Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Hoa văn họa tiết trên trang phục người Hmong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.58 MB, 44 trang )

Trờng đại học s phạm hà nội
KHOA VIT NAM HC
----------

TIU LUẬN
MÔN: NHÂN HỌC ĐẠI CƯƠNG VÀ
CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM
ĐỀ BÀI:
HOA VĂN HỌA TIẾT TRÊN TRANG PHỤC
DÂN TỘC HMÔNG

Giảng viên

: TS. Nguyễn Văn Thắng

Sinh viên

:Lâm Thị Thanh Xuân

Lớp

: K60B - VNH

Hà Nội - 2012


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
II. Lịch sử vấn đề.............................................................................................2
III. Mục đích nghiên cứu................................................................................4


IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................................5
V. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................5
VI. Bố cục.........................................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................7
Chương I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC
NGƯỜI VÀ TRANG PHỤC CỦA DÂN TỘC HMÔNG.............................7
1.1 Khái quát về dân tộc Hmông....................................................................7
1.1.1 Lịch sử dân tộc Hmông....................................................................7
1.1.2 Tên gọi và phân nhóm......................................................................8
1.1.3 Địa bàn cư trú...................................................................................9
1.2 Khái quát về trang phục dân tộc Hmông................................................9
Chương II. HỌA TIẾT HOA VĂN TRÊN TRANG PHỤC CỦA DÂN
TỘC HMÔNG...............................................................................................13
2.1 Sự ra đời của hoa văn trên trang phục..................................................13
2.2 Kỹ thuật tạo hình hoa văn trên trang phục..........................................15
2.2.1 Kỹ thuật thêu..................................................................................15
2.2.2 Kỹ thuật vẽ mầu in sáp ong............................................................16
2.2.3 Kỹ thuật ghép vải...........................................................................16
2.2.4 kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc.................................................17
2.3 Bố cục đồ án và màu sắc hoa văn...........................................................17
2.3.1 Bố cục.............................................................................................17
2.3.2 Màu sắc..........................................................................................18
2.4 Hệ thống các mơtíp hoa văn trên trang phục người Hmơng...............19
2.4.1 Hoa văn hình học............................................................................20
2.4.2 Hệ thống hoa văn hiện thực............................................................21


Chương III. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA HỆ THỐNG HOA VĂN HỌA
TIẾT TRÊN TRANG PHỤC DÂN TỘC HMÔNG...................................24
3.1 Thể hiện quan điểm thẩm mỹ.................................................................24

3.2 Phản ánh nhận thức và đời sống tâm linh của người Hmông.............25
3.3 Sự giao thoa văn hóa tộc người qua hoa văn........................................26
KẾT LUẬN....................................................................................................29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................31
PHỤ LỤC.......................................................................................................32


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Thông thường người ta tìm hiểu dân tộc là một cộng đồng người sinh
sống trên một vùng đất nào đó thì có những đặc trưng chung về kinh tế, tiếng
nói, văn hóa, tâm lý, trong đó văn hố, tiếng nói là cái nổi rõ, dễ nhận biết hơn
cả.
Nói tới văn hóa dân tộc là nói tới một lĩnh vực vơ cùng phong phú và
đa dạng từ miếng ăn, quần áo mặc, nếp nhà ở, cách thức làm ăn, đi lại, vui
chơi, ca hát, hội hè, thơ cúng, tang ma, cưới xin…Người ta vẫn thường hay
nói đến bản lĩnh và bản sắc dân tộc. Bản lĩnh tức là sức sống vươn lên của dân
tộc trước những thác thức của lịch sử, còn bản sắc là cái biểu hiện mn màu
mn vẻ ra bên ngồi, thể hiện ra thành sắc thái, đặc trưng, dáng vẻ riêng,
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Lẽ dĩ nhiên bản sắc văn hóa được biểu hiện ra mọi khía cạnh của đời
sống vật chất và tinh thần của con người, tuy nhiên tùy vào từng lĩnh vực văn
hóa mà bản sắc dân tộc thể hiện ra bên trong hay bên ngồi. Trong trường kì
lịch sử do tiếp xúc văn hóa với các dân tộc láng giềng, văn hóa có nhiều thay
đổi giữ lại những đặc sắc riêng của mình, ngược lại có lĩnh vực văn hóa lại
bảo lưu khá bền chặt, có lúc có nơi hầu như nguyên vẹn. Có thể nói trong văn
hóa dân tộc, trang phục, đặc biệt là hệ thống hoa văn họa tiết trên trang phục
là cái mà ở đó bản sắc dân tộc biểu hiện rõ rệt, thường xuyên và lâu bền nhất,
kết tinh nhiều giá trị riêng của dân tộc.
Người Hmông là một trong số những dân tộc thiểu số có dân số đông ở

miền Bắc Việt Nam. Người Hmông cư trú chủ yếu trên những vùng núi có độ
cao trên dưới 1000m. Trải qua quá trình thiên di hàng trăm năm tới định cư ở
vùng núi phía tây Bắc Việt Nam người Hmơng đã xác lập cho mình một diện
mạo kinh tế – văn hóa – xã hội khá rõ nét. Cùng với 53 dân tộc anh em, người
Hmông luôn luôn là một phần của khối thống nhất đại đoàn kết dân tộc góp
phần làm đa dạng hơn nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Đã từ lâu người Hmông
1


trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong đó có dân tộc học
và khơng chỉ có các nhà khoa học Việt Nam mà các nhà khoa học thế giới
cũng rất quan tâm đến dân tộc này.
Văn hóa Hmơng là tồng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà họ
sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử của mình. Trong văn hóa Hmơng, hệ thống
hoa văn họa tiết trang trí trên trang phục là một trong những yếu tố cơ bản,
bởi nó có vai trị không thể thiếu được trong việc tăng giá trị thẩm mỹ của bộ
trang phục, thể hiện sự đặc sắc trong trang phục các dân tộc mà còn là biểu
hiện của nếp sống tộc người, thể hiện trình độ lao động thủ cơng truyền thống
và quan niệm về thẩm mỹ. Ngồi ra nó cịn là cơ sở để nhận biết, giúp ta phân
biệt dễ dàng giữa tộc người này với tộc người khác.
Vì vậy có thể coi hoa văn họa tiết trang trí trên trang phục là nguồn tư
liệu quan trọng trong nghiên cứu dân tộc học. Đó cũng là lý do khiến tác giả
chọn đề tài này. Tác giả muốn đi sâu vào khám phá hệ thống hoa văn họa tiết
trên trang phục người Hmơng để có cái nhìn cụ thể hơn về trình độ lao động
thủ cơng của người dân tộc Hmơng thơng qua các kỹ thuật tạo hình, các cách
bố trí đồ án trang trí, về quan điểm thẩm mỹ của họ qua hệ thống phân loại
các nhóm họa tiết và khám phá những giá trị ẩn chứa trong đó.
II. Lịch sử vấn đề
Về việc nghiên cứu đời sống văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam thì đã có nhiều cơng trình nghiên cứu lớn và nhỏ được tiến hành, nhiều

bài báo giới thiệu khái quát nhất những đặc trưng cơ bản của các dân tộc đã
được viết, nhiều cuốn phim tư liệu cũng đã được sản xuất để giới thiệu về các
dân tộc thiểu số – những mảnh ghép văn hóa của đất nước hình chữ S ven bờ
Thái Bình Dương – tới đồng bào cả nước, tới bạn bè thế giới và phục vụ cho
việc bảo tồn, nghiên cứu, lưu trữ.
Về việc nghiên cứu chun sâu đời sống văn hóa của người Hmơng nói
chung đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được tiến hành, nhiều bài báo đã

