân trời phía
đơng ửng hồng báo hiệu ngày đang đến, những bài chiêng đâm trâu
ngân vang, những tiếng ò... ò... tắt nghẹn trong cổ các con vật hiến
sinh bị đâm vào tim làm giật mình thức giấc những giọt sương đọng
trên những trụ tượng quanh nhà mả, nhắc nhở chúng đoạn đường
cuối cùng của cuộc hành trình sắp kết thúc.
Lễ bỏ mả của người Ê đê
Người Eđê khơng có tục thờ cúng tổ tiên, thương tiếc, họ chỉ giữ gìn
mồ mã trong một thời gian (Tục giữ mã. Trong thời gian sau tang lễ
thân nhân phải mang cơm rượu đổ vào ống ở mộ. Mỗi tháng một lần
họ lại tổ chức cúng vong hồn người chết đến khi làm lễ bỏ mã mới
thôi). Rồi mới tiến hành làm lể bỏ mã để vĩnh biệt người quá cố và
không bao giờ nhắc đến nữa… Nói các khác, lễ bỏ mã là sự tuyên
bố đoạn tuyệt giữa người sống và người chết. Sau lễ này linh hồn
mới được với tổ tiên.
Lễ bỏ mã là trong những lễ quan trọng của người Eđê. Được tiến
hành long trọng như tang lễ. Thời gian làm lễ bỏ mã sớm nhất là
một năm, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của thân nhân người chết.
Nghĩa là lúc nào có đủ rượu, gạo, thịt dâng cúng từ hai đến ba ngày
mới tổ chức được. Chủ xướng lễ bỏ mã có là một gia đình, một
dịng họ, có khi cả bn. Nhà giàu dịng họ lớn thì mổ nhiều trâu bị,
buộc nhiều ché rượu. Nhà nghèo thì cũng phải đủ rượu thịt để cung
cấp ăn uống và chia phần cho những người dự lễ.
Nghi thức chính của lễ bỏ mã được diễn ra ở khoảng đất rộng của
nghĩa địa. Thanh niên lên rừng chặt cây làm nhà mồ mới, dựng cột
kút, cột klao mới (chỉ có người chết là nhà giàu và trưởng thành mới
được dựng cột klao) Trâu, bò, heo được xẽ thịt ngay tại chỗ, rượu
cần được dựng thành hàng quay về hướng Đông, bên cúng cúng
được dưng bằng tre nứa trên đó bày những lễ vật cúng cho người
chết gồm có một chén cơm trắng, một chén thịt sống thái nhỏ trộn
tiết của con vật vừa được bị giết cùng với một mẫu đuôi, một chiếc
xương đầu và bầu rượu được hút ra từ ché rượu. Xương hàm dưới
con vật bị giết cũng được treo ở cột klao. Khi đã hoàn tât lễ cúng,
thầy cúng mặc lễ phục nghiêm chỉnh, ngòi bên ché rượu thịt và nghe
lời đoạn tuỵêt an ủi của người sống.
Trong buổi lễ này người ta thả con gà nhỏ vào rừng để tượng trưng
linh hồn khơng cịn bị các thần giam hăm nữa để về với tổ tiên. Kết
thúc buổi lễ, các bà các cô lại gieo lên mộ những hạt giống ngũ cốc
và trồng một cây chuối ở đầu mồ làm nguồn lương thực cho người
chết ở thế giới bên kia.
Sau buổi lễ, mọi người cùng uống rượu, ăn thịt ngay bên mộ. Tiếng
trống nổi lên rộn rả. Lửa được nhóm lên, mọi người vui vẽ ăn uống,
nhảy múa và thò chuyện. Nam nữ hát đối đáp giao duyên, người già
khề khà uống rượu, trò chuyện cho đến khi thịt hết, rượu lạt họ mới
trở về làng.
