Buổi thảo luận thứ năm:
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG
VẤN ĐỀ 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng
hợp đồng gây ra
Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
theo pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong Bộ luật Dân sự 2015 so
với Bộ luật Dân sự 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng.
Trả lời:
* Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh
do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại nên phải bồi thường thiệt hại
đã gây ra cho phía bên kia1. Luật thương mại Việt Nam quy định rất rõ các că cứ (điều
kiện) phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng2.
Cụ thể, theo Điều 303 Luật thương mại 2005: “Trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh
khi hội đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”.
Theo pháp luật Việt Nam, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng là “bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ ”.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015.
* Những thay đổi trong Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm
2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2005 đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên quy định vừa nêu không đưa ra căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ, mà chỉ đề cập đến hai loại trách
nhiệm. Đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và về tinh thần. Nói cách
1
Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4, tr.326-327.
2
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
2018 (Xuất bản lần thứ bảy), Bản án 192-195, tr.476.
3
khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa rõ về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và việc bổ sung quy định là cần thiết.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung Điều 360: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm nghĩa vụ: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có
nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác”.
Hướng sửa đổi đối với vấn đề nêu trên trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là hoàn
toàn thuyết phục và sẽ là cơ sở pháp lý rõ ràng để Tòa án áp dụng giải quyết các tranh
chấp trong thực tiễn xét xử về nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
Câu 2: Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của
bà Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì sao?
Trả lời:
Trong tình huống trên, có việc xâm phạm đến yếu tố nhân thân của bà Nguyễn.
Cụ thể là Ông Lại (bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ) đã không thực hiện đúng thỏa thuận
với bà Nguyễn khi tiến hành phẫu thuật, ông đã đụng tới núm vú của bà Nguyễn và
kết quả bà Nguyễn đã bị mất đi núm vú.
Cơ sở pháp lý: Điều 333: Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khỏe, thân thể
“1. Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể,
quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.
…
3. Việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ
thuật, phương pháp khám, chữa bệnh mới trên cơ thể người; thử nghiệm y học, dược
học, khoa học hay bất cứ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được
sự đồng ý của người đó và phải được tổ chức có thẩm quyền thực hiện”.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ:
Thứ nhất, có hành vi vi phạm hợp đồng: Ơng Lại đã khơng thực hiện đúng theo
thỏa thuận phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu của bà Nguyễn đó là ơng đã đụng đến núm
vú của bà Nguyễn.
Thứ hai, có thiệt hại thực tế: Núm vú bên phải của bà Nguyễn sưng lên, đen
nhám và cuối cùng bà phải cắt bỏ núm vú.
3
Điều 33 Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại:
Chính vì ơng Lại không thực hiện đúng thỏa thuận, đúng đến núm vú của bà khi phẫu
thuật nên mới dẫn đến việc bà Nguyễn bị mất núm vú bên phải.
Câu 3: Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm
hợp đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời
Trả lời:
Đối với thiệt hại được bồi thường trong hợp đồng, chúng ta đều thống nhất rằng
thiệt hại về vất chất được bồi thường4. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật
chất sau do hợp đồng gây ra được bồi thường: tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Theo đó người có quyền phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra5.
Trong vụ việc của bà Nguyễn, thì bà đã mất tiền để phẫu thuật ngực nhưng lại không
thành công.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Thiệt hại về vật
chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí
hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút”.
Câu 4: Bộ luật Dân sự có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần
phát sinh do vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Đối với thiệt hại (tổn thất) về tinh thần, đây là vấn đề có tranh cãi và tồn tại một
quan điểm khá phổ biến là loại thiệt hại này không tồn tại hay không được chấp nhận
trong lĩnh vực hợp đồng. Thực ra, tổn thất về tinh thần hồn tồn có thể tồn tại xuất
phát từ việc không thực hiện đúng hợp đồng6. Bộ luật Dân sự hiện hành có cho phép
bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần phát sinh do vi phạm hợp đồng. Thiệt hại về
tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể. Theo u cầu của
người có quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường khoản thiệt hại này.
