Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiến trình văn hóa Việt Nam- văn hóa bản địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.65 KB, 17 trang )

VĂN HĨA BẢN ĐỊA
Tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn : văn hóa thời tiền sử, văn hóa
Văn Lang - Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hố Đại Việt, văn hóa Đại Nam
và văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba lớp chồng lên nhau : lớp văn hóa bản
địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương
Tây. Mỗi lớp văn hóa cịn ứng với một thời kì phát triển khác nhau của văn tự Việt Nam.
Lớp văn hóa bản địa được tạo nên chủ yếu trong hai giai đoạn : giai đoạn văn hóa thời
tiền sử, và giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc. Đặc trưng chung của lớp văn hóa
này là sự hình thành của một nền văn hóa đặc sắc xây dựng trên cơ sở nghề nông nghiệp
lúa nước.
1. Thời tiền sử, các dân tộc chưa hoàn toàn tách biệt, các quốc gia chưa hình thành, cho
nên thành tựu văn hóa thời đó cũng là thành tựu chung của một khối cư dân lớn sinh sống
trên cả một khu vực : cư dân Bách Việt (Nam-Á). Thành tựu lớn nhất ở Giai đoạn văn
hóa thời tiền sử của cư dân Nam-Á là sự hình thành nghề nơng nghiệp lúa nước. Trong
năm trung tâm xuất hiện cây trồng, Đông Nam Á là một. Theo C.O. Sauer thì Đơng Nam
Á chính là trung tâm nơng nghiệp cổ xưa nhất. Theo các tài liệu cổ thực vật học, trung
tâm thuần dưỡng cây lúa là vùng đông nam Himalaya, phía tây bấc khu vực Đơng Nam
Á. Vào thiên niên kỉ Vl -V tr.CN, cùng với việc chuyển sang kinh tế sản xuất cư dân
Đông Nam Á cổ đại (người Indonésien) đã đưa cây lúa thuần dưỡng từ vùng núi xuống
đồng bằng. Và ở vùng sông nước này, người Đông Nam á xưa đã gây tạo ra cây lúa nước
nổi tiếng và đã tích ũy được một vốn kĩ thuật trồng lúa nước phong phú.Ảơ các di chỉ
khảo cổ khác nhau của Việt Nam như Tràng Kênh, Gò Bơng, Đồng Đậu, Gị Mun.. đã
phát hiện dược những dấu tích của bào tử phấn lúa vỏ trấu, gạo cháy, mảnh chõ xơi, lưỡi
liềm, lưỡi cày đồng,.. có niên đại xưa tới 3-2 nghìn năm tr.CN. Tổ tiên người Trung Hoa
khi định cư ở lưu vực sơng Hồng Hà mới chỉ trồng kê, mạch. Nghề trồng lúa là học
được của các dân tộc phương Nam Những kết quả khảo cổ ở vùng Bắc Trung Hoa cho
phép kết luận rằng việc này diễn ra vào cuối thiên niên kỷ thứ 111 tr.CN. D.V. Deopik,
một nhà Đông phương học Nga nổi tiếng, hiện là Giám đốc Trung tâm Việt Nam học
Nga. đã viết (1977) :"Ở Bắc Đơng Á khơng có những nơi nơng nghiệp lớn. Những nền
văn hóa trồng lúa vùng sơng Dương Tử thời kì Long Sơn (Lunshan) và muộn hơn thực
chất đều là ngoại vi của nôi trồng lúa Đông Dương". Từ khu vực Nam-Á, lúa và kỹ thuật