Ý nghĩa nhân văn của lễ bỏ mả:
Người Eđê quan niệm rằng về người chết cúng như về thế giới của
người chết, cũng có sinh thử buồn vui như nguời sống. Theo quan
niệm này thì có người vừa mới chết đi linh hồn sẽ lìa khỏi xác, bơ
vơ khơng thể về “bn làng người sống” với họ hàng, nhưng cũng
không về được với “buôn làng tổ tiên” . Hồn vẫn bị ràng buộc quanh
mộ đại vị người sống vẫn đem cơm cúng (tục giữ mã). Quanh mộ
địa hồn thường bị hồn của quỹ dữ hành hạ. Chỉ khi làm lễ bỏ mã,
hồn mới được tự do về sống ở bn. Sau đó hồn phải biến hoá qua 7
lần để thần giọt sương mang linh hồn tổ tiên treo lại trên mặt đất
nhập vào đứa trẻ sơ sinh là con cháu dòng máu – của hồn trong lễ
đặt tên. Đứa trẻ lấy tên của hồn (tức là tổ tiên) làm tên mình đảm
bảo tính trường tồn và bền vững của cộng đồng huyết tộc.
Có thể hiểu theo tinh thần lạc quan của người Edê rằng, qua quá
trình luân chuyển của hồn trên mặt đất, hồn của tổ tiên (người chết ở
một giai đoạn nào đó) sẽ hiện diện trên mặt đất, lại trở về cõi sống
nhận dạng một thần viên mới của cộng đồng Eđê, dịng họ sẽ khơng
bị mất tên tổ tiên, tăng sức mạnh cho cộng đồng. Lễ bỏ mã chính là
lễ đoạn tuyệt với người chết, để linh hồn người chết mau về với tổ
tiên “ngày gặp mặt” mau tới hơn. Lễ bỏ mã cịn mang tính nhân đạo
cao cả và tinh thần cộng đòng sâu sắc.
Bỏ mả: người sống làm trịn nghĩa vụ với người chết.
Bỏ mả: người gố bụa lại trở thành hạnh phúc cá nhân (được
quyền lấy chồng hay lấy vợ). Vì vậy lễ bỏ mã làm thoả mãn với
người sống, thoả mãn với người quá cố, thoả mãn cộng đồng nên
phải tổ chức tưng bừng, náo nhiệt vui vẽ. Với ý nghĩa xã hội,
triết lý nhan sinh của lễ bỏ mã, bằng lối suy nghĩ duy lý, bằng
sức mạnh rí tưởng tượng, bằng nguyện vọng sâu sắc của ý thức
cộng đồng muốn khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của dòng họ và
cũng là của cộng đồng.
Cà răng căng tai
Các dân tộc Cơtu, Tà Ơi, M'nơng, X'tiêng, Mạ, Bahnar, B'râu,
Rmăm... cư trú ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên có tập tục
trang trí trên cơ thể như tục cà răng căng tai. Theo qua niệm
xưa của họ, ngoài ra chức năng làm đẹp, nó cịn là dấu hiệu của
con người trưởng thành trong cộng đồng.
Tục cà răng
Trong các sử thi cổ sơ của người M'nơng, những "nàng kiều" có sắc
đẹp khiến các chàng dũng sĩ đem lòng mê say như Kong, Binh,
Jong... điều có nụ cười giịn như "tre nổ" và hàm răng "nhọn như gai
mây". Theo quan niệm của đồng bào, người nào khơng cà răng
là xấu xí, bị người đời chê cười, con trai không lấy được vợ, con
gái không lấy được chồng. Người M'nông cà, cắt bốn cặp răng cửa,
chỉ còn lại chân răng, sát với nướu, hàm phía dưới vót thật nhọn.
Việc cà, cắt răng bằng cách dùng đá mài cho răng ngắn dần hoặc
dùng dao sắc xén từng miếng mỏng. Khi cà, cắt răng chân răng bị
động nên chảy máu nhiều hai hàm răng bị sưng cả tuần lễ, khơng
ăn được gì, chỉ húp cháo. Với người M'nông và một số tộc người
khác, cà răng phải làm đúng vào tuổi đã trưởng thành, phải mọc
đủ 32 cái răng và trễ nhất là ở tuổi hai mươi trước khi cưới vợ gả
chồng.