Như vậy, nhìn từ góc độ văn bản, tổn thất về tinh thần trong lĩnh vực hợp đồng cũng
được bồi thường và thực tiễn cũng theo hướng này.
Cơ sở pháp lý: Điều 361: Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
4
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
2018 (Xuất bản lần thứ bảy), Bản án 192-195, tr. 491.
5
Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4, tr.339.
6
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
2018 (Xuất bản lần thứ bảy), Bản án 192-195, tr. 491.
5
“1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về
tinh thần.
…
3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”.
Câu 5: Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về
tinh thần khơng? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo quy đinh hiện hành, bà Nguyễn được bồi thường tổn thất về tinh thần. thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm dẫn đến thiệt hại về vật chất và tổn thất về tinh thần của
bà Nguyễn. Cụ thể, bà sẽ mất đi vẻ đẹp bên ngồi mà đáng ra bà phải có sau khi bỏ
tiền ra, bà có thể sợ hãi về những gì đã xảy ra,…
Kế thừa thực tiễn cũng như kinh nghiệm nước ngồi nêu trên, Bộ luật dân sự
năm 2015 đã có một quy định mới về tổn thất về tinh thần khi có vi phạm hợp đồng.
Đó chính là khoản 3 Điều 419 về Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng
theo đó “theo yêu cầu của người có quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết
định căn cứ vào nội dung vụ việc”. Trong vụ việc trên, ông Lại phải bồi thường toàn
bộ những thiệt hại xảy ra gắn liền với ca phẫu thuật không thành công.
VẤN ĐỀ 2: Phạt vi phạm hợp đồng
Câu 1: Điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm
2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
Trả lời:
Những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005
về phạt vi phạm hợp đồng như sau:
Thứ nhất: Về quy định “Mức phạt vi phạm”
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005: Mức phạt vi phạm do các bên thoả
thuận7
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015: Mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác8
Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 có bổ sung quy định về mức phạt vi phạm
trong trường hợp “luật liên quan có quy định khác” bởi vì khơng phải lúc nào các bên
7
8
Khoản 2 Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
6
cũng được hoàn toàn tự do thỏa thuận bởi hiện nay vẫn có Luật quy định cụ thể về
mức phạt như Luật xây dựng, Luật thương mại có quy định về mức phạt tối đa,...
Thứ hai: Về quy định bồi thường thiệt hại:
Theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2005: Các bên có thể thoả thuận về việc bên
vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu khơng có thoả
thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường tồn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên khơng có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm9.
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015: Các bên có thể thỏa thuận về việc
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về
việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm10.
Ta thấy rằng, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ đi quy định “nếu khơng có thoả
thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường tồn bộ thiệt hại” của Bộ
luật Dân sự năm 2005, quy định này được bỏ đi vì đây là vấn đề bồi thường thiệt hại
và đã có quy định khác điều chỉnh (Điều 13 và Điều 360 Bộ luật Dân sự năm 2015)
Đối với vụ việc thứ nhất:
Câu 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng
Trả lời:
Điểm giống nhau giữa đạt cọc và phạt vi phạm hợp đồng là:
+ Về đối tượng thực hiện: đều là khoản tiền buộc phải nộp cho một bên
+ Về hình thức: đều được lập thành văn bản
+ Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm bị mất một khoản tiền (mức phạt vi phạm
hoặc phạt cọc) và không căn cứ vào thiệt hại thực tế
Câu 3: Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay
là nội dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Trả lời:
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc
9
Khoản 3 Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
10
7
“Xét thấy theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số số 01-10/TL-TV ngày
01/10/2010 các bên đã thỏa thuận: Ngay sau khi ký hợp đồng bên mua (công ty Tân
Việt) phải thanh tốn trước cho bên bán (cơng ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng
gọi là tiền đặt cọc, 40% giá trị đơn hàng thanh toán ngay sau khi bên Cơng ty Tường
Long giao hàng hồn tất, 30% cịn lại sẽ thanh tốn trong 30 ngày kể từ ngày thanh
tốn cuối cùng. Do đó số tiền thanh tốn đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng
(406.920.000đồng) được xác định là tiền đặt cọc”.11