2


được viết, nhiều báo cáo khoa học, luận án thực hiện thành cơng. Ví dụ như
một số tác phẩm sau:
1) Cuốn “Văn hóa H’Mơng” của Trần Hữu Sơn, nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc, năm 1996. Đây là một cơng trình nghiên cứu chun sâu về
đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào Mông ở tỉnh Lào Cai. Tác phẩm
dựng lại toàn cảnh những hoạt động trong đời sống văn hóa tinh thần của
người Mơng ở đây và rút ra những đặc điểm về cuộc sống của họ.
2) Cuốn “Văn hóa dân gian Lào Cai”, của Trần Hữu Sơn, nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1997. Đây là cuốn sách viết về những giá trị
văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số sinh sống tại trên địa bàn tỉnh Lào
Cai, trong đó có dân tơc Mơng.
3) Cuốn “Lễ hội cổ truyền Lào Cai” của Trần Hữu Sơn, nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1997 nói về các lễ hội cổ truyền có ở Lào Cai
của các tộc người, trong đó có lễ hội Gầu Tào rất đặc sắc và nổi tiếng của dân
tộc Mông.
4) Cuốn “Dân tộc Mơng ở Việt Nam” của Hồng Nam và Cư
Hịa Vân, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1994. Đây là cuốn sách viết khá
đầy đủ về các vấn đề: lịch sử di cư, tên gọi, địa bàn cư tú, phân nhóm, sinh
hoạt vật chất và tinh thần của người Mông ở Việt Nam.

5) Sách ảnh “Người H’Mông ở Việt Nam” do Vũ Quốc Khánh
chủ biên, nhà xuất bản Thông Tấn, năm 2005. Sách được thực hiện theo sự
đặt hàng của Nhà nước, là cuốn sách công phu được thực hiện bởi sự hợp tác
của nhiều giáo sư, tiến sĩ và các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp. Bên cạnh các
bức ảnh khổ lớn, cuốn sách cịn trình bày khá rõ ràng và súc tích về đời sống
vật chất của đồng bào Hmơng.
Ngồi ra cịn một số tư liệu khác như cuốn “Lịch sử người Mèo”, hay
như luận án thạc sĩ khoa học chuyên ngành lịch sử của Lê Huy Phú thuộc
trường Đại học Sư phạm Hà Nội viết về người Mông ở Sapa.

3


Tuy nhiên, trong các tác phẩm “Dân tộc H Mông ở Việt Nam” của các
giả Cư Hoàng Vân, Hoàng Nam; “Văn hóa H’Mơng” của Trần Hữu Sơn,
trang phục chỉ được nhắc đến như mộ phần rất nhỏ dùng để phân biệt dân tộc
này với dân tộc khác. Gần đây trong tác phẩm “Văn hóa dân gian Lào Cai”
tác giả Trần Hữu Sơn đã dành một phần để giới thiệu về cách trang trí trên
trang phục của người Hmơng ở Lào Cai tuy chưa nhiều và chưa đi vào chi tiết
nhưng cũng khái quát nên được một số nét giá trị văn hóa trong trang phục
người Hmơng. Các bài viết của các tác giả Nguyễn Tất Thắng, Quách Thị
Oanh, trên tạp trí dân tộc cũng bước đầu giới thiệu về dệt may, đưa ra những
nhận xét về chức năng xã hội của trang phục người Hmơng.
Và tất cả các cơng trình nghiên cứu này chưa hề nhắc đến hệ thống hoa
văn họa tiết trang trí trên trang phục người Hmơng một cách độc lập, chưa
mang tính chất chuyên khảo nghiên cứu đi sâu vào hệ thống họa tiết hoa văn
trên trang phục của người Hmông, trong khi họa tiết hoa văn trên trang phục
khơng chỉ có tư cách là một yếu tố văn hóa vật chất mà cịn là thành quả văn
hóa của dân tộc chưa được nghiên cứu đúng mức. Đó là một cơng việc khó
khăn lâu dài song cũng là một mục đích muốn đạt được của bài tiểu luận này.

III. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống các mơtip hoa văn họa tiết trên vải là một phương diện thể
hiện vẻ đẹp đặc sắc của bộ trang phục dân tộc Hmơng. Nó khơng chỉ mang
giá trị thẩm mỹ mà cịn phản ánh sinh động đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào Mơng. Nó hàm chứa các tín hiệu văn hóa đặc thù của dân tộc. Cùng
với đó, việc tạo nên các hoa văn họa tiết đó cũng là cả một nghệ thuật.
Bởi vậy, nghiên cứu tìm hiểu hoa văn họa tiết trên vải dân tộc Hmông
sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn nghệ thuật tạo hình truyền thống của đồng bào.
Đồng thời sẽ giúp ta hiểu được quan điểm thẩm mỹ của họ và giải mã được
các tín hiệu văn hóa đã được thể hiện khéo léo trên mặt vải của tộc người tiêu
biểu nhất trong nhóm ngơn ngữ Hmông – Dao.

4


IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hệ thống hoa văn họa tiết trên trang phục của
đồng bào dân tộc Hmông.
Phạm vi nghiên cứu: những hoa văn họa tiết chủ đạo trên các loại trang
phục của họ, và chung cho các nhóm người Hmơng.
V. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp liên ngành: Dựa trên những kiến thức, thành tựu nghiên
cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau để có cái nhìn tồn diện về dân
tộc Hmơng với các đặc trưng văn hóa của họ. Từ đó, có được sự lý giải cho
các mã văn hóa được giấu bên trong các họa tiết, chi tiết hoa văn trang trí trên
vải.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích là sự chia cắt đối tượng
nghiên cứu thành các bộ phận, các yếu tố nhỏ hơn để khảo sát, tìm hiểu kỹ về
nó. Tổng hợp là từ kết quả nghiên cứu từng mặt, từng bộ phận mà khái quát
lại để tìm ra bản chất chung, tìm ra quy luật vận động của đối tượng.