Cây krai phơi khô, đem đốt một đầu rồi cạ vào thanh sắt cho ra một
ít nhựa màu đen có vị cay. Sau đó dùng nhựa này hòa với tro củi, rồi
dùng que nhỏ đầu có quấn bơng gịn thấm nhựa krai vào và phết vào
răng. Răng vừa cà xong dùng nước muối súc miệng cho sạch và phết
thêm nhựa cây vào chân răng. Một tháng chỉ phết nhựa krai một lần,
chất krai đã dính chặt vào răng, biến thành một màu đen rất đặc
trưng.
Vì thế, những năm trước đây, con gái Mạ, M'nông, X'tiêng ở những
vùng sâu, vùng xa khơng cà răng vẫn khó lấy chồng. Đây là động
lực thúc đẩy thanh niên can đảm làm lễ thành đinh.
Tập quán căng tai
Nhiều tộc người ở Trường Sơn - Tây Nguyên, việc cà răng phải đi
liền với căng tai. Để đeo được những đôi bông bằng ngà hoặc bằng
nứa, đồng bào phải căng lỗ dái tai rộng ra. Họ thường dùng gai cây
chanh để xỏ lỗ tai, dùng nước xôi nấu gừng bóp dái tai cho thật mềm
trước khi xỏ. Phải xỏ ngay chính giữa dái tai, nếu xỏ khơng vào
chính giữa, sau này tai căng ra không được to. Xỏ gai nhọn xuyên
qua xong, cứ để nguyên cây gai dính vào tai, mỗi ngày phải tiếp tục
rửa tai bằng nước xôi nấu gừng. Khi tai hết chảy máu và vết thương
đã thật lành, họ bắt đầu vặn cây gai, mỗi ngày chỉ vặn một lần cho
đến khi đầu to cây gai lọt qua được. Người ta lại vót cây khác to
hơn. Cứ làm như thế lỗ tai ngày càng căng to ra. Có người cố căng
lỗ tai cho to làm "dây tai" bị đứt luôn. Khi đứt phải nối lại rất khó
khăn. Chỉ có một số ít người biết nối "dây tai". Người ta nối "dây tai
" bằng cách dùng dao thật bén rạch xé hai đầu "dây tai", đem hai
mối dây dái tai đã rạch ghép lại với nhau, lấy sợi chỉ quấn lại, dùng
nước sôi nấu gừng rửa hằng ngày, cứ để vậy cả tháng là lành và vài
tháng sau có thể đeo vịng trở lại được.
Những người giàu có, khá giả thường đeo cặp bơng tai làm bằng ngà
voi. Họ dùng hai mẩu ngà voi làm đôi bông tai kéo đơi tai dài đến
tận gị má, đơi khi gần đến vai. Đàn ông, đàn bà dân tộc M’nông,
Mạ, X'tiêng... đều thích đeo bơng tai ngà voi. Đặc biệt khi tiếp
khách, đi thăm họ hàng, bạn bè, đi dự lễ hội... phải đeo cặp ngà để
cho thêm phần sang trọng. Vì thế một đơi bơng tai ngà voi trị giá
bằng một con trâu có sừng dài một hăt (đơn vị đo chiều dài của
người M'nơng, được tính từ cùi chõ đến ngón tay giữa khi được duỗi
thẳng) hoặc là một chiếc ché cổ. Người giàu thì đeo ngà voi, cịn
người nghèo thì chỉ đeo khúc cây hoặc đeo đơi bông ngà voi giả làm
bằng củ sắn phơi khô.