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến khoản tiền trả trước 30%
Trả lời:
Theo nhóm, cách giải quyết của Tòa là chưa thỏa đáng và thiếu thống nhất trong
cách xử lý
Về khoản tiền trả trước 30% Tòa án xác định là tiền đặt cọc dựa vào khoản 7
Điều 292 Luật thương mại 2005 và Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005. Khoản tiền
này dùng để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên sau đó Tịa án lại nhận
định rằng phía bị đơn đã khơng từ chối thực hiện hợp đồng mà hai bên đã đi vào thực
hiện hợp đồng cho nên khoản tiền 30% được xác định là khoản tiền dùng để thanh
toán đợt giao hàng lần thứ nhất. Theo hai bên thỏa thuận sau khi kí hợp đồng, Cơng ty
Tân Việt (bên mua) phải thanh tốn trước cho Cơng ty Tường Long (bên bán) 30% giá
trị đơn hàng gọi là tiền đặt cọc. Do đó theo quy định tại khoản 2 Điều 358 Bộ luật Dân
sự năm 2005 số tiền 30% trên thuộc về bên bán khi bên mua từ chối thực hiện hợp
đồng nhưng trên thực tế hai bên đã đi vào thực hiện hợp đồng nên khoản tiền trên phải
được trả lại cho bên mua (Công ty Tân Việt) chứ không được dùng vào việc thanh
toán cho giá trị đơn hàng thứ nhất.
Do đó cách giải quyết nhiều mâu thuẫn như trên của Tịa án đã khiến quyền lợi
và lợi ích hợp pháp của bên nguyên đơn không được đảm bảo.
Đối với vụ việc thứ hai:
Câu 5: Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được
giới hạn như thế nào?
Trả lời:
Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn theo
Luật Thương mại 2005. Mức phạt không quá 8% giá trị hợp đồng12.
11
Bản án 121/2011/KDTM-PT nỳ 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh; Phán quyết của Trọng tài
quốc tế Việt Nam.
12
Điều 301 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
8
Câu 6: So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có
thuyết phục khơng? Vì sao?
Trả lời:
So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là hợp lý.
Bởi căn cứ theo Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 tại Điều 301 có quy định:
“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.”
Câu 7: Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp
đồng có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thảo
thuận về vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về thỏa thuận phạt vi phạm:
“1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi
phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có
quy định khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa
phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về
việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Nghiên cứu nội dung quy định này có thể hiểu, khơng có giới hạn về mức phạt vi
phạm trong dân sự, các bên có thể thỏa thuận chỉ bị phạt vi phạm mà không phải bồi
thường thiệt hại. Nếu trong hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm, nhưng không đề cập
việc vẫn phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm sẽ khơng phải bồi thường thiệt hại.
Theo quy định tại Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì các bên có thể thoả
thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi
thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, khác với phạt vi phạm là chỉ được áp dụng nếu như các bên có thỏa thuận
trước về phạt vi phạm, đối với bồi thường thiệt hại, cho dù các bên có thỏa thuận về
vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng hay không, thì khi xảy ra thiệt hại,
bên gây thiệt hại vẫn phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Từ quy định này có thể suy ra rằng: Nếu khơng có thỏa thuận về việc phạt vi
phạm kết hợp với phạt vi phạm thì vẫn có thể kết hợp cả hai để áp dụng cho trường
9
hợp vi phạm hợp đồng. Bởi chỉ khi các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm thì mới
khơng áp dụng kết hợp bồi thường thiệt hại.
Theo pháp luật thương mại: Các bên có quyền thỏa thuận về việc bên vi phạm
chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà khơng phải bồi thường thiệt hại, hoặc có
thể thỏa thuận áp dụng cả hai hình thức chế tài là phạt vi phạm hợp đồng và bồi
thường thiệt hại.
Căn cứ theo Điều 307 Luật thương mại 2005 quy định: “Quan hệ giữa chế tài
phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại
1. Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền
áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này
có quy định khác.”
Câu 8: Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi
thường thiệt hại không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời.
Trả lời:
Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
Đoạn cuối phần Nội dung tranh chấp của Quyết định: “HĐTT cho rằng có thể
xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại
và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng”13.