Trong bài tiểu luận này, phương pháp trên được áp dụng để phân tích
và tổng hợp các kiến thức mà tài liệu cung cấp, nhằm chọn được các kiến thức
đúng nhất về tộc người này. Đồng thời phương pháp này cũng được dùng để
phân tích các giá trị của hoa văn họa tiết trên vải của dân tộc Hmông.
Phương pháp thống kê – so sánh: Thống kê là phương pháp định lượng,
tìm hiểu, điều tra bằng các con số cụ thể. Còn so sánh là sự đối chiếu giữa các
phương diện chung cho cả hai đối tượng để xét xem chúng giống nhau hay
mâu thuẫn và giống nhau hoặc mâu thuẫn ở mức độ nào.
Ở đây, phương pháp này được sử dụng để đưa thống kê đưa ra các loại
bố cục, các loại màu sắc được sử dụng và các mẫu hoa văn họa tiết tiêu biểu
nhất, chủ đạo nhất. Cùng với điều đó, tiến hành so sánh hoa văn họa tiết trên
trang phục của dân tộc Hmông với các dân tộc khác để thấy sự khác biệt và
nét đặc sắc riêng của đồng bào. Đồng thời có thể chỉ ra sự giao lưu văn hóa

5


giữa các tộc người qua những điểm tương đồng nhất định về họa tiết hoa văn
trên trang phục.
Phương pháp quan sát thực tế: Phương pháp này được thực hiện bằng
cách quan sát các hiện vật trưng bày trong một số bảo tàng để có cái nhìn
chân thực nhất đối với đối tượng nghiên cứu.
VI. Bố cục
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Chương I. Giới thiệu khái quát về đặc điểm tộc người và trang phục của
dân tộc Hmông.
Chương II. Họa tiết, hoa văn trên trang phục của dân tộc Hmông.
Chương III. Ý nghĩa và giá trị của hệ thống hoa văn họa tiết trên trang
phục dân tộc Hmông.

C. Kết luận

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM DÂN
TỘC NGƯỜI VÀ TRANG PHỤC CỦA DÂN TỘC HMÔNG
1.1 Khái quát về dân tộc Hmông
1.1.1 Lịch sử dân tộc Hmơng
Dân tộc Hmơng là một dân tộc có dân số khá đơng (trên 9 triệu người),
thuộc nhóm ngơn ngữ Hmơng – Dao, cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế
giới trong đó đơng nhất là ở Trung Quốc với khoảng trên 7,5 triệu người. Ở
Lào là khoảng 25 vạn, ở Thái Lan khoảng 15 vạn và ở nước ta là hơn 1 triệu
người. Trong vài thập niên gàn đây, người Hmơng cịn có mặt ở một số nước
ngồi châu Á như: Pháp, Mỹ, Canada, Australia...
Ở Việt Nam, người Hmông nằm trong nhóm các dân tộc nói ngơn ngữ
Hmơng – Dao (gồm ba dân tộc là Hmông, Dao và Pà Thẻn)
Về nguồn gốc dân tộc thì người Hmơng hiện nay ở Việt Nam đều có
nguồn gốc từ phương Bắc. Theo một số tài liệu và truyền thuyết của dân tộc
Hmông, cũng như theo các nhà dân tộc học thì phần lớn những người Hmơng
ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ Quý
Châu, Quảng Tây và Vân Nam Trung Quốc sang. Riêng nhóm Hmơng ở
Thanh Hóa và Nghệ An đi cư vào Việt Nam qua Lào.
Người Hmông tới Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau và chia
làm nhiều đợt, trong đó có ba đợt chính.
Đợt thứ nhất là khoảng 100 hộ, thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu
đến khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Thời gian là
vào khoảng cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh của lịch sử Trung Quốc,
khoảng thời gian đúng với những năm có phong trào người Miêu (tên gọi của

người Mông ở Trung Quốc) ở Quý Châu chống lại chính sách “Cải tổ quy
lưu” và bị thất bại cách đây hơn 300 năm. Đây cũng là nhóm người
Hmơng di cư vào nước ta sớm nhất.

7


Đợt thứ hai có khoảng hơn 100 hộ trong đó có những hộ thuộc các họ
Vàng, Lý cũng di cư vào khu vực Địng Văn. Một số nhóm khác ít hơn thuộc
các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà –
Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ khác vào khu vực Tây Bắc. Thời gian là
cách đây hơn 200 năm.
Đợt thứ ba là đợt có số lượng người di cư vào nước ta đông nhất,
khoảng hơn 10.000 người. Phần lớn họ từ Quý Châu, Vân Nam Trung Quốc
sang, chủ yếu vào Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang. Thời gian của đợt di cư này
tương đương với thời kỳ diễn ra phong trào “Thái Bình thiên quốc” chống lại
nhà Mãn Thanh từ năm 1840 tới năm 1868.
Từ sau ngày đất nước ta thực hiện cơng cuộc đổi mới năm 1986, tình
hình di chuyển của người Hmông vào Việt Nam luôn gia tăng theo hai hướng
Bắc – Nam, Tây – Đông làm cho số địa phương có người Hmơng sinh sống
tăng lên đáng kể.
1.1.2 Tên gọi và phân nhóm
Về tên gọi của dân tộc, thì ở Việt Nam, ngơn ngữ dân gian quen gọi là
người Mèo hay người H’Mông. Nhưng trên nhiều tài liệu nghiên cứu, các nhà
dân tộc học và nghiên cứu về dân tộc này đều gọi họ là dân tộc Hmông hoặc
là dân tộc Mơng. Bản thân họ tự nhận mình là dân tộc Mơng (nghĩa là người).
Các nhóm người Hmơng chính ở nước ta:
* Mơng Hoa (Mơng Lềnh)
* Mơng Đen (Mông Đú hoặc Mông Đu)
* Mông Xanh (Mông Súa hoặc Mông Dua)

* Mông Đỏ (Mông Si)
Dấu hiệu để phân biệt các nhóm người Hmơng là trang phục của họ
nhưng chỉ có trang phục nữ mới có chức năng này, trang phục nam hầu như
có mơ típ giống nhau.

8


1.1.3 Địa bàn cư trú
Về địa bàn cư trú và phân bố dân cư: dân tộc Hmơng nói chung thì
thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500m so với mực nước biển. Phân bố chủ
yếu ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng, dọc theo
biên giới Việt – Trung và Việt – Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Trong đó tập
trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông Bắc và Tây Bắc VN như Hà Giang, Lào
Cai, Lai Châu, Sơn La...Do tập quán du mục nên một số người Hmông trong
những năm 1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số
nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.
Người Hmông ở miền bắc Việt Nam cư trú đông nhất là ở Hà Giang,
tiếp đến là Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, và ít nhất là ở Hịa Bình. Địa bàn cư
trú của họ là các dãy núi cao nhất nước ta. Độ cao trung bình của các làng
người Hmông cư trú là từ 900 – 1600m. Đây là vùng đất cao nhất, hiểm trở
nhất. Độ chia cắt sâu, chia cắt ngang từ lớn đến rất lớn. Độ dốc từ 15o đến 25o,
vùng Tây Hoàng Liên Sơn có độ dốc lớn hơn 25o. Khí hậu mang tính chất
nhiệt đới ẩm gió mùa. Do ảnh hương của gió mùa đơng bắc và độ cao địa hình
nên khí hậu lạnh. Địa hình phức tạp và khí hậu khắc nghiệt đã gây nhiều khó
khăn cho đời sống văn hóa của đồng bào.
1.2 Khái quát về trang phục dân tộc Hmông
Đồng bào Hmông đã cư trú ở nước ta từ lâu đời, sinh sống chủ yếu trên
các rẻo cao thuộc khu vực miền núi Tây Bắc và Đông Bắc, gồm các tỉnh Hà
Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Yên Bái, Điện Biên, Sơn

La và Nghệ An. So với các dân tộc khác, người Hmơng cịn giữ ngun được
nhiều phong tục tập quán, vật dụng cổ truyền độc đáo, một trong đó là việc
dệt vải, thêu may các bộ trang phục dân tộc đặc sắc, rực rỡ nhất vùng. Đối với
người Hmông, trang phục là cái mặc, cũng là của cải gia truyền, ai nấy đều
phải bảo tồn và phát huy sao cho ngày càng đẹp càng quý, phản ánh được rõ
nét truyền thống văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, cá tính và sự giàu có của tộc
người.
9


Từ xưa đến nay, trang phục nam nữ Hmông đều do phụ nữ Hmông làm.
Bảy, tám tuổi, các bé gái đã được bà và mẹ dạy dệt vải, thêu, may các kiểu
hoa văn truyền thống, để tới khi lấy chồng (vào tuổi 15-18, tuổi trưởng thành
theo cách tính Hmơng) sẽ may được 8 đến 15 chiếc váy làm của hồi môn.
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà
tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang
phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ
khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí cơng phu,
kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng
và đẹp.
Nam giới Hmông mặc trang phục cổ truyền tương tự nữ giới song giản
tiện và mộc mạc hơn. Đó là một cái áo đen (vào dịp lễ Tết là áo trắng, xanh,
thêu hoa) có dạng chữ T thân hẹp, hoặc lơ lửng ngang sườn hoặc dài quá thắt
lưng, cổ áo thêu hoa, ve áo song song đính khoảng năm hàng khuy vải nằm
ngang giữa hai thân, cũng có khi là hai vạt vắt chéo và đơm khuy nách. Ống
tay rộng, chia làm hai phần, tùy nhóm người mà ống tay liền dải đồng chất,
đồng màu hoặc gắn các mảnh vải, miếng thêu có màu sắc, chất liệu khác
nhau. Với nam giới Hmông Đen, thân và tay áo thường có một màu tím than.
Với nam giới Hmơng Hoa thì ống tay chia thành nhiều lớp vẽ thêu như đen
nối xanh, đen nối đỏ, vàng nằm liền kề hoặc cách qng. Với nam giới

Hmơng Đỏ có thêm viền cổ và nẹp áo thêu. Ngoài ra, họ cũng đội mũ gồm
các loại mũ quả dưa tám miếng màu đen hoặc thêu, đính các vịng họa tiết
xung quanh mũ hay trên đỉnh đính cắc bạc; mũ lưỡi trai ngắn sát đầu và mũ
bốn vành khi lạnh để xuôi, khi nóng gập lên gọn ghẽ trên đầu. Vào hội, khi
tham gia biểu diễn nghệ thuật họ vấn khăn buộc sau gáy. Quần nam giới là
loại chân què ống rất rộng so với các tộc ngườ khác trong khu vực.
Người Hmơng có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng
có sự khác biệt. Trang phục cổ truyền của người phụ nữ Hmông gồm: khăn,
áo, váy, tạp dề che phía trước váy, sau váy, thắt lưng, xà cạp…Nhìn chung có
10


thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu
áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ống tay áo thường trang trí hoa văn
những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân
trước được trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền
chàm). Phụ nữ Hmơng cịn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai
xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và
trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc.
Váy phụ nữ Hmơng là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xịe ra có
hình trịn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các
nhóm Hmơng (Hoa, Xanh, Đỏ, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy
in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt
lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp
dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải
hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác
cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ
phận người Hmơng. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số
nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên
tai, vòng cổ, vịng tay, vịng chân, nhẫn.

Có thể nói hoa văn, họa tiết là yếu tố quan trọng nhất tạo nên vẻ đẹp
trang phục Hmơng. Nghệ thuật tạo hình dân gian của người Hmông thể hiện
ở trang phục, đồ dùng sinh hoạt, tranh cắt giấy…Nhưng trang trí trên vải có vị
trí quan trọng nhất trong nghệ thuật tạo hình dân gian, điển hình là trang trí
trên trang phục người Hmơng. Mọi hoa văn ở đây đều hết sức mộc mạc, bắt
nguồn từ các câu chuyện cổ, thơ ca về cội nguồn dân tộc, phong cảnh thiên
nhiên nơi người Hmông sinh sống, các loại cây trồng, vật nuôi và sản phẩm
nông nghiệp quen thuộc. Thường thấy các họa tiết dưới dạng ô nằm ngang với
đường viền là hình vng, chữ thập, đinh, cơng cách qng kết hợp với hình
quả trám, tam giác, trịn, xốy đơn, xốy kép (dấu móc hoặc chữ S), răng cưa,
đường cong, đường lượn sóng... Bên trong là các hình ngôi sao năm cánh 11


sáu cánh- tám cánh, hoa bí, hoa tỏi, hoa cà, hoa mận, hoa đào, hoa sen, mạng
nhện, cánh bướm, vảy cá, lá ngải cứu, cành tùng, búp tre, lưỡi câu, núi sông,
đuôi rồng, con ốc, con rắn, sừng dê... Những họa tiết này đều có màu sắc tươi
sáng, nhất là màu đỏ vừa tạo cảm giác ấm áp, hưng phấn cho người mặc khi
đi giữa rừng, trên núi cao, vực thẳm trong điều kiện khí hậu lạnh lẽo vừa
khiến người Hmông dù là Hmông Đen hay Xanh, Hoa, Đỏ đều nổi bật trước
đám đơng và chống ngợp mọi khơng gian, môi trường cho dù trên nương rẫy,
giữa buổi chợ hay lễ hội.
Tiểu kết: Hệ thống họa tiết hoa văn trang trí trên trang phục dân tộc
người Hmơng hàm chứa nhiều ý nghĩa và giá trị đặc sắc. Nó khơng chỉ góp
phần quan trọng làm nên vẻ đẹp của bộ trang phục mà còn thể hiện cả đời
sống vật chất và tinh thần của người Hmơng. Đó là một nguồn tư liệu quý giá
trong việc nghiên cứu dân tộc học và đáng được chúng ta quan tâm, tìm hiểu.