trồng lúa đã lan tới bờ Địa Trung Hải từ nửa đầu của thiên niên kỉ 1 tr.CN. Còn ở các hòn
đảo Nhật Bản, nó mới chỉ được đưa tới từ tr. CN không lâu. Không chỉ chữ "đạo" trong
tiếng Hán vốn bắt nguồn từ chữ gạo mà ngay cả chữ rice, riz, ris, Reis, puc,... trong các
ngôn ngữ châu Âu cũng có nguồn gốc từ tiếng Đơng Nam Á cổ đại (dấu vết này còn thấy
ở tên thần lúa Yang Sri của các dân tộc Tây Nguyên).Không chỉ tên lúa, tên gọi nhiều loại
cây cối súc vật và các thành tựu nơng nghiệp khác có nguồn gốc Nam-Á và Đơng Nam Á
đã được Trung Hoa, Ấn Độ và nhiều dân tộc xung quanh vay mượn. Nhà Đông phương
học người Pháp là C. Autran nhận xét : "Những ngôn ngữ cổ ở Ấn Độ đã mượn nhiều từ
ngữ về nông nghiệp như tên cây, tên súc vật và các sản phẩm khác, nhất là tên cây cỏ)
của những tộc người... vùng Đông Dương". Những thành tựu chủ yếu của nghề nông
nghiệp Đông Nam Á thời tiền sử là : (a) Việc trồng lúa và các loại cây như bầu bí, trầu
cau, dâu,...; (b) Việc thuần dưỡng một số gia súc đặc thù như trâu, lợn, gà (mà cho đến


năm 1450 tr.CN đã được đưa đến vùng Ai Cập - Egip); (c) Việc làm nhà ở; (d) Việc dùng
các cây thuốc để chữa bệnh. Truyền thuyết đã đánh dấu giai đoạn văn bóa này bằng
những nhân vật thần thoại mà trong đó điển hình nhất là Thần Nơng. Lâu nay, nhiều
người dựa theo sách vở chữ Hán một cách máy móc mà cho rằng Thần Nơng là một trong
ba ông vua đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa thường được gọi chung là Tam Hồng (Phục
Hi, Thần Nơng, Toại Nhân). Thực ra thì Thần Nơng cũng như một số nhân vật thần thoại
khác liên quan đến nông nghiệp đều vốn là của cư dân bản địa phương Nam bị sáp nhập
vào Hoa tộc. Niên đại truyền thuyết của Thần Nông (3320 - 3080 ?? = thiên niên kỷ IV
tr.CN) tương ứng với giai đoạn người Đông Nam Á phát triển mạnh nghề Nông (thời đá
mới). Như vậy, Thần Nông thực chất là tên gọi biểu trưng cho những thành tựu tập thể
của cả một giai đoạn. Nếu để ý đến khía cạnh ngịn ngữ học, cịn có thể thấy rằng tên gọi
thần nông đã được đặt ra theo cú pháp phương nam (cú pháp xuôi : danh từ + định tố)
chứ nếu theo cú pháp tiếng Hán thì phải đặt ngược lại là nơng thần ảnh hưởng của văn
hóa phương Nam đối với phương Bắc vào thời đó mạnh đến nỗi các ông vua đầu tiên của
Trung Hoa đều được đặt tên theo lối cú pháp xuôi của phương Nam cả : Đế Nghiêu, Đê
Thuấn, Đế Cốc, Đế Vũ !

2. Giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc kế tục giai đoạn tiền sử cả về không gian văn
hóa, thời gian văn hóa và thành tựu văn hóa. Nó đã đưa những thành tựu của nền văn hóa
xây dựng trên cơ sở nghề nông nghiệp lúa nước lên đến đỉnh cao. Nếu dùng thuật ngữ
"Giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc" một cách ước lệ, dựa vào các thư tịch cổ và
truyền thuyết, thì có thể hình dung nó khởi đầu từ khoảng giữa thiên niên kỷ III tr.CN
(mốc thời gian sớm nhất của giai đoạn này mà các cổ thư thường nhấc đến là năm 2879
tr.CN). Truyền thuyết phương Nam kể rằng vua đầu tiên của họ Hồng Bàng, tên là Lộc
Tục, cháu bốn đới của Viêm Đế (viêm = nóng, Viêm đế = vua xứ nóng phương Nam), họ
Thần Nơng, con một nàng tiên ở núi Ngũ Lĩnh. Lộc Tục lên làm vua phương Nam vào
khoảng năm 2879 (?) tr.CN, lấy hiệu là Kinh Dương, đặt tên nước là Xích Quỷ (xích =
đỏ, màu đỏ là màu của phương Nam, quỷ = thần; Xích Quỷ = Thần phương Nam). Bờ cõi
nước Xích Quỷ phía bắc giáp hồ Động Đinh. phía nam giáp nước Hồ Tơn (Chiêm Thành)
, phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xun), phía đơng giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương
Lộc Tục lấy con gái vua hồ Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua
xưng là Lạc Long quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng nở thành trăm
con trai. Một nửa theo cha xuống bể, nửa kia theo mẹ lên rừng. Đến đất Phong Châu
(vùng Việt Trì ngày nay), cùng tơn người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là
Vua Lạc (Hùng)
Về mặt khơng gian, bờ cõi nước "Xích Quỷ" truyền thuyết chính là địa bàn cư trú của
người Nam-Á - Bách Việt, là khu vực tam giác không gian gốc của văn hóa Việt Nam. Bờ
cõi nước Văn Lang của các vua Lạc (Hùng) sau này là một bộ phận của khơng gian gốc
đó, cũng như người Lạc Việt là một bộ phận của khối cư dân Nam-Á - Bách Việt. Nhà sử
học Nga P.V. Pozner (1980) khẳng định : "Sự tồn tại của các lãnh tụ người Lạc (Việt) với
tên hiệu chung "Hùng" là một sự kiện chính sử (ngoại trừ việc họ có 18 người và nước
Văn Lang chia làm 15 bộ). Cuối cùng, truyền thuyết về Kinh Dương Vương và Lạc Long
Quân phản ánh truyền thống sử học truyền khẩu về địa bàn cư trú cổ xưa của các bộ lạc
tiền Việt, cho nên, theo nghĩa đó, nó cũng mang tính lịch sử". Về mặt thời gian, thiên niên
kỷ thứ III tr.CN (mà trong đó có mốc truyền thuyết là năm 2979!) ứng với giai đoạn đầu