Câu 9: Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng.
Trả lời:
Giống nhau:
Phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại đều được coi là biện pháp chế
tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm hợp đồng.
Cơ sở để áp dụng 2 biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên
thực tế.
Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm: Điều 294 Luật
thương mại 2005 quy định như sau:
“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
13
Phán quyết trọng tài (phạt vi phạm hợp đồng).
10
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách
nhiệm.”
Tiêu chí
Khác nhau:
Bồi thường thiệt hại do khơng
thực hiện đúng hợp đồng
Phạt vi phạm
Khái niệm + Điều 418 Bộ luật Dân sự năm
2015;
+ Điều 360 Bộ luật Dân sự năm
2015;
+ Điều 300 Luật thương mại
2005: “Phạt vi phạm là việc bên
bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm
trả một khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng nếu trong hợp
đồng có thoả thuận, trừ các
trường hợp miễn trách nhiệm
quy định tại Điều 294 của Luật
này.”
+ Khoản 1 Điều 302 Luật thương
mại 2005: “Bồi thường thiệt hại là
việc bên vi phạm bồi thường những
tổn thất do hành vi vi phạm hợp
đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”
Thỏa
thuận
trong hợp
đồng
Phải có sự thỏa thuận trong hợp
đồng
Khơng cần có sự thỏa thuận trong
hợp đồng
Mức phạt
Do các bên thỏa thuận
Bồi thường theo mức thiệt hại
Mục đích
Ngăn ngừa các xảy ra vi phạm
trong hợp đồng
Khắc phục hậu quả do vi phạm hợp
đồng
Áp dụng
+ Có thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Có hành vi vi phạm.
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng.
+ Có thiệt hại thực tế.
+ Có lỗi của bên vi phạm.
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
hại.
11
Câu 10: Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường
thiệt hại có bị giới hạn khơng? Vì sao?
Trả lời:
Bộ luật Dân sự khơng nêu, nhưng Luật liên quan khác có quy định giới hạn mức
phạt vi phạm.
Ví dụ: Điều 301 Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005 “Mức phạt đối với vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả
thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.”
Câu 11: Trong Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và
bồi thường thiệt hại có bị giới hạn khơng? Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp
trong Quyết định về vấn đề này.
Trả lời:
Tòa Trọng tài xác định có giới hạn khi kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại do vi phạm nghĩa vụ. Áp dụng Điều 301 Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005,
xác định giới hạn là 8%, nhưng xét thêm bồi thường thiệt hại thực tế, nên áp dụng
mức phạt do hai bên thỏa thuận và tạo thời gian, điều kiện cho bên vi phạm thực hiện
nghĩa vụ.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức
phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Trả lời:
Theo tôi, hướng giải quyết của HĐTT là thuyết phục, vì:
- Khi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm đã phải bồi thường hợp đồng dù có thỏa
thuận về việc này hay khơng.
- Mục đích của phạt vi phạm là để ngăn chặn vi phạm chứ không phải là khắc
phục hậu quả. Khắc phục hậu quả đã có biện pháp bồi thường thiệt hại khi vi phạm
nghĩa vụ.
- Hơn nữa, khi đã áp dụng bồi thường hợp đồng mà còn áp dụng phạt vi phạm
quá cao, việc này thực sự khơng cần thiết và có xu hướng thiên vị cho bên được bồi
thường.
- Trong vụ việc trên, theo tôi nhận thấy dù Hội Đồng Thẩm Phán cũng có thể
hiện tinh thần tôn trọng thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, thông qua việc dẫn
chiếu đến nội dung bồi thường thiệt hại thực tế. Tuy nhiên, nếu mức thỏa thuận q
cao thì có thể Hội Đồng Thẩm Phán sẽ khơng chấp thuận mà phải cân nhắc lại.
- Tóm lại tinh thần của Quyết định trên là, có kết hợp hai biện pháp phạt vi phạm
và bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ. Nhưng phải xem xét đến giới hạn mức
12
phạt vi phạm, tôn trọng thỏa thuận giữa các bên nhưng không trái với quy định của
pháo luật.