12



Chương II. HỌA TIẾT HOA VĂN TRÊN TRANG PHỤC CỦA
DÂN TỘC HMÔNG
2.1 Sự ra đời của hoa văn trên trang phục
Theo lời kể của Thào A Thề, 45 tuổi, bản Lả Khắt, xã Nậm Khắt huyện
Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái, nhóm Hmơng Hoa – phó bí thư đảng ủy xã, phó
trưởng họ Thào (dựa theo “Truyện cổ Mèo” của Dỗn Thanh, nhà xuất bản
Văn học năm 1963) thì cách lý giải vì sao có hoa văn trên vải của họ rất thú
vị. Họ cho rằng hoa văn trên váy của người phụ nữ chính là chữ viết của dân
tộc mình. Truyển kể rằng, xưa kia khi người Hmơng cịn sống ở Trung Quốc,
họ cũng có chữ viết riêng của dân tộc mình như người Kinh bây giờ. Sau vì
muốn chiếm đất và đồng hóa người Hmơng nên người Hán đã cho quân xâm
lược, đốt sách vở và cấm người Hmông đọc chữ. Người Hmông muốn ghi lại
lịch sử của mình cũng khơng được. Đang lúc chạy lên núi trốn sự truy lùng
của người Hán, vua của người Hmông lúc bấy giờ đã gặp một người phụ nữ
Hmông vẫn đang cặm cụi ngồi mải miết thêu bên suối, không hề để ý quân
Hán đang đuổi tới. Vua đã chợt nghĩ ra phương thức giữ lại chữ viết của dân
tộc mình bằng việc thêu lên váy người phụ nữ. Nhưng thêu thì lâu, nên khi
nhìn thấy một tổ ong bên đường, vua đã lấy sáp ong và vẽ vào váy người phụ
nữ. Từ đó, người Hmơng biết thêu và in hoa văn bằng sáp ong. Song do người
phụ nữ kia không biết chữ nên không biết ý nghĩa của chúng. Dù là truyền
thuyết, song câu truyện trên đã phản ánh được một phần lịch sử đau thương
của người Hmông và quan trọng hơn cả là nó đã cho chúng ta một thông tin
thú vị về nguồn gốc sự xuất hiện của hệ thống hoa văn họa tiết trên trang phục
của dân tộc họ.
Trang phục của người Hmông, đặc biệt là trang phục của người phụ nữ
không qua kỹ thuật cắt, khâu làm tôn rõ đường nét cơ thể như trang phục
người phụ nữ Thái mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp ở các mootip và trang trí màu
sắc hoa văn. Phụ nữ Hmơng là chủ nhân của nghệ thuật tạo hình trên nền
trang phục. Cả cuộc đời người phụ nữ gắn bó với cơng việc thêu, dệt vải và in
13



hoa văn. Em bé Hmông mới 9 – 10 tuổi đã được các bà các mẹ, các chị tập
cho thêu thùa:
Lớn lên anh theo cha đi cày nương.
Theo anh đi vào rừng săn thú
Lớn lên em theo mẹ tập thêu
Theo chị nhuộm chàm, in hoa trên váy mới.
Đến tuổi trưởng thành các thiếu nữ Hmông không tiếc thời gian, làm
đêm, làm ngày thêu bộ váy áo cưới. Tập quán của người Hmông đánh giá tài
năng, vẻ đẹp của người phụ nữ qua khả năng thêu thùa, qua bộ trang phục
trong lễ cưới. Tục ngữ Hmơng có câu Muốn biết người tốt xem gác bếp, muốn
xem người đẹp xem quần áo. Và nghề dệt vải, thêu hoa văn là thước đo giá trị
của người phụ nữ:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Gái xinh chưa biết cầm kim là hư.
Cô gái đẹp được quan niệm là cô gái phải thêu thùa khéo léo như trôn
ốc. Người giỏi thêu thùa được cả cộng đồng đề cao, coi trọng. Những đêm
trăng thanh gió mát hay bên bếp lửa hồng, từng tốp các cô gái quây quần bên
nhau học thêm, truyền dạy kinh nghiệm in sáp, tạo mẫu, ghép vải mới…Các
hình thức giúp đỡ truyền nghề này góp phần cho nghệ thuật thêu, ghép hoa
văn phát triển. Trước khi đi làm dâu, các cô gái được mẹ tặng cho bộ váy áo
như của hồi môn. Khi về nhà chồng, các cô gái phải chuẩn bị bộ váy áo tặng
mẹ đẻ và mẹ chồng. Váy thêu đẹp trở thành tài sản của người phụ nữ. Khi đã
thành người vợ, người mẹ, người phụ nữ Hmông vẫn tiếp tục thêu in nhiều
mẫu hoa văn, lo cho chồng con mặc đẹp. Hạnh phúc của mỗi gia đình được
phản ánh trong bức tranh sinh hoạt: người vợ ngồi thêu, người chồng thổi
kèn, tận tình giúp đỡ người vợ trong công việc thêu thùa:
Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy
Đầu nhà là nơi anh ngồi thổi sáo, múa kèn

Em in hoa mới khơng có sáp, anh ra chợ kiếm
14


Em thêu hoa mới, không biết đường anh cầm que vạch giúp.
Người vợ trở thành người mẹ lại có nghĩa vụ dạy con cái mình học
thêu. Đồng thời, con dâu lại được mẹ chồng, hay thậm chí là cả các chị chồng
nhiệt tình dạy bảo cách thêu thùa, in sáp ong. Vừa kế thừa nghệ thuật thêu,
trang trí hoa văn của nhà mẹ đẻ, cô dâu lại vừa tiếp thu nghệ thuật trang trí
hoa văn của gia đình nhà chồng. Khi trở về già, người phụ nữ vẫn lo cho mình
cả một bộ váy đẹp để về với tổ tiên. Cứ như vậy, nghệ thuật in thêu hoa văn
được bảo lưu, trao truyền nhiều thê hệ, bản sắc văn hóa riêng của dân tộc ln
phát triển. Dịng đời người phụ nữ qua đi, dịng hoa văn cứ chảy trơi mãi theo
bàn tay tài năng của họ. Qua bàn tay của họ – những người phụ nữ Hmơng,
nghệ thuật tạo hình trên nền trang phục xuất hiện với những nét độc đáo cả về
mặt bố cục, màu sắc.
2.2 Kỹ thuật tạo hình hoa văn trên trang phục
Để tạo được hệ thống hoa văn họa tiết sống động trên trang phục, người
Hmông sử dụng 4 kỹ thuật tạo hình chính là kỹ thuật thêu, kỹ thuật in sáp
ong, kỹ thuật ghép vải và kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc.
2.2.1 Kỹ thuật thêu
Kỹ thuật thêu của của người Hmơng có hai cách thêu lát và thêu chéo
mũi. Hai cách thêu này làm cho việc tạo nét mềm mại chủ động, phóng
khống, khơng bị gị bó trong kỹ thuật thêu luồn sợi, mầu, dựa theo thớ vải
ngang, dọc mà các dân tộc khác thường làm. Người phụ nữ Hmông thêu hoa
văn không cần mẫu. Chỉ dùng để thêu thường là sợi tơ tằm to, vừa bền sợi vừa
bền màu. Đặc biệt sắc màu óng nuột của tơ tằm làm vẻ đẹp của hoa văn thêm
mượt mà. Phụ nữ Hmơng có cái nhìn khái qt, giàu óc tưởng tượng, hồn
tồn dựa vào trí nhớ để thêu hoa văn. Người thêu đã thuộc sẵn màu hoa mình
thích, họ khơng cần nhìn mẫu mà vẫn thêu được những mơtip đẹp. Trước khi

thêu, họ phải tính tốn tỷ mỷ, đếm từng sợi chỉ, nhớ từng kích thước hoa văn
trong tồn bộ mảng trang trí. Vì vậy, ngay từ khâu dệt, người Hmông dệt tấm
vải nền theo một kỹ thuật sao cho các sợi chỉ khơng q xít, dành các khoảng
15


nhỏ thuận lợi cho việc đếm sợi, bố cục hoa văn. Kỹ thuật thêu hoa văn rất
phức tạp vì thêu ở mặt trái của vải nhưng hình mẫu lại nổi lên ở mặt phải, địi
hỏi người phụ nữ kiên trì, cẩn thận vì sơ ý nhầm một mũi kim, mũi thêu đã sai
lệch, làm cho mảng trang trí khơng tồn vẹn.
2.2.2 Kỹ thuật vẽ mầu in sáp ong
Công cụ dùng vẽ mẫu in sáp là dar drangtaz (loại bút vẽ bằng đồng).
Có ba loại bút vẽ khác nhau: loại nét nhỏ dùng để tỉa tót hoa văn là đarnrơ ư,
loại nét to vẽ đường thẳng đường diềm là đarchang zsang z, loại dùng vẽ hình
trịn, hoa văn con ốc là đarzes kưr. Cách in hoa văn bằng sáp khá đơn giản.
Sau khi nấu chảy sáp ong, nhúng bút lông vào sáp, vẽ hoa văn lên vải lanh
trắng. Vẽ xong đem vải đã in sáp đi nhuộm chàm. Sau nhiều lần ngâm nhuộm,
vải đã sấm màu thì đem vải nhúng vào nước sơi, sáp ong tan ra để lại những
hình hoa văn màu xanh lơ. Có nơi dùng khn in sáp ong, các khuôn này làm
bằng giấy do người Hmông tự chế tạo được bồi khá dày, trên khuôn in được
đục lỗ theo hình các hoa văn khác nhau rồi đổ sáp ong lên khn. Và sau đó
tiến hành nhuộm chàm như cách in vẽ, nhưng cách này làm hạn chế sự sáng
tạo của nghệ nhân.
2.2.3 Kỹ thuật ghép vải
Kỹ thuật này được người phụ nữ Hmông sử dụng để tạo thành các băng
dải, khoang vải màu khác nhau ở cổ áo, ống tay, nẹp ngực và cả khoang dài
gấu váy, vuông vải che váy (tạp dề). Kỹ thuật ghép vải khơng chỉ tạo ra các
khoang mảng màu mà cịn tạo ra các đường nét hoa văn. Trên hình chữ nhật ở
cổ áo người Hmông xuất hiện nhiều kiểu hoa văn hình học được tạo nên bằng
kỹ thuật ghép vải. Các đường nét hoa văn nhỏ, phức tạp ở yếm, cổ tay áo

cũng đều là ghép vải. Vải ghép thường có gam màu nóng hoặc vải trắng làm
diềm nhỏ bao bọc cho các môtip hoặc tự tạo thành một môtip riêng về hoa
văn. Người Hmông sử dụng một số miếng vải đỏ, vàng tiết diện nhỏ từ 0,5 –
1cm được viền xung quanh vải nền tạo thành các hình xếp nếp hoặc các
đường viên mơtíp chính. Người Hmơng cịn sáng tạo nhiều kiểu ghép vải.
16


Kiểu đơn giản nhất là chọn miếng vải màu đỏ, vàng hình tam giác, hình
vng, hình chữ nhật khâu lên gấu váy, mũi khâu giấu ở đằng sau miếng ghép
cùng với đệm lót và khâu gấp mép lên. Kiểu phức tạp là ghép các miếng vải
thành nhiều lớp với nhiều màu sắc khác nhau. Việc ghép những miếng vải này
thường làm từng lớp, mỗi lớp là một hoặc vài miếng vải cùng nhau, lớp dưới
có diện tích lớn hơn diện tích lớp trên.
2.2.4 kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc
Ở một số khăn của người làm Saman hoặc mũ áo của những đứa trẻ cầu
tự thấy xuất hiện hình thức ghép gắn những đồng bạc trắng, đồng xu nhỏ, hạt
cườm…tạo cho những chiếc khăn, mũ áo này có vẻ đẹp độc đáo, rực rỡ
nhưng mang tính biểu tượng. Mũ trẻ nhỏ Hmơng Hoa ở Mường Khương, trên
đỉnh đầu có thêu hình mào gà trống, theo quan niệm người Hmơng thì gà
trống là biểu tượng của vị thần cửa chống ma ác vào nhà, bảo vệ sức khỏe cho
trẻ nhỏ. Những quả bông đỏ trên mũ, những sợi tua nhiều màu sắc tượng
trưng cho cầu vồng ngăn thần rắn, ngăn những ma ở thể giới nước.
Các kỹ thuật tạo hình trên thường được người phụ nữ Hmông khéo léo
kết hợp với nhau tạo ra sự phong phú về hoa văn. Bên cạnh các đường vải
ghép đậm là đường thêu thanh mảnh, tạo cảm giác hoa văn luôn biến đổi liên
tục. Kết hợp các biện pháp kỹ thuật cịn góp phần tạo hiệu quả về màu sắc.
Màu xanh lơ nhạt của vải in sáp trở thành màu trung gian, dung hòa với các
màu đậm của vải ghép, chỉ thêu. Nhờ vậy mà màu sắc, đường nét mơtíp của
hoa văn có sự chuyển động khá phong phú, vui mắt và sống động.