thời đại đồ đồng, cũng chính là thời điểm hình thành chủng Nam-Á (Bách Việt). Thành
tựu văn hóa chủ yếu của giai đoạn Văn Lang - Âu Lạc, sau nghề nơng nghiệp lúa nước,
chính là nghề luyện kim đồng. Cả trên phương diện này, vai trị của vùng văn hóa Nam-Á
đối với khu vực cũng hết sức to lớn : đồ đồng Đơng Sơn và ảnh hưởng của nó đã tìm thấy
khắp nơi - từ nam Trung Hoa, Thái Lan đến tồn bộ vùng Đơng Nam Á hải đảo. G.G
Stratanovich (1977) viết : "Bốn kiểu trống đồng Đông Sơn mà các nhà nghiên cứu khác
nhau đã phân ra và ba kiều chuông bắc và tây-bắc của tôi thực ra chỉ là những biến thể
của cùng một loại sản phẩm từ cùng một vùng sản xuất đồ đồng lớn nhất. Vùng này có
thể hinh dung dưới dạng một tam giác lớn : hai điểm tận cùng của cạnh đáy là Đông Sơn
ở phía Đơng và Mogaung (thuộc bắc Miến Điện) ở phía Tây. Đỉnh của tam giác nằm ở
sơng Dương Tử, trong khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Poian". Ơng viết tiếp : "Trước
đây thậm chí cả đồ đồng Đơng Sơn cũng bị tưởng rằng bắt nguồn từ phía bắc. Bây giờ
tình hình đã thay đổi. người ta biết đến không chỉ nguồn quặng đồng phong phú của Việt
Nam mà cả những mỏ đồng, cũng như mỏ vàng và bạc khác nữa. Giả thuyết về nguồn
gốc phương Nam của đồ đồng nhà Ân trở nên có cơ sở... Niên đại của văn hóa Đơng Sơn
giờ đây được đẩy về khoảng giáp ranh giữa các thiên niên kỷ III tr.CN". Một chun gia
có tiếng về Đơng Nam Á, giáo sư nhân chủng học Mĩ W.G. Solheim II đã viết : "Các nhà
sử học Âu Mỹ thường hay lí luận rằng lối sống mà ta gọi là văn minh thoạt tiên bắt
nguồn từ vịng cung phì nhiêu miền cận Đơng, hoặc trong những vùng sơn đồi lân cận.
Ta đã tin tưởng từ lâu rằng, ở đây con người cổ sơ đã phát triền nghề nông và dần dần
học cách làm gốm và đồ đồng. Môn khảo cổ học cũng yểm trợ cho điều tin tưởng này,
một phần vì các nhà khảo cồ đào bới khá nhiều trong vùng thung lũng phì nhiêu của Cận
Đông. Tuy nhiên, những khám phá mới đây ở vùng Đông Nam Á bắt buộc chúng ta phải
xét lại những quan niệm này. Những vặt dụng đã được đào lên và đem phân tích trong
vịng 5 năm qua cho ta thấy rằng con người ở đây đã bắt đầu trồng cây, làm đồ gôm và
đúc đồ dùng bằng đồng sớm hơn hết thảy mọi nơi trên trái đất.. sớm hơn các dân tộc
Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa tới cả hàng mấy ngàn năm".
3. Giai đoạn từ thiên niên kỷ III tr.CN cho đến cuối thiên niên kỷ I tr.CN rõ ràng là đã tạo
nên một đỉnh cao rực rỡ trong lịch sử dân tộc văn hóa và có ảnh hưởng lớn đến tồn khu
vực. Khơng phải vơ cớ mà V. Deopik (1977) gọi thế kỷ V tr.CN là "thế kỷ của

phương Nam". Đúng như Ja.V. Chesnov nhận xét: "Về hàng loạt phương diện của văn
hóa - từ sản xuất nông nghiệp cho đến lĩnh vực thần thoại - Đơng Nam Á đã có những
ảnh hưởng lớn, vượt rất xa ra ngoài ranh giới những láng giềng trực tiếp của nó... Tất
nhiên là trong việc tạo nên những thứ như là cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng, hoặc
những thành tựu văn hóa khác, có sự tham gia... của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ đã tạo
nên trong suốt chiều dài lịch sử nhiều nghìn năm của mình cái thê' giới độc đáo được gọi
là Đông Nam Á". Chính những thành tựu của thế giới Đơng Nam Á cổ đại mà trong đó có
phần đóng góp của tổ tiên người Việt Nam ấy đã làm nên cái nền vững chắc cho sư nhát
triển của văn hóa Việt Nam sau này.Chữ viết của nền văn hóa bản địa là vấn đề trước đây
hầu như chưa được đặt ra. Đơn giản là vì, trong một thời gian dài, dưới áp lực của định
kiến "lấy Trung Hoa làm trung tâm", người ta khơng thể hình dung được rằng phương
Nam có thể có một nền văn hóa riêng chứ đừng nói gì đến chữ viết. Đến nay, dưới ánh
sáng của : (a) những nhận định mới về quy mô tầm cỡ và vai trị của văn hóa phương
Nam trong lịch sử văn hóa khu vực; (b) với những cứ liệu về dấu vết chữ viết đã phát
hiện được trên rìu đá Bắc Sơn, trên những phiến đá khắc ở thung lũng Sa Pa, trên qua


đồng Thanh Hóa, trên trống đồng Lũng Cú, chữ cổ tìm được ở vùng Mường Thanh Hóa,
và (c) những ghi chép của sử sách Trung Hoa về một thứ chữ "khoa đẩu, (hình con nịng
nọc bơi) của người phương Nam, ta đã có thể nghĩ đến giả thuyết về sự tồn tại của một
nền văn tự phương Nam "trước Hán và khác Hán" (chữ của Hà Văn Tấn).