VẤN ĐỀ 3: Sự kiện bất khả kháng
Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho
biết các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng
khơng? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng:
- Xảy ra một cách khách quan
- Các bên không thể lường trước được
- Không thể khắc phục được dù đã áp dụng nhiều biện pháp cần thiết và khả
năng cho phép
(Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015)
Các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng xảy
ra (Theo khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015)
Câu 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực
hiện được do sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật Dân sự và Luật thương mại
sửa đổi.
Trả lời:
Những hệ quả pháp lý:
+ Khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên có nghĩa vụ được miễn trách
nhiệm nếu nghĩa vụ không được thực hiện, không được thực hiện đầy đủ hoặc không
được thực hiện đúng do sự kiện bất khả kháng gây ra (Theo điểm b khoản 1 Điều 294
Luật thương mại 2005 sửa đổi bổ sung)
+ Được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng bị
chậm trễ do sự kiện bất khả kháng (Theo khoản 1 Điều 296 Luật thương mại 2005 sửa
đổi bổ sung)
+ Ngoài ra, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra thiệt hậu quả nghiêm
trọng dẫn đến việc thực hiện hợp đồng sẽ khơng có lợi cho các bên thì các bên có thể
chấm dứt việc thực hiện hợp đồng.14
+ Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự
kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. (Theo khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự
năm 2015).
14
Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4, tr. 364-365.
13
Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng với tình huống
trên.
Trả lời:
Để biết số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng hay khơng, ta phân
tích các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng trong tình huống đã cho dựa theo
khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thứ nhất, về sự kiện xảy ra khách quan, gió là sự kiện xảy ra khách quan.
Thứ hai, là sự kiện không thể lường trước được, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị
hư hỏng tuy là sự kiện khách quan nhưng thật sự không thể lường trước được hay
khơng thì tình huống khơng nói rõ. Vì nếu thơng tin đại chúng có cho biết là có gió
lớn, nguy cơ có thể xảy ra thiệt hại vào thời điểm này thì điều kiện này có thể
khơng thỏa mãn.
Thứ ba, không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép, tàu chìm làm hàng hư hỏng tồn bộ có thật sự “khơng thể
khắc phục được” hay khơng tình huống khơng nêu rõ. Nếu biết rõ thiệt hại xảy ra có
thể tránh được, hạn chế được, khắc phục được phần nào mà bên vận chuyển vẫn để
mặc cho thiệt hại xảy ra thì điều kiện này dường như khơng được thỏa mãn.
Vậy, căn cứ vào các dữ liệu của tính huống thì đây là sự kiện bất khả kháng.
Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Trả lời:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”15, nên nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn không phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng.
Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa
thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng hư hỏng thì anh Văn có được u
cầu Cơng ty bảo hiểm thanh tốn khoản tiền này khơng? Tìm câu trả lời nhìn từ
góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.
Về vấn đề này, Bộ luật Dân sự năm 2015 khơng có quy định đề cập đến, nhưng
trong Bộ luật Dân sự năm 2005 vấn đề này được quy định cụ thể tại Điều 580 Bộ luật
Dân sự năm 2005: “Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ
ba theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền
15
Khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
14
bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua
bảo hiểm đối với thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức
bảo hiểm đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”16. Theo quy định này, nếu
hàng hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường thì được
quyền u cầu Cơng ty bảo hiểm hồn trả lại cho mình số tiền đó.
Nhìn từ góc độ thực tiễn thì vấn đề này có hai quan điểm trái ngược nhau. Cụ thể
được nêu ra tại hai bản án:
Tại bản án 110/2006DSPT ngày 5/5/2006 cùa Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh:
Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy. Anh Khen có mua bảo
hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho người thứ ba của công ty Bảo Việt
cho việc vận chuyển tàu của mình. Trên đường vận chuyển tàu bị gió lốc nhấn chiềm
gây thiệt hại đến tài sản hàng hóa. Trong hợp đồng nhận chuyển hàng anh Khen thỏa
thuận chịu trách nhiệm trường hợp này và đã bồi thường cho chủ hàng anh chở thuê số
tiền 40.950.000 đồng. Tại bản án này, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc
gây thiệt hại cho chủ hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Trong vụ tai nạn trên, sau
khi sự việc xảy ra anh Khen có thơng báo cho Bảo Việt biết và cung cấp thơng tin u
cầu cơng ty Bảo Việt hồn lại cho anh số tiền đã bồi thường. Nhưng theo tịa, anh
Khen mặc dù đã nhận được thơng tin từ công ty Bảo Việt nhưng anh Khen tự nguyện
nhận bồi thường nên anh phải tự chịu trách nhiệm.
Tại quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao:
Ơng Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ơng Điền và ơng Trình bằng tàu của
mình. Ơng Khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu rõ
điều kiện bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên
chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển do mưa gió to, nước chảy
mạnh, tàu va vào chân tàu bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000 đồng. Vì ơng
Khóm thỏa thuận trong hợp đồng với ơng Trình, ơng Điền nên đã bồi thường số tiền
trên. Nay ơng Khóm u cầu Bảo Việt hồn trả ơng số tiền nói trên. Về vụ việc trên,
theo Tịa vì các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm nói trên và theo Điều 546 Bộ
luật Dân sự năm 2005 vẫn cho phép người vận chuyển được thỏa thuận về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận
giữa ơng Khóm và ơng Trinh, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực ràng buộc
cả Bảo Việt An Giang, công ty Bảo Việt có trách nhiệm bảo hiểm cho ơng Khóm.
Theo em, thì cần áp dụng theo hướng thứ hai. Thiết nghĩ, các bên cần nêu rõ
trong hợp đồng bảo hiểm là có hay không bảo hiểm trong trường hợp thiệt hại do sự
kiện bất khả kháng. Và nếu khơng có thỏa thuận trước thì cũng cho bên vi phạm do sự
16
Điều 580 Bộ luật Dân sự năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
15
kiện bất khả kháng được quyền yêu cầu bảo hiểm bồi thường khi đã bồi thường cho
đối tác của họ. Bởi lẽ, bản chất của bảo hiểm là bảo về trước những sự kiện bất ngờ
mà ta không thể lường trước được, cũng để đảm bảo uy tính cho các bên khi tham gia
hợp đồng vận chuyển.
VẤN ĐỀ 4: Tìm kiếm bản án liên quan đến chậm thực hiện
nghĩa vụ thanh toán
Trả lời:
Bản án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán:
1. Bản án số: 412/2018/QĐST-DS ngày 14/06/2018 về tranh chấp hợp đồng
vay tài sản do Tòa án nhân dân quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh xét xử.17
Nội dung bản án:
Ngân hàng A và ơng D có ký kết văn bản “Yêu cầu phát hành thẻ tín dụng quốc
tế” và “Các điều khoản và điều kiện phát hành, sử dụng thẻ tín dụng quốc tế”. Ơng D
đã sử dụng chi tiêu và khơng thanh tốn sao kê nhiều kỳ. Tính đến ngày 27/9/2017
tổng số nợ ơng D là 73.096736 đồng. Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng ông vắng
mặt. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thì Tịa án đã buộc ơng D phải trả nợ gốc lại cho
ngân hàng và thêm đó là tiền lãi phát sinh từ số nợ gốc cho đến khi thanh tốn hết nợ.
Suy nghĩ:
Việc ơng D sử dụng thẻ tín dụng nhưng lại khơng thực hiện thanh tốn đã làm
phát sinh nghĩa vụ trả nợ giữa ông và ngân hàng. Từ những chứng cứ của ngân hàng
Tòa án đã xét xử hợp lý trong việc buộc ơng D có trách nhiệm trả tồn bộ số nợ và
bên cạnh đó cịn có trách nhiệm chịu lãi do chậm trả tiền là hoàn toàn thỏa đáng.