2.3 Bố cục đồ án và màu sắc hoa văn
2.3.1 Bố cục
Cũng như hoa văn nhiều dân tộc khác, hoa văn của dân tộc Hmơng có
bố cục thành dải: dải ngang và dải dọc. Mỗi dải hoa văn thường có bố cục ở
giữa là môtip hoa văn thêu chủ đạo khổ lớn, phía diềm các vải là hoa văn thêu
có tiết diện nhỏ, hẹp, bề ngang, dọc. Dải ngang hoa văn xuất hiện trên thắt
lung, đầu tấm vải tạp dề, nằm trên ống tay áo. Trên nền chàm của váy, dải
17


ngang gấu váy rực rỡ hoa văn. Bố cục dải dọc hoa văn in sáp ong chạy song
song sát nhau trên thân váy, hay chạy thành dọc trên tạp dề.
Tập trung các dải thành khối dày là đặc điểm của bố cục thành dải trên
nền trang phục của người Hmông. Tạp dề ở phía trước và sau gồm nhiều dải
dọc chạy song song ken dày bên nhau tạo thành hai dải lớn. Thắt lưng là dải
ngang lớn. Gấu váy là dải ngang khổ rộng 15 – 20cm gồm nhiều mơtíp hoa
văn thêu ghép vải. Các môtip hoa văn không phân tán mà kề sát bên nhau
thành dải nhằm tôn thêm độ dày của các khối hoa văn. Các dải tập trung thành
mặt phẳng lớn, các môtip hoa văn ở giữa có khổ lớn. Để tránh tình trạng các
hoa văn bị tan trên nền váy chàm, chúng thường dược dồn lại, chồng xít thành
dải để trở thành một mảng lớn, vượt khỏi nền chàm, rực rỡ trên nền vải dân
tộc Hmông. Điểm đáng chú ý là các băng dải này được kết hợp với nhau
thành nhiều kiểu khác nhau, có băng dải mỏng xen với dải dày, có băng dải
hoa văn nằm trên nền thêu, kề dải hoa văn ghép vải.
Bên cạnh bố cục thành dải, một số trang trí của người Hmơng cịn có
bố cục thành ơ. Ở đây các hình hoa bốn cánh, tám cánh hoặc móc câu được
đóng khung trong các ơ trang trí hình vng, hình chữ nhật, hình thoi. Các ơ
này được bố trí đan xen với các dải hoa văn tạo nên sự phong phú đa dạng
cho các đồ án trang trí, khơng máy móc, đơn điệu mà ln sống động, góc
nhìn ln thay đổi.

2.3.2 Màu sắc
Màu sắc hoa văn trên vải phản ánh thẩm mỹ, tâm lý, cá tính, ước
vọng... trong cuộc sống của dân tộc Hmông. Bảng màu của người Hmông
gồm năm màu cơ bản: chàm thẫm thành đen, đỏ, vàng, trắng, xanh lơ. Để tạo
màu chàm sẫm, người phụ nữ Hmông phải tiến hành nhiều khâu từ luộc sợi
lanh với nước tro, ngâm sợi trong nước chàm và củ nâu nhiều lần tạo thành
màu chàm sẫm. Để thêm độ bóng, họ miết sáp ong vào vải và mài lên đá. Màu
chàm sẫm thường dùng làm nền cho hoa văn trang trí. Đơi khi có ít diềm

18


mỏng màu chàm chạy song song với diềm trắng ở dải hoa văn chính, Mục
đích là để tơn dải hoa văn, tô đậm cho màu sắc hoa văn thêm rực rỡ.
Màu đỏ là màu chủ đạo, vừa là màu nền trung gian vừa tạo các mơtíp
chính làm nên sắc màu rự rỡ của hoa văn trên vải trang phục. Thông thường,
màu đỏ đặt trên nền chàm sẫm gần như đen sẽ làm giảm bớt sắc độ của đỏ, đỏ
sẽ không tươi mà sẫm lại chìm vào nền chàm. Nhưng màu đỏ của váy áo
người Hmông Hoa, Hmông Đỏ vẫn cứ rực lên. Màu đỏ trước đây được
nhuộm từ nước một loại vỏ cây thảo mộc hoặc nhuộm từ cánh kiến, hiện nay
thì chủ yếu là màu cơng nghiệp. Màu vàng được nhuộm từ củ nghệ. Màu
trắng là màu nguyên bản của sợi lanh.
Bảng màu của người Hmông không rộng hơn bảng màu của các dân tộc
khác nhưng trang phục của người Hmông vẫn gây cho người xem cảm giác đa
sắc màu.
Phụ nữ Hmơng khơng chỉ dùng màu đỏ làm mơtíp hoa văn mà cịn làm
màu nền cho các mơtíp hoa văn. Màu đỏ trở thành một thứ nền cho các mơtíp
hoa văn. Màu đỏ trở thành một thứ nền trung gian đặt trên nền cơ bản của
màu chàm. Màu đỏ trung gian có tác dụng “ngăn chặn” nền chàm hút mất
mơtíp hoa văn. Đồng thời các dải hoa văn trên nền đỏ ấy lại có diện tích lớn

tạo thành các băng dải dày đậm “lấn át” chiếm chỗ nền chàm. Cùng với đặc
điểm của bố cục tập trung các dải thành khối dày, màu đỏ cứ rực lên, loang
rộng ra, thu hẹp diện tích màu chàm. Chất rực rỡ của hoa văn trên trang phục
của dân tộc Hmông được tăng thêm nhờ sự phối hợp màu đỏ với màu vàng
tạo thành các gam màu nóng được phát huy tối đa. Sự kết hợp này làm cho
họa tiết hoa văn trên trang phục người Hmông sống động hơn và tạo hiệu ứng
vui nhộn cho thị giác.
2.4 Hệ thống các mơtíp hoa văn trên trang phục người Hmông
Sống ở trên những vùng núi cao, gần với thiên nhiên nên hoa văn trên
vải của dân tộc Hmơng ẩn chứa và chuyển tải hình ảnh thiên nhiên, cảnh quan
sinh hoạt trong cuộc sống lao động hàng ngày, bao gồm cả thế giới động vật,
19


thực vật, đồ vật và các hiện tượng thiên nhiên. Tất cả đều được cách điệu và
thể hiện rất đẹp như các hiện tượng gió, mưa, sấm chớp, các con vật khổng lồ,
sự biến chuyển của mặt trời, của thời tiết hay sự biến chuyển của không gian
và thời gian trong vũ trụ quan.
Hệ thống hoa tiết được chia làm hai loại: hoa văn hình học và hoa văn
hiện thực.
2.4.1 Hê thống hoa văn hình học
Hoa văn hình học đơn thuần phục vụ thẩm mỹ với chức năng làm nền.
Hoa văn hình học khơng chỉ trang trí trên trang phục mà cịn ở các đồ dùng
khác của dân tộc Hmơng. Các mơtíp cơ bản có:
+ Nhóm hoa văn hình núi (hình rẻ quạt): thường trang trí làm nền và
xen kẽ giữa các hình thoi, tam giác, hình chong chóng trên thân váy, tạp dề.
+ Nhóm hoa văn hình răng cưa: nhóm hoa văn này thường là các
đường viền đóng khung trong các mảng hoa văn chính. Đây là nhóm hoa
văn có tần số xuất hiện trên vải người Hmơng.
+ Nhóm hoa văn chấm trịn nhỏ to khác nhau: nhóm này thường xuất

hiện trên thân váy của phụ nữ Hmông Hoa, Hmơng Đỏ in bằng sáp ong. Mơ
hình hoa văn của nhóm này chạy theo từng chuỗi dài vịng quanh thân váy,
các chấm này cách đều nhau tạo thành những hoa văn độc lập.
+ Nhóm hoa văn đường zíc zắc: thường được thêu, in sáp ong viền mép
xung quanh 1 ô trang trí trên váy, áo, và chỗ tiếp giáp giữa các phần với nhau.
+ Nhóm hoa văn những đường gạch song song: nhóm này nhìn chung
đơn điệu, thường những đường gạch dài thêu bằng chỉ màu, hay ghép bằng
vải màu tạo thành đường song song đóng khung cho mảng hoa văn chính như
hoa văn trên áo, váy, tạp dề.
+ Nhóm hoa văn hình vng: nếu ghép vải thì thường là hai hình vng
lồng ghép với nhau tập trung ở phần gấu váy và vai áo hoặc là những ô lớn
bao bọc các mảng in hoa văn sáp ong và thêu.

20


+ Nhóm hoa văn hình bát giác: bao quanh hình những bơng hoa hoặc
tạo thành hình đồng tiền, đồng tiền thủng.
+ Nhóm hoa văn hình tam giác: chủ yếu là hoa văn ghép với hai màu
đặc trưng là đỏ và vàng lồng lại với nhau.
+ Nhóm hoa văn hình chong chóng: Nhóm này có nhiều biến thể, có
khi là hình chữ thập hoặc là hình chong chóng. Mơtíp hoa văn này được in
sáp ong, thêu chỉ màu trên áo, váy, tạp dề.
+ Nhóm hoa văn hình xoắn ốc: là một trong những nhóm hoa văn
quan trọng ở đồ án hoa văn trang trí trên vải dân tộc Hmơng. Hoa văn hình
xoắn ốc đứng cặp đơi, cặp bốn, có khi là mơtíp hoa văn in sáp ở mảng chính
hoặc chạy xung quanh đóng khung cho mơtíp hoa văn chính.
+ Nhóm hoa văn hình chữ S: nhóm này thường được trang trí trên
váy, tạp dề nhóm Hmơng Hoa, Hmơng Đỏ. Mơtíp hoa văn hình chữ S có khi
là mơtíp hoa văn chủ đạo của một đồ án, có khi là đường diềm đóng khung

cho hoa văn chính.
Mười một nhóm hoa văn trên như những tín hiệu tạo nên từ vựng nghệ
thuật dân tộc Hmông.
Một đặc điểm dễ nhận thấy là các hoa văn hình học thường có tác dụng
làm nền cho các hoa văn chính. Nó giống như cái khung của một bức tranh
đẹp làm nổi bật ý đồ chủ đạo của nghệ thuật tạo hình.
Bố cục hoa văn hình học cịn có đặc điểm là sự kết hợp của nhiều mơtíp
hoa văn thành các tổ hợp hoa văn có tần số xuất hiện nhiều trên vải dân tộc
Hmông, nhất là trên váy, áo. Ví dụ tổ hợp mơtíp hình chữ S với răng cưa, tổ
hợp hoa văn hình đồng tiền xen giữa các đường gạch dài, mơtíp hình quả trám
xen giữa mơtíp đường thẳng song song.
2.4.2 Hệ thống hoa văn hiện thực
Nếu nhóm hoa văn hình học chỉ phục vụ cho nhu cầu thẩm mĩ thì nhóm
hoa văn hiện thực là phương tiện giúp người Hmông chuyển tải tư duy và thể
hiện những suy nghĩ về cuộc sống của mình.
21


+ Nhóm hoa văn hình người: mơtíp này khơng giống như mơtíp trên vải
của dân tộc Dao hay các dân tộc nhóm ngơn ngữ Tày – Thái. Trên vải, người
Hmơng chỉ miêu tả cách điệu từng phần cơ thể con người như tai người, bàn
chân.
Hoa văn động – thực vật:
+ Hoa văn hình con bướm: nếu là in sáp ong thì chỉ là 2 tam giác quay
đỉnh vào nhau, cịn nếu là thêu thì đường nét uốn cong theo dáng hình con
bướm.
+ Hoa văn con ốc: có thể được bố trí thành các hình xốy ốc dọc hay
ngang trên thân váy.
+ Hoa văn hình móng gà: loại này được trang trí trên ống tay áo, tạp
dề của người phụ nữ Hmơng. Giống như mơtíp hình người, hình gà trống

cũng chỉ đừng ở các bộ phận như móng gà, cựa gà, mào gà…
+ Hoa văn hình con cua: chạy thành từng băng vòng quanh ống tay áo,
cổ áo, tạp dề, hoa văn này biểu tượng cho sấm chớp.
+ Hoa văn hình con ốc hay cịn gọi là ốc rồng.
+Hoa văn hình con tằm: thường là hai hình vạch, vạch chéo nhau giống
như dấu X.
+ Hoa văn hình con kiến: hình lục giác có ba chấm nhỏ
+ Hoa văn hình chó nằm ngủ: là những đường thẳng vng góc và
những đường gấp khúc kết hợp lại với nhau tạo thành hình gần giống với hình
thoi, hoặc là các ngoặc lớn hướng ra ngồi.
+ Hoa văn hình vết chân chó
+ Hoa văn hình móng trâu
+ Hoa văn hình lá cây: hình dáng các loại lá cây trên trang phục của
người Hmông rất phong phú và nhiều loại đa dạng. Có khi chỉ là những tam
giác lồng vào nhau, có khi chỉ là những đường vạch chằng chịt tùy theo từng
loại lá.

22


×