Câu hỏi 1: Vai trị của giao lưu, tiếp biến trong tiến trình văn hoá ?

Khái niệm giao lưu và tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi
những nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp xúc với nhau
tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm. Giao lưu văn hóa tạo nên sự
dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng đồng. Ở đó có sự kết hợp giữa các
yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa
dạng và tiến bộ hơn. Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngồi

bởi dân tộc chủ thể. Q trình này ln đặt mỗi dân tộc phải xử lý tốt mối quan hệ biện
chứng giữa yếu tố "nội sinh" và "ngoại sinh". Trong lĩnh vực văn hóa chỉ có khái niệm
"giao lưu và tiếp biến văn hóa" chứ khơng có khái niệm "hội nhập văn hóa". Thuật ngữ
hội nhập chỉ sử dụng cho các lĩnh vực ngồi văn hóa, chẳng hạn như kinh tế...
Trước xu thế tồn cầu hóa, Đảng ta u cầu phải "Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng
khu dân cư, từng gia đình, từng người, hồn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam,
kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của lồi người,
tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt
động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân"(Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 213)
Như vậy GL&TBVH có vai trị hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển VH của một
dân tộc. Nhưng giao lưu như thế nào, tiếp biến như thế nào để vừa giữ gìn, bảo tồn, vừa
phát triển VH dân tộc ? Đó là câu hỏi lớn đặt ra cho chúng ta nhất là trong thời đại ngày
nay.
Câu hỏi 2: Ảnh hưởng của nho giáo đối với văn học trung cận đại ?
Lược ghi ý kiến của Giáo sư Nguyễn Đình Chú:


1.
Mặt
tích
cực
:
-Ở đây chỉ muốn nói một vấn đề thuộc quan niệm văn học trực tiếp liên quan đến việc
nhận diện ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học Việt Nam thời trung cận đại, là quan
niệm "Văn dĩ tải đạo" và "Thi ngơn chí" vốn là quan niệm chủ đạo của văn học Việt Nam
trung cận đại. Với quan niệm này, đạo đức vừa là nền tảng vừa là cứu cánh của văn học.
Hai câu thơ của cụ đồ Chiểu: "Văn chương ai cũng muốn nghe/ Phun châu nhả ngọc báu
khoe tinh thần" là khuynh hướng tối ưu trong sáng tạo nghệ thuật. Nói theo ngơn ngữ
ngày nay là sự kết hợp hài hồ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật trong sáng tác văn

chương. Nền văn học Việt Nam thời trung cận đại đã tồn tại và phát triển trên cơ sở của
quan điểm văn dĩ cải tạo ở cả hai hướng nhận thức đó.
-Xét về mối quan hệ giữa Nho giáo, dù là Nho giáo gốc Trung Hoa hay Việt Nho, với
văn học nói chung, với văn học Việt Nam trung cận đại nói riêng, ở bình diện tư duy, thì
thấy: tư duy Nho giáo khơng thuận lợi (cũng có thể nói phần nào là cản trở) đối với hoạt
động văn chương. Bởi tư duy Nho giáo nhìn chung nặng về tuyến tính, về lý tính, về tính
chừng mực. Trong khi tư duy văn học cũng như tư duy nghệ thuật nói chung vốn mang
tính hỗn hợp giữa tư tưởng và tình cảm, giữa lý tính và cảm tính, giữa nhận thức và cảm
thức, giữa ý thức và vô thức, tiềm thức, tiền ý thức. Tư duy Nho giáo có thuận lợi chủ
yếu là với thể loại văn chương chính luận. