Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Nhng dc dim van hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.99 KB, 10 trang )

Những đặc điểm văn hóa – xã hội truyền thống của các nước Ả Rập

Những đặc điểm văn hóa – xã hội truyền thống của các nước Ả Rập

Nền văn hóa và xã hội của một quốc gia phần lớn chịu ảnh hưởng của các điều kiện lịch sử, địa lý và
khí hậu. Bán đảo Ả rập chính là nơi hội tụ các điều kiện đó. Thứ nhất, về vị trí địa lý, bán đảo nằm ở một
vị trí rất đặc biệt: nằm ở ngã ba nối liền ba châu lục lớn là châu Á, châu Âu, châu Phi nên nó là đầu mối
giao thơng tấp nập nhất thời cổ đại, là nơi tiếp xúc của hai khu vực văn minh phương Đông và phương
Tây. Hơn thế nữa, nơi đây có nhiều dầu mỏ vào loại bậc nhất thế giới (khoảng 90 tỉ tấn). Do vị trí rất đặc
biệt nên vùng đất này có sức hấp dẫn đối với nhiều dân tộc, các đế chế lớn đã thay nhau nắm giữ vùng
đất này. Vào đầu thế kỷ XIX, Napoleon Bonaparte (Pháp) từng tun bố: Ai kiểm sốt
đượcConstantinople – người đó cai trị được thế giới. Hitler cũng từng có kế hoạch lớn và cũng đã từng
thất bại trong mưu đồ kiểm soát Địa Trung Hải [10, 55]. Thứ hai, về điều kiện tự nhiên, do phần lớn diện
tích bán đảo là vùng sa mạc rộng lớn (chiếm 80% diện tích) cho nên nó nằm tương đối tách biệt với văn
minh châu Á và các trung tâm văn minh khác trên thế giới. Thứ ba, về điều kiện khí hậu, do nằm trong
vùng có khí hậu nhiệt đới nên bán đảo rất nóng và khơ. Nhiệt độ ở đây dao động trong khoảng từ 30 –
60 oC, lượng mưa rất ít, dưới 200 mm, ngoại trừ vùng đồng bằng ở rìa Tây Nam bán đảo là nơi có lượng
mưa khá lớn, tạo thuận lợi cho nông nghiệp phát triển mạnh.
Những đặc điểm đó đã dẫn đến một hệ quả quan trọng: Ả rập đủ cách xa châu Á để thoát khỏi ảnh
hưởng bên ngoài, nhưng lại dễ dàng tiếp thu cái bên ngồi đó, kết hợp với yếu tố bản địa để hình thành
một nền văn hóa, một hình thái – cấu trúc xã hội riêng, mang đậm chất Ả rập. Vì vậy, bài viết này bước
đầu tìm hiểu và đưa ra một số nhận định ban đầu về đặc điểm văn hóa – xã hội truyền thống[1] của Ả
rập, giới hạn ở một số nước Ả rập lớn như Saudi Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Tunisia…
1.

Những đặc điểm của văn hóa các nước Ả rập

Đặc điểm thứ nhất: Văn hóa Ả rập là nền văn hóa tương đối thuần nhất – Cộng đồng Hồi giáo
(Ummah).
Sự hình thành cộng đồng người là đặc điểm đầu tiên của văn hóa Ả rập truyền thống. Từ thời xa xưa,
những cư dân đầu tiên đã xuất hiện sớm ở bán đảo Ả rập. Về sau, khi các tộc người khác tràn vào và


đồng hóa họ, một số người lãnh đạo cao nhất của các bộ tộc đã nảy ra ý tưởng hợp nhất các bộ lạc phân
tán lên thành một thể thống nhất, một cộng đồng thống nhất. Qua một thời gian dài suy nghĩ, tìm tịi,
cuối cùng Muhammad – người sáng lập ra Hồi giáo – đã thực hiện thành công ý tưởng này của các bậc
tiền nhân để lại. Tương truyền trong lần hành hương về Medina vào năm 622, Muhammad đã cho đoàn
kết các bộ lạc lại với nhau, biến khối Ả rập thành một cộng đồng vững mạnh mà người Hồi gọi
là ummah (Cộng đồng Hồi giáo), với danh nghĩa là mệnh lệnh của Allah để thi hành.
Ummah (Cộng đồng Hồi giáo) ra đời do yêu cầu bảo vệ con người khỏi các mối đe dọa bên ngoài, mối
liên hệ mang tính huyết thống và có sự tăng cường bởi niềm tin tơn giáo cuồng nhiệt của tín đồ. Đối với