Căn cứ pháp lý: Điều 351, Điều 353, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015, trong đó tại
Điều 357 có nói: “bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả...lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được
xác định theo thỏa thuận của các bên...”18
2. Bản án số: 50/2017DS-PT ngày 14/12/2017 về tranh chấp hợp đồng vay
tài sản do Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử.19
Nội dung bản án:
Vợ chồng bà Ng có viết giấy nhận nợ với vợ chồng bà Th ông N là
4.250.000.000 đồng từ việc nhờ ông N đứng ra mượn tiền ngân hàng với thế chấp là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà của họ. Vợ chồng ông N đã 2 lần gửi thông
báo nhưng vợ chồng bà Ng vẫn không trả tiền. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thì Tịa
17
Congbobanan, truy cập ngày 13/10/2018.
Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
19
Congbobanan, truy cập ngày 13/10/2018.
18
16
án đã buộc vợ chồng bà Ng phải trả cả nợ gốc và thêm đó là tiền lãi phát sinh từ số nợ
gốc cho ông bà Th.
Suy nghĩ:
Việc vợ chồng bà Ng vay nợ và viết giấy nhận nợ nhưng lại khơng thực hiện
thanh tốn đã làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ giữa ông bà và vợ chồng bà Th ơng N. Từ
những chứng cứ của ngun đơn Tịa án đã xét xử hợp lý trong việc buộc vợ chồng bà
Ng có trách nhiệm trả tồn bộ số nợ và bên cạnh đó cịn có trách nhiệm chịu lãi do
chậm trả tiền là hoàn toàn thỏa đáng.
Căn cứ pháp lý: Điều 351, Điều 353, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015, trong đó tại
Điều 357 có nói: “bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả...lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được
xác định theo thỏa thuận của các bên...”20
3. Bản án 54/2017/DS-ST ngày 15/06/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài
sản Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho - tỉnh Tiền Giang
Nội dung vụ án:
Tại đơn khởi kiện ngày 08/2/2017, bản tự khai và các lời khai trong quá trình
giải quyết vụ án nguyên đơn Ngân hàng TMCP N ủy quyền cho ơng Lê Chánh T trình
bày: ơng Lê Nhật C có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP N (gọi tắt là Ngân
hàng N) để vay tiền cụ thể: hợp đồng tín dụng số 0155/VCB/14CD ngày 12/6/2014
với để vay số tiền 140.000.000 đồng, hợp đồng tín dụng số 0268/VCB/14CD ngày
25/9/2014 vay số tiền 30.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng, thời hạn vay là 36
tháng, lãi suất trong hạn là theo thông báo lãi suất cho vay đồng Việt Nam của Ngân
hàng N tại thời điểm giải ngân và được điều chỉnh theo thông báo lãi suất của bên cho
vay trong từng thời kỳ, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn. Ngồi ra ơng C
cịn nợ thẻ tín dụng với số tiền là 20.053.216 đồng. Sau khi vay ơng C có trả vốn và
lãi đến ngày 13/6/2016 thì ngưng khơng trả vốn và lãi, tính đến ngày 14/6/2017 thì
ơng C cịn nợ Ngân hàng N số tiền vốn hai hợp đồng tín dụng là 64.933.000 đồng, tiền
lãi là 10.944.984 đồng; nợ thẻ tín dụng vốn là 14.694.920 đồng, tiền lãi là 8.426.182
đồng, tổng cộng vốn và lãi ơng C cịn nợ là 98.999.085 đồng. Nay Ngân hàng N yêu
cầu ông C trả cho Ngân hàng tiền vốn và lãi tính đến ngày 14/6/2017 là 98.999.085 và
tiền lãi phát sinh cho đến khi nào trả xong nợ gốc, trả một lần ngay khi án có hiệu lực
pháp luật.
Suy nghĩ:
Theo tơi trong bản án này Tịa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã có hướng giải
quyết hợp lý.
20
Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
17
Trong quyết định này, ông Lê Nhật C đã vay 140.000.000 đồng của ngân hàng
TMCP N, thời hạn vay là 36 tháng và sau khi vay ơng C có trả vốn lẫn lãi đến ngày
13/6/2016 thì ngưng trả tiền. Đã quá hạn thanh toán nên áp dung Bộ luật Dân sự năm
2015 tại điều 463, 466, 470, buộc ông C phải thanh tốn số tiền cịn thiếu cho ngân
hàng N.
18