Khuyên tai của người Cơtu thường được làm bằng đồng và nhiều
chất liệu khác như tre, nứa, gỗ... Theo quan niệm của đồng bào, lỗ
tai to, rộng, trái tai dài thì mới được coi là đẹp. Vì thế, người ta
thường đeo nhiều vòng, khuyên tai loại lớn, nặng bằng bạc, đồng,
xương... để kéo dài lỗ tai xuống. Đồng bào thường đeo hoa tai
những lúc rảnh rỗi, khi đi đường hoặc dự lễ hội buôn làng. Khi lao
động nương rẫy nặng nhọc phải tháo ra cất. Những chiếc vòng đeo
tai hằng ngày phải được rửa sạch và đánh bóng. Khi đánh bóng, lau
chùi khơng được để ngun trên lỗ tai vì luật tục M'nơng có quy
định "Đánh đứt dây tai phải đền một voi, đánh mù mắt phải đền một
nô lệ".
Những người Kinh cà răng căng tai
Ở miền tây Quảng Nam, người ta còn nhớ đến nhiều huyền thoại,
nhân chứng từng một thời “ba cùng” với bà con miền núi để hoạt
động cách mạng, Kẻ thù cũng biết rằng rừng núi là nơi “Việt cộng”
nằm vùng nên ra sức thực hiện chiến dịch “thượng du vận”, tăng
cường đánh phá, lùng sục, quyết trục cán bộ người Kinh để tiêu diệt.
Và những người bám trụ chẳng những giống về sắc thái mà cịn
mang tâm hồn, tình cảm của người miền núi như Ca Dong, Co,
Cơtu, Xơ Đăng... Từ đó, đồng bào được giác ngộ và thấy “cán bộ
người Kinh cũng là người của mình”, khơi dậy truyền thống đoàn
kết dân tộc, đoàn kết Kinh - Thượng.
Cách trang phục, trang sức truyền thống là yếu tố đầu tiên giúp cho
cán bộ cách mạng tạo được diện mạo bề ngoài giống với người bản
địa nên được vận dụng triệt để. Họ bắt chước đồng bào đóng khố,
mình trần, “cà răng căng tai”, ăn trầu, để tóc dài, tay cầm đong và
lưng đeo tà-léc, nói tiếng dân tộc thạo hơn tiếng mẹ đẻ. Hoạt động ở
địa bàn miền núi Quảng Nam chẳng những nổi tiếng về sự gan dạ
mà còn tài tình về sự “mai danh ẩn tích” để che mắt địch. Vì ngun
tắc bí mật của cơ sở nên ông luôn cảnh giác, không để cho bất kỳ ai
biết được “chân dung đích thực” của mình, ngay cả người thân.
Kiểu làm đẹp bằng cách cà răng căng tai tồn tại một thời gian dài
trong lịch sử. Ngày nay, tập tục đó chỉ cịn thấy ở người già. Thanh
niên trai tráng không cà răng căng tai nữa, họ giữ bộ răng trắng để
làm duyên như người Kinh và xỏ lỗ tai vừa đủ để đeo khuyên tai,
làm đẹp cho mình.
Tục cà răng căng tai
Đến thăm Tây Nguyên các bạn thường trông thấy những người đàn
ông và phụ nữ các dân tộc làm đẹp bằng cách cưa răng cửa và căng
vành tai cho thật lớn. Đây là một tục lệ có từ lâu đời được "truyền tử
lưu tôn" qua nhiều thế hệ.
Theo quan niệm của các dân tộc Tây Nguyên, việc cà răng căng tai
là để gái trai đến tuổi cập kê tiến đến hôn nhân một cách thuận lợi.
Theo phong tục của đồng bào Tây Nguyên, một người đẹp không
phải là có hàm răng đều đặn, trắng ngà mà là hàm răng phải được
mài nhẵn cho đến tận lợi. Thông thường họ chỉ làm cụt ở hàm trên
thơi, cịn hàm dưới không cần mài cả hàm mà chỉ mài bốn hay sáu
cái là đủ.
Thanh, thiếu niên Tây Nguyên, dù là dân tộc Ba Na, Xơ Đăng, Mơ