người Hồi, sự ra đời của ummah thật sự đã làm thay đổi nhận thức của họ, từ lòng trung thành Allah của
cá nhân ban đầu sang hình thành cộng đồng thống nhất. Từ ummah, Muhammad cơng bố trước tồn
thể tín đồ Hồi giáo một hình thức tổ chức tơn giáo mới, trong đó nhấn mạnh tình đồn kết giữa anh em,
bạn bè giữa những người Hồi với nhau.
Ummah được tổ chức theo nguyên tắc đồng thuận (ijma), đồng tình theo đa số. Khác với tổ chức
nhà thờ Công giáo vốn theo nguyên tắc dân chủ, thì với người Hồi, không một cá nhân hay tổ chức nào
thể hiện được ý chí của ummah. Thay vào đó, sự chồng chéo các ý kiến độc lập của các học giả Hồi giáo,
sự liên kết lỏng lẻo của họ đã phản ánh sự đồng thuận của ummah. Trong trường hợp ý kiến đa số không
được chấp thuận, ummah sẽ thuận theo ý kiến thiểu số. Các tổ chức, các cơ quan nhà nước hình thành
theo nguyên tắc này. Phạm vi ummah lan rộng qua chủ yếu ở các khu vực, ngôn ngữ, nhà nước, những
nơi mà người Hồi cho là ý kiến đa số có nhiều hơn. Ummah ở Ả rập có sự bình đẳng rõ rệt: bình đẳng
giới giữa nam và nữ, kêu gọi sự gia nhập của dân tộc khác vào (Do Thái, Thiên Chúa), thể hiện sự hòa
hợp cao [9, 535 – 536].
Mặc dù là cộng đồng thống nhất, nhưng sự thống nhất chỉ là tạm thời. Muhammad trong thời gian
tạo dựng ummah đã lo ngại về tính thống nhất của Cộng đồng và cho rằng, nó sẽ tan rã ngay sau khi Hồi
giáo ra đời. Với các sự kiện như mâu thuẫn về đặt người kế vị cho tiên tri, Ali và Husayn bị ám sát và cuối
cùng là hai phái Shiites và Sunni ra đời (cuối thế kỷ VII), ummah đã đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của
mình, làm cho thế giới Hồi giáo tan rã và rơi vào một loạt các bất ổn triền miên. Hiện nay, Hồi giáo có tới
72 giáo phái khác nhau và phái Shiites và Sunni là 2 giáo phái lớn, chiếm số đơng tín đồ mộ đạo nhất. Có
93% người Hồi ở Iran theo phái Shiites, còn Hồi giáo ở Iraq thì theo phái Sunni, và giữa hai nước này có

cuộc nội chiến Shiites – Sunni kéo dài 10 năm ròng, hao người tốn của.
Đặc điểm thứ hai: tiếp thu văn hóa nước ngồi.
Do nằm ở vị trí là cầu nối giữa ba châu lục Á – Âu – Phi, người Ả rập có điều kiện thuận lợi để tiếp
xúc, giao lưu với văn hóa của 3 vùng đất này. Điều này phù hợp với họ, vì ngay từ thời xa xưa, người Ả
rập cũng như người dân ở các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan… có truyền thống
hiếu học, nhạy bén, nhanh chóng học hỏi, nghiên cứu cái mới, không để lỡ mất thời cơ. Họ tiếp thu các
thành tựu của văn hóa bên ngồi, đặc biệt là thành tựu văn hóa Hy – La để hình thành nền văn hóa
riêng, đậm chất Ả rập.
Nền khoa học – kỹ thuật của Ả rập chịu ảnh hưởng lớn từ nền khoa học Hy Lạp. Thời Abbasid, chính
quyền đã thành lập một trung tâm khoa học lớn, thu hút các nhà trí thức, nhà bác học từ khắp nơi về
đây học tập, nghiên cứu và dịch thuật. Người dịch nhiều nhất lúc đó là Hunain Ibn Ishaq (809 – 873). Ơng
nói rằng đã dịch hơn 100 tác phẩm của Galienus, Aristotle, Platon… từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Ả rập. Đến
giữa thế kỷ X, họ dịch hầu hết các tác phẩm về Thiên văn học, Toán học, Y học của Hy Lạp ra tiếng Ả rập.
Những cơng trình nghiên cứu của họ trình bày những ý tưởng mới, táo bạo, có logic rõ ràng, ngược hẳn
với giáo lý của nhà thờ Thiên Chúa giáo ở La Mã thời trung cổ. Về toán học, do dịch được cuốn
“Siddhatas” của Ấn Độ, người Ả rập biết được hệ thống chữ số Ấn Độ và dần hồn thiện. Khơng những
kế thừa và phát triển, người Ả rập còn biết sáng tạo. Chữ số “0” (thế kỷ X), tỉ số lượng giác (sin, cosin,
tang, cotang) (thế kỷ IX), nước cất (al – ambik) đầu tiên….đều do người Ả rập sáng tạo ra.


Tôn giáo của Ả rập cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ các tơn giáo nước ngồi. Khi Hồi giáo ra đời ở Ả
rập, Muhammad đã khuyến khích các tín đồ học tập tín ngưỡng – phong tục của các tôn giáo khác để về
truyền lại cho tôn giáo ông. Tin lời ông, nhiều thương nhân Ả rập đổ xô ra ngồi để trao đổi bn bán.
Nhờ các hoạt động đó, họ đã học tập được tín ngưỡng thờ độc thần của Do Thái giáo (thần Yahweh), của
Bái Hỏa giáo (thần Ahura Mazda) để hình thành tín ngưỡng thờ một vị thần duy nhất (thờ độc thần)[2]:
thánh Allah. Họ cũng đã giúp nhà Tiên tri cải biên 3 lễ tục hành hương của người Do Thái[3] rắc rối thành
một tục hành hương của người Hồi. Tục bố thí của tín đồ Phật giáo cũng được các thương nhân Ả rập
tiếp thu, về sau thì dựa theo tình hình bán đảo mà dần dần biến nó thành một trong 5 cột trụ của Hồi
giáo.
Đặc điểm thứ ba: Ảnh hưởng của tôn giáo, cụ thể hơn là Hồi giáo, người Ả rập tuyệt đối tin

tưởng, tôn thờ Allah – vị Chân chủ của họ.
Thật vậy, đặc trưng lớn nhất của văn hóa Ả rập Hồi giáo đó là tuyệt đối tơn thờ, tin tưởng vào thánh
Allah. Giống như các tôn giáo khác như Phật giáo, Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Đạo Hồi khuyên tín đồ phải
làm việc tốt, tùy theo mức độ được được trọng thưởng hay trách phạt. Theo Kinh Koran, điều quan
trọng nhất của Hồi giáo đó là tín đồ phải có hành vi trong sáng, khơng chỉ là cầu nguyện mà cịn phải làm
gì để đóng góp cho xã hội. Để trở thành một người Hồi giáo tốt, một người Hồi giáo chân chính thì sẽ thể
hiện qua tình yêu, cách ứng xử của họ với thiên nhiên, con người. Ở Nhật Bản, các tín đồ đạo Thiền (Phật
giáo) đã có tình yếu, đối xử tốt với thiên nhiên, tiêu biểu là các Vườn đá Nhật. Ở Ấn Độ, các tín đồ của
đạo Phật, đạo Jaina yêu thiên nhiên, các sinh vật. Họ thực hiện rất nghiêm túc: cởi trần, đi đứng cẩn thận
để không dẫm chết các sinh vật nhỏ, ăn thức ăn đạm bạc và không được giết người. Do chịu ảnh hưởng
của tính tổ chức cộng đồng ở phương Đơng, văn hóa các nước Ả rập theo Hồi giáo rất nhấn mạnh sự
đoàn kết, yêu thương đùm bọc giữa những người Hồi với nhau, khác hẳn với văn hóa phương Tây là theo
xu hướng vật chất, trọng cá nhân, ít chú ý đến gia đình, bạn bè, hàng xóm…, coi đó là chìa khóa duy nhất
để xây dựng một cộng đồng dân tộc, một nhà nước Ả rập vững mạnh. Trong gia đình, có lẽ do chịu ảnh
hưởng của thuyết “tam cương ngũ thường” trong Nho giáo và văn hóa phương Đơng, người Hồi giáo Ả
rập rất chú trọng nhấn mạnh tôn ti trật tự của họ. Trong gia đình, con cái phải nghe lời ơng bà, cha mẹ.
Người già trong gia đình ln được kính trọng, vị nể. Ở cộng đồng cũng vậy, người nhỏ tuổi, người trẻ
ln kính trọng người cao niên, người có quyền cao chức trọng. Ở các quốc gia theo chế độ quân chủ,
người dân rất thành kính, kính trọng các vị quốc vương Hồi giáo, đặc biệt họ rất coi trọng các giáo sĩ, học
giả Hồi giáo (ulama), vì những người này được xem là hiện thân của Allah và Tiên tri Muhammad, thay
mặt hai vị này xuống rao giảng về Hồi giáo, phong tục tập quán, giúp tín đồ Hồi giáo củng cố vững chắc
niềm tin của minh vào đạo Hồi.
Thánh đường Hồi giáo (masjid) là nét văn hóa đặc sắc nhất của người Hồi giáo mộ đạo. Ở các nước Ả
rập Hồi giáo, các thánh đường bao giờ cũng được xây dựng cơng phu và trang hồng thật đẹp vì theo
quan niệm của người Hồi, nhà cửa để ở cho một kiếp người thì xây như thế nào cũng được, nhưng nhà
cửa của thánh Allah thì phải trang hồng cho thật đẹp. Trước thánh đường sẽ có một sân vng có hồ
nước, nơi tín đồ được tẩy uế trước khi cầu nguyện. Ở góc sân hướng về Mecca là thánh đường. Nó được
xây theo kiểu hình vng có mái trịn. Phía trong thánh đường có khám thờ, giảng đường, giá đặt kinh
Koran. Trong thời kỳ đầu, thánh đường được trang trí bằng hình kỷ hà, hình hoa lá. Về sau, khi lệnh cấm
được nới lỏng, họ chuyển sang trang trí bắng hình chim, thú, động vật tưởng tượng nửa chim nửa thú



[11, 55 – 56]. Sự ra đời của thánh đường đã đáp ứng yêu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân, nhất là
những người theo Hồi giáo. Người ta có thể vào bên trong thánh đường, dưới mái vịm hoặc bể nước để
trị chuyện, hội họp. Trẻ em thì đến đây học tập nếu nơi ở của chúng không có trường học. Kiến trúc
theo kiểu quần thể gắn liền liên kết chặc chẽ với nhau cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa Hồi giáo với đời
sống chính trị, văn hóa và xã hội. Người Hồi nào cũng muốn sống quy tụ ở những nơi có thánh đường.
Luật Hồi giáo quy định, các tín đồ phải đến cầu nguyện vào trưa thứ sáu hàng tuần ở Đại thánh đường.
Như vậy, văn hóa của người Hồi nói chung chiu ảnh hưởng từ tôn giáo của họ.
Đặc điểm thứ tư: Tuân thủ pháp luật, đặc biệt là luật pháp Hồi giáo
Sự tuân thủ pháp luật, đặc biệt là luật Hồi giáo là một đặc điểm của văn hóa Ả rập truyền thống. Do
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên phần lớn người Ả rập sống du mục, nay đây mai đó. Cuộc sống du cư
của tổ tiên người Ả rập khi xưa đã dẫn đến việc đòi hỏi con người phải sống có tổ chức, tuân thủ kỷ luật
chặt chẽ, sớm dẫn đến hình thành nếp sống theo luật pháp. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Theo các tài
liệu Ả rập cổ, ngay từ trước khi nhà nước ra đời, người Ả rập đã tuân thủ một bộ luật pháp không thành
văn do các thị tộc, bộ tộc đưa ra để quản lý chung. Khi nhà nước ra đời, Muhammad dựa vào các tập
quán cổ xưa đó, san định và lập thành luật Shari’ah, lấy danh nghĩa thánh Allah ban hành. Nội dung bộ
luật đề cập đến 11 nội dung[4], trong đó 3 nội dung quan trọng là thừa kế tài sản, hơn nhân gia đình và
xét xử người phạm tội. Ngồi ra, luật cịn quy định 5 hành vi đạo đức của con người như: (1) nghĩa vụ
tuyệt đối; (2) tán thưởng; (3) cho phép làm; (4) khiển trách và (5) nghiêm cấm, xem như là tiêu chuẩn
cần thiết để đánh giá đạo đức của tín đồ. Mọi tín đồ Hồi giáo phải chấp hành nghiêm chỉnh 5 hành vi
này, nếu không sẽ bị trừng phạt nặng. Sự ra đời của bộ luật này có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống của
người Ả rập. Một mặt, nó giúp họ tạo dựng một cấu trúc xã hội hoàn chỉnh, ổn định đời sống nhân dân
để hướng đến mục tiêu xây dựng nhà nước Ả rập vững mạnh; mặc khác do được tiếp thu từ bên ngoài,
bộ luật được đánh giá cao về nội dung, phương pháp thực hiện và có ảnh hưởng lớn khơng chỉ đối với
cuộc sống tơn giáo mà cịn đối với đời sống thường nhật của người Ả rập.
Trong đời sống tơn giáo, tín đồ Hồi giáo thực hiện đầy đủ 5 cột trụ Hồi giáo mà luật Hồi giáo quy
định, riêng phụ nữ được miễn việc thực hiện một số điều trong các cột trụ như: miễn dâng lễ nguyện,
miễn nhịn chay trong thời gian sinh đẻ, miễn dâng lễ nguyện trong thánh lễ Trưa thứ sáu. Trong đời sống
thường nhật, người Hồi giáo coi trọng lễ nghĩa: con cái trong gia đình phải u thương, kính trọng ơng bà

– cha mẹ, anh chị, bà con lối xóm. Người già trong gia đình được kính trọng. Phụ nữ Ả rập thì sống phụ
thuộc vào đàn ông và bị hạn chế quyền lợi nhiều. Họ sống thui thủi trong nhà và chịu sự giám sát của
nhà chồng cho đến cuối đời. Khi ra ngoài, họ phải mặc áo dài, che kín mặt và phải có người đi cùng.
Trong cộng đồng, dù ở nông thôn hay thành thị, người dân Ả rập luôn luôn chào hỏi nhau, thương u
nhau vì theo luật Hồi, tơn trọng, u thương lẫn nhau chính là yêu thương, kính trọng Allah. Trong thức
ăn, nước uống của người Hồi, các tín đồ sẽ dùng được (Halal) những đồ ăn, thức uống sạch sẽ, cịn
khơng dùng được và bị cấm thì gọi là Haram. Họ khơng ăn thịt lợn, thịt bị, xác chết vì cho rằng những
thứ đó ơ uế, có hại cho sức khỏe. Về ăn mặc, đàn ông được mặc áo dài trắng, đội khăn vấn; phụ nữ thì
mặc áo thụng nhiều và che mặt.
Đặc điểm thứ 5: Trong nền văn hóa Ả rập, tín ngưỡng – thực tế được hịa nhập thành một thể
thống nhất. Ta có thể chứng minh điều này qua văn hóa ứng xử của họ. Lịch sử đã từng có chuyện như


vậy. Có một người khách cùng đi du lịch với nhà Tiên tri. Khi hai người dừng lại để nghỉ qua đêm, đột
ngột người khách hỏi ông: Tôi nên cột lạc đà lại hay là nên tin vào Allah ? Ông trả lời: Tin vào thánh Allah,
đồng thời hãy cột chặt lạc đà của ơng lại. Ta phân tích câu chuyện này. Nếu người khách tin vào Allah thì
họ chẳng cần để ý việc cột chặt lạc đà hay không, vì Allah là thánh tồn năng, mọi vật đều đi theo ý chí
của Người. Nếu khơng cột thì lạc đà sẽ đi mất; cịn nếu cột vào thì sẽ an tồn, đồng nghĩa với việc người
khách này khơng tin vào Allah. Và nếu tin vào Allah, thì ơng ta chỉ cần cột chặt lạc đà lại mà thôi. Tin vào
thánh Allah, đó là việc thuộc về thế giới tín ngưỡng, cột lạc đà lại là việc của thế giới thế tục. Thông qua
câu trả lời của nhà Tiên tri, hai thế giới này đã giao hòa lại một cách tự nhiên. Có lẽ khơng gì có thể nói rõ
văn hóa ứng xử của người Ả rập hơn trong câu chuyện này: Tín ngưỡng trong thực tế, thực tế trong tín
ngưỡng, hịa tín ngưỡng vào thực tế thành một thể thống nhất.
Sự giao hịa khéo léo giữa tín ngưỡng và thực tế có thể thấy rõ trong kinh Koran. Khác biệt lớn nhất
giữ kinh Koran với các kinh thánh khác là nó rất coi trọng lợi ích vật chất con người và yêu quý cuộc sống
của họ. Kinh Koran cho phép mọi tín đồ được làm những gì mình u thích, miễn là những việc đó phải
phù hợp với tín ngưỡng của đạo là được. Ngoài ra, một số đoạn trong kinh có nhắc đến cơng lao của
Allah trong việc giáo hóa con người, kêu gọi con người cần có hành động tích cực để báo đáp cơng ơn
của Allah. Kinh quy định, phàm những sự đói khát và mệt mỏi của họ vì Allah mà gặp phải, sự cố gắng
chiến đấu chống lại người ngoại đạo để giữ đạo đều được ghi công. Công sức họ bỏ ra được đền đáp

xứng đáng.
Ngoài kinh Koran, một số tập tục khác của tín đồ cũng thể hiện rõ đặc điểm này. Đối với tập tục cầu
nguyện (Salat), các tín đồ khi thực hiện đều phải tuyên xưng rằng Allah là vị thánh duy nhất, thánh toàn
năng, cầu xin Ngài ban phước lành, ban cho sức khỏe, niềm tin để họ vững tin với tơn giáo mình đã
chọn. Việc cầu nguyện đó đã giúp tín đồ đạt vào trạng thái cân bằng tâm sinh lý, thể hiện một sự giao
hòa gần như tuyệt đối giữa con người (hiện thực) với Allah (tín ngưỡng). Khi cầu nguyện kết thúc, tín đồ
sẽ nói cụm từ “amen” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Allah, vững tin vào đạo của mình. Tập tục hành
hương (hajj) cũng vậy. Hành hương là nhiệm vụ thiên liêng và là trách nhiệm đối với người Hồi giáo.
Trong khi hành hương, ngồi việc tiến hành các hoạt động tơn giáo thơng thường, các tín đồ cũng có sự
giao lưu với bên ngồi. Một số tín đồ hành hương từng chứng kiến nhiều chức sắc Hồi giáo, tín đồ Hồi
giáo khác trò chuyện, giao lưu với khách thập phương khi họ (khách thập phương) đặt chân đến thánh
địa Mecca, qua đó họ biết thêm nhiều về phong tục – tập quán, văn hóa của những người khách thập
phương để từ đó họ áp dụng, chỉnh lý giáo lý Hồi giáo cho phù hợp với tình xã hơi – văn hóa Ả rập lúc đó.
Văn hóa ẩm thực, trang phục của người Ả rập cũng thể hiện rõ đặc điểm này. Về trang phục, người Ả
rập cho rằng trang phục của họ chỉ mang tính biểu tượng, thể hiện mối quan hệ giữa con người với đất
đai, với quá khứ và Hồi giáo. Đó là áo trùm kín rộng rãi phản ánh sự thiết thực của cuộc sống sa mạc và
sự nhấn mạnh của đạo Hồi. Kèm theo đó là một mảnh vải vng phủ trên đầu và có 2 loại: shimagh và
ghutra[5]. Phụ nữ mặc áo chồng phủ kín người được trang trí bằng các đồng xu, mảnh kim loại hay
đồng tiền vàng và nhất thiết phải dùng khăn che mặt.
2. Những đặc điểm xã hội các nước Ả rập


Dù trải qua nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng các nền xã hội Ả rập, đặc biệt là nền các xã hội mang
đậm chất Ả rập Hồi giáo. Điều đó là kết quả của luật Hồi giáo Shariah, mà như ta đã nói, nó chi phối mọi
mặt đời sống xã hội và cả cá nhân người Ả rập theo Hồi giáo.
Đặc điểm thứ nhất: Nếp sống mang tính cộng đồng, tập thể cao
Lối sống của người Hồi giáo là lối sống cộng đồng. Mối quan hệ con người gần gũi và tình cảm cộng
đồng là điều rất quan trong trong bất kỳ xã hội Hồi giáo nào. Người ta luôn giành thời gian tiếp xúc với
láng giềng, bạn bè, trao cho nhau những lời nói ân tình và nụ cười vui vẻ sảng khoái sau những buổi làm
việc mệt nhọc. Trong giao dịch, họ luôn giành thời gian để hỏi thăm nhau, trao đổi các thơng tin về gia

đình mình. Tuy gia đình Hồi giáo là khơng gian rất riêng tư, nhưng thơng tin về gia đình của một ai đó
được người ta hết sức quan tâm. Khi làm quen với một người Hồi giáo, câu đầu tiên cho bạn là “Anh đã
có vợ chưa ?”. Nếu câu trả lời là rồi, thì tiếp theo sẽ là “Anh có con chưa ?” và tiếp tục như thế cho đến
khi người ta hình dung được gia đình của bạn là như thế nào mới thôi. Nếu câu trả lời là chưa, người ta
sẽ bày tỏ thái độ thông cảm với nỗi đau của bạn, bởi vì theo quan niệm người Hồi, một người khơng có
gia đình và con cái thì đó là bi kịch. Những câu nói cửa miệng của người Hồi “Theo ý Allah” bộc lộ một
thái độ sống mà trong đó thời gian và thời hạn là hai thứ co dãn linh hoạt.
Có thể nói, nếp song mang tính cộng đồng được quy định cụ thể bởi giáo lý trong kinh Koran. Các
giáo lý đó liên quan đến trách nhiệm xã hội, yêu cầu các tín đồ phải đối xử với nhau bằng lòng nhân từ và
quan tâm đến người khác. Hồi giáo đã diễn giải các yêu cầu đó, xác định trách nhiệm và quyền lợi cá
nhân trong một loạt các mối quan hệ khác nhau. Trong số nhiều mối quan hệ đó thì bổn phận đầu tiên
của người Hồi là với gia đình trực tiếp của mình, rồi kế đến là những người họ hàng gần gũi, bạn bè,
hàng xóm, những người nghèo khó trong cộng đồng, các tín đồ khác ở cộng đồng địa phương nói riêng
và cộng đồng Hồi giáo nói chung [4, 7 – 8].
Thánh đường chính là một nét nổi bật trong lối sống cộng đồng của người Hồi. Nó thường được xây
ở trung tâm làng xóm, chợ búa, thành thị… Nhiều thánh đường đầu tiên được xây từ các nhà thờ Thiên
Chúa giáo, Do Thái giáo cùng với sự nhất trí của giáo đồn đó. Thánh đường vừa là nơi cầu nguyện, là
trường học, là nơi thu tiền bố thí và hơn thế nữa, nó cịn là nơi hội họp của các tín đồ người Ả rập Hồi
giáo. Người ta thường đến đây vào lúc rảnh rỗi để trò chuyện, hội họp và cầu nguyện. Trẻ em được đến
học tâp, dạy dỗ trong thánh đường bởi các thầy giáo (sheikh), những người sẽ đảm bảo việc giáo dục
chúng trên nền tảng kinh Koran và Hadith. Đặc biệt vào ngày thứ sáu, những tín đồ sẽ phải đến đây cầu
nguyện, cầu phúc lành cho mình .[5, 165 – 166]
Đặc điểm thứ hai: Làm điều thiện
Tấm lịng u thích làm điều thiện của người Ả rập đã nổi tiếng khắp thế giới. Ngay cả ngày nay, nếu như
một người qua đường nhiệt tình khen ngợi một vật nào đó, anh ta sẽ tặng nó ngay cho người đó. Lần giở
lại các điển tích Ả rập, kinh Koran, người ta sẽ cảm nhận được tinh thần đó của họ. Tương truyền trong
lịch sử đã có chuyện như vậy. Thời Khalip Ả rập Al – Mutawakkil (847 – 861), có một người thợ giày tên là
Muhammad Ibn Hosen vì năng làm việc thiện nên hàng ngày làm 20 cái bánh đa, khắc tên mình lên mỗi
chiếc bánh rồi để chúng lên trên một chiếc thuyền gỗ thả trên sống cho nó trơi theo dịng nước. Một
năm rưỡi sau, bỗng anh được Khalip vời đến. Anh vừa thấp thỏm vừa lo âu khơng biết chuyện gì sẽ xảy



đến với mình. Khơng ngờ Khalip gặp được anh, hỏi về chuyện làm bánh thả trên sông rồi bảo: “Anh biết
kiên trì làm việc thiện, đáng được đền đáp”. Rồi lập tức Khalip ban tặng cho anh 5 thôn trang lớn
ở Baghdad. Thì ra một người con ni của Khalip đi bơi và gặp nạn, bị nước cuốn vào bãi hoang ở
sơng Tigris. Trong lúc chờ đợi cứu viện, chính những chiếc bánh đa trôi từ thượng nguồn về đã cứu anh
thoát chết. Để đền ơn cứu con, Khalip đã ban tặng cho người thợ đóng giày số đất đai đó. Sau sự kiện
đó, nhà Hosen trở nên giàu có, con cháu của anh đời đời được hưởng phước.
Tục làm điều thiện ở Ả rập xuất hiện từ lâu đời. Từ trước khi nhà nước Ả rập ra đời, người dân sống theo
lối du mục, nay đây mai đó và luôn thiếu thốn mọi thứ trong điều kiện sống khắc nghiệt. Trong quá trình
đấu tranh với điều kiện sống khắc nghiệt đó, người Ả rập dần hình thành tập tục sẵn lịng làm việc thiện,
bố thí, “nhường cơm xẻ áo” đối với người nghèo khó mà về sau nó đã biến thành 1 trong 5 cột trụ của
Hồi giáo: tục Bố thí (Zakat). Người dân bố thí cho người nghèo để thể hiện tấm lòng yêu thương con
người, nhất là những người nghèo khổ. Mặc khác, người dân làm việc thiện là để sám hối cho các hành
động trước đây của họ. Theo Hồi giáo, số phận con người do Allah quyết định. Mọi việc tốt hay xấu của
họ đều được Allah phán xét, định đoạt, người nào làm việc tốt thì lên thiên đàng, ngược lại sẽ bị đày đọa
ở địa ngục. Người làm được nhiều việc thiện thì sẽ được hưởng cuộc sống an nhàn, hạnh phúc và có khi
nhận được sự hậu tạ của những người mà họ từng giúp đỡ. Ngoài ra, tục nhịn ăn (Ramadan), hành
hương (hajj) cũng thể hiện rất rõ việc “làm điều thiện” của con người. Người Hồi giáo coi việc nhịn ăn
trong tháng chay Ramadan là “ghi lại dấu ấn của mỗi con người. Dấu ấn này không phải in trên mặt đất,
mà ở trong lòng mỗi con người”. Nhịn ăn trong tháng Ramadan giúp tín đồ cảm nhận mùi vị đói khát để
đồng cảm với người nghèo khổ. Tục hành hương nhằm mục đích giúp tín đồ có tâm hồn trong sạch để có
thể hịa nhập, giao tiếp được với Allah. Người hồn thành nghĩa vụ đó thì được gọi là “Hajji”, và được
mọi người chào đón nồng nhiệt.
Đặc điểm thứ ba: Địa vị thấp kém của phụ nữ trong xã hội các nước Ả rập
Trong xã hội Ả rập Hồi giáo, phụ nữ Ả rập có vị trí rất thấp kém và bị xã hội coi khinh. Kinh Koran quy
định rõ địa vị giữa đàn ông và đàn bà:"Đàn ơng có quyền đối với đàn bà vì Chúa đã sinh ra đàn ơng cao
q hơn đàn bà và vì đàn ơng phải bỏ tài sản của mình ra để nuôi họ. Đàn bà tốt phải biết vâng lời đàn
ông vì đàn ơng săn sóc cả phần tinh thần của đàn bà. Đối với những phụ nữ không biết vâng lời, đàn ơng
có quyền ruồng bỏ, khơng cho nằm chung giường và có quyền đánh đập” [7, 4:34, tr.84]. Trong gia đình,

người vợ phải là người mẫu mực, biết vâng lời và làm những việc mà gia đình chồng cho phép. Ngồi ra,
họ cịn phải giữ gìn danh dự cho nhà chồng. Người vơ phải đoan trang, thùy mị và nếu có các biểu hiện
thiếu đúng đắn, họ sẽ bị trừng phạt ngay lập tức. Khi ra đường, họ sẽ phải che mặt lại. Về lý do che mặt,
có tác giả cho rằng, ngày xưa đàn ông cũng dùng khăn đó để che mặt chống cát sa mạc. Nhưng sau đó,
phụ nữ là sinh linh do chồng che chở, và khăn che(chadra) chính là dấu hiệu bảo vệ cơ ta [13, 368]. Cơ
phải ở nhà chăm sóc, vun vét nhà chồng. Người Hồi khơng chấp nhận phụ nữ ra ngồi một mình, trừ khi
cơ có người thân ( thường là đàn ông) đi kèm [14, 114].
Trong hôn nhân, phụ nữ cũng không được quyền tự chủ. Đa số các cuộc hơn nhân đều do gia đình
hai bên sắp đặt, thậm chí có cuộc hơn nhân được sắp đặt lúc đương sự cịn là đứa trẻ và xa hơn nữa thì
được sắp đặt từ lúc đương sự chưa ra đời. Phụ nữ trước khi lấy chồng, bị cách biệt với đàn ông bởi
tục purdah[6] [3, 157]. Sau khi cưới, phụ nữ phải làm việc quần quật và chịu sự giám sát của mẹ chồng.


Khi có con, đặc biệt là con trai, phụ nữ sẽ có lợi thế hơn trong việc phân chia tài sản bên nhà chồng[7].
Khi ly hôn, đàn ông ly dị vợ rất dễ dàng, anh ta chỉ cần nói ba lần “Tôi bỏ bà” trước mặt hai người làm
chứng là xong. Thời đế quốc Ottoman, trường phái Hồi giáo Hanefi vốn chiếm ưu thế ở đất nước này
tuyên bố rằng, lời phát biểu cho bất cứ tình huống nào (al- Talaq) của người chồng đối với vợ, được hiểu
như quyết định buộc phải ly hôn giữa hai người nếu họ khơng cịn chung sống [1, 36]. Người vợ thì khác,
chị phải ra trước tịa để trình bày lý do ly dị chồng, khi được chồng đồng ý thì mới ly hơn. Về sau do hồn
cảnh gia đình, mâu thuẫn về tài chính, con cái, nhiều cặp vợ chồng Ả rập ly hôn ngày càng nhiều. Thống
kê ở 5 ngôi làng ở Palestin năm 1940 cho thấy, hơn 30 % phụ nữ kết hôn hơn 1 lần. Ở Ai Cập, tỉ lệ ly hôn
tăng mạnh: Suez (35,9%), Alexandria (37,6%) vàCairo (44,2%)…
Hồi giáo cho phép chế độ đa thê. Về nguồn gốc hình thành,Mansfield trong “The Arabs” lý giải:
“Trong các cuộc chiến tranh, đàn ông ra trận chết nhiều quá, để lại nhiều bà vợ góa và trẻ con mồ cơi và
cuộc sống của họ về sau sẽ khó khăn. Trong hồn cảnh như vậy, việc đa thê là điều cần thiết để duy trì sự
sống cịn, hơn nhân được coi là nhiệm vụ quan trọng của tín đồ” [8, 26] . Theo luật, đàn ông Hồi giáo
được phép lấy bốn vợ miễn là anh ta có đủ tài sản, tài chính để lo bốn bà. Anh ta cũng có thể lấy nhiều
hơn 4 bà để chứng tỏ mình là người chân chính. Trong lịch sử đã từng có vua chúa, thương nhân lấy
nhiều vợ[8]. Hiện nay, chế độ đa thê đã bị phản đối kịch liệt. Báo chí Saudi Arabia cho biết hơn một nửa
đám cưới hàng năm đã tan vỡ. Nhiều phụ nữ ly thân đã phải sống cô độc một mình trong nhà, chịu sự

cấm đốn nghiệt ngã của gia đình mình. Trong khi các bậc cha mẹ có tư tưởng tiến bộ trong việc đối xử
với con gái, họ cho phép con chỉ lấy 1 người chồng thay vì gả con cho đàn ơng nhiều vợ như trước đây.
Nhận thức điều đó, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ (1930) và Tunisia (1956) ra quyết định bãi bỏ chế độ này. Ở các
nước Hồi giáo khác, nhiều nhà hoạt động nữ quyền cũng phản đối chế độ đa thê.
Đặc điểm thứ tư: Tầng lớp học giả, giáo sĩ được coi trọng
Vì tồn bộ đời sống trần tục của tín đồ Ả rập Hồi giáo phụ thuộc rất nhiều vào giáo lý và luật lệ Hồi
giáo, cho nên để có người am hiểu và diễn giải đúng và đầy đủ về Hồi giáo là một việc quan trọng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu nói trên, giới trí thức Hồi giáo (ulama) đã ra đời. Trong xã hội Ả rập truyền
thống, người ta thường nhắc đến 2 loại quyền lực: Loại thứ nhất là quyền lực của vua, loại thứ hai là
quyền lực của ulama. Ulama là những người có học vấn cao, uyên thâm trên tất cả mọi mặt kinh tế,
chính trị, tơn giáo… Ơng được phép cầu nguyện, làm lễ cầu nguyện cho các nghi lễ quan trọng trong gia
đình và cộng đồng Hồi giáo, giảng hòa các mâu thuẫn trong các tín đồ Hồi giáo với nhau. Các ulama là
giáo viên thì rất được kính trọng và nhờ họ, kiến thức Hồi giáo không bị mất đi và được truyền đến hiện
nay.
Ở nông thôn Ả rập, ulama là những người hoạt động tương đối độc lập. Họ được tự do mở trường
dạy học, mời các giáo viên khác dạy thay họ nếu họ muốn… Theo sự miêu tả của một số học giả Ả rập
như Ibn Khaldun, Ibn Sina thì các trường ở các nước Ả rập (còn gọi là Madrasah) phần lớn được đặt
ngoài trời hay trong thánh thất. Nội dung học tập của học sinh chủ yếu là kinh Koran, luật Hồi giáo và
tính duy nhất của Thượng đế. Lên các lớp trên, các em sẽ học viết, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
đồng thời học chuyên sâu về các nhận thức của mình về tôn giáo, đời sống thường nhật. Thời kỳ thuộc
phương Tây, phần lớn người dân Ả rập không muốn gửi con em mình cho nền giáo dục thực dân vì sợ nó


làm vẩn đục tâm hồn con trẻ. Vì vậy, các ulama thời kỳ này có uy tín lớn trong xã hội. Sau khi giành được
độc lập, tuy thế hệ trẻ ở các nước Ả rập có điều kiện theo học các trường học ở nông thôn, thành thị để
nâng cao trình độ, thăng tiến trong tương lai và do vậy các trường Hồi giáo truyền thống cũng dần mất đi
ý nghĩa trước kia.
Khác với ulama ở nơng thơn, ngồi việc dạy học cịn tham gia các hoạt động chính trị trong các Hội
đồng Tôn giáo ở các nước Ả rập. Trong một số quốc gia quân chủ, các ulama còn được xem là q tộc vì
họ rất giàu có, có mối quan hệ với hồng gia. Mặc khác do có trình độ cao, uy tín lớn nên ulama cũng

khiến các chính trị gia rất thận trọng [2, 43] khi đưa ra các chính sách, cách thức cai trị quốc gia. Trong
lịch sử, các quốc vương của Thổ Nhĩ Kỳ (nhà Ottoman), Ba Tư (nhà Safavid) đã cho các ulama tham dự
vào công việc nhà nước, tham khảo các ý kiến của họ để đề ra chính sách trị quốc hiệu quả. Vào nửa đầu
thế kỷ XX, ulama tham gia mạnh mẽ vào Nhóm những anh em Hồi giáo (Muslim Brotherhood)[9].
Ở Indonesia, Malaysia, Pakistan, Iran…, các ulama cũng đã thành lập các chính đảng lớn, nhiều lần chi
phối hệ thống chính trị của các nước Ả rập Hồi giáo[10]. Thông qua các tổ chức đảng này, các ulama
tham gia trực tiếp vào hoạt động chính trị, chống các học thuyết phi Hồi giáo và các xu hướng chệch
đường của tôn giáo này. Trong bối cảnh các đảng phái của ulama và chính quyền thế tục chống nhau kịch
liệt, các vấn đề tơn giáo bị chính trị hóa hồn tồn cho nên một số tín đồ khơng hợp tác, thậm chí khơng
cầu nguyện nữa. Như vậy có thể nói, ulama đóng vai trị quan trong trong việc duy trì, tạo chỗ đứng cho
Hồi giáo và được xã hội kính trọng. Chính nhờ sự đóng góp của họ mà hệ thống giáo dục Hồi giáo Ả rập
được cải tiến đáng kể, thỏa mãn nhu cầu về đào tạo nhân lực cho xã hội, duy trì, phát triển đạo đức, tinh
hoa Hồi giáo trong các nước Ả rập hiện nay [12, 50].
Kết luận
Tóm lại, qua bài nghiên cứu này, tác giả nhận thấy rằng: Về văn hóa,cư dân Ả rập sống rất đồn kết
bên nhau, thể hiện ở việc thành lập cộng đồng Hồi giáo (ummah). Mặc khác, do nằm ở vị trí là ngã ba
của 3 nền văn hóa Á – Âu – Phi, người Ả rập có cơ hội tiếp xúc bên ngồi, đặc biệt là văn hóa Hy – La để
hình thành nền văn hóa Ả rập mang đậm chất Hồi giáo. Dưới ảnh hưởng của Hồi giáo, người dân hình
thành một nếp sống văn hóa của những xã hội theo Hồi giáo, đó là tin vào Allah, bảo vệ đạo bằng sức
mạnh,niềm tin thậm chí là tính mạng cá nhân mình; đồng thời tn thủ luật pháp Hồi giáo. Ngồi ra, văn
hóa Ả rập đã có sự giao hịa giữa tín ngưỡng và thực tế với nhau, thể hiện rõ trong việc thực hiện kinh
Koran, 5 cột trụ Hồi giáo, ẩm thực và trang phục của người Hồi. Về xã hội, người Ả rập sống thành những
cộng đồng Hồi giáo thống nhất mà ở đó, họ quan tâm, chia sẻ cho nhau các kinh nghiệm, sự kiện hàng
ngày của mình và cộng đồng. Họ thích làm việc thiện để tạo phúc cho mình và cho cộng đồng. Thân phận
phụ nữ rất thấp kém, bị phụ thuộc vào đàn ông. Tầng lớp học giả, giáo sĩ được kính trọng, vì họ khơng chỉ
củng cố Hồi giáo, mà cịn góp phần quảng bá nó ra tồn thế giới. Từ việc nghiên cứu về văn hóa – xã hội
Ả rập Hồi giáo, tác giả rút ra kết luận chung: người Ả rập mặc dù sống rất khắc nghiệt, nay đây mai đó,
nhưng tận dụng các điều kiện sẵn có (vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên…), người Ả rập trong quá trình hình
thành và phát triển đã tạo dựng một nền văn hóa phong phú và đa dạng, một hình thái – cấu trúc xã hội
ổn định mang đậm tính Hồi giáo. Hiện nay, Hồi giáo đã trở thành tơn giáo chính của nhiều quốc gia Ả rập

truyền thống như Saudi Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập…, chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị, xã hội và văn
hóa của các nước này. Ở Saudi Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hồi giáo chiếm 90% tổng số dân, cịn lại thuộc các tơn
giáo khác như Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo…Trong bối cảnh đó, để xây dựng một quốc gia Hồi


giáo phồn vinh, các nước Ả rập lại phải giải quyết vấn đề Hồi giáo mà trong đó vấn đề ly khai, chia rẽ dân
tộc, khủng bố, kích động hành động cực đoan… là những vấn đề nổi cộm và phức tạp nhất mà các nước
này không phải ngoại lệ. Do đó, các nhà chính trị trong q trình hoạch định chính sách cần chú ý hơn
vấn đề tơn giáo để có thể ra phương hướng giải quyết kịp thời và chính xác từ góc nhìn tơn giáo, văn
hóa, kết hợp với các biện pháp văn minh, hiệu quả khác thì tình hình chính trị - văn hóa – xã hội của các
nước sẽ được giải quyết tốt đẹp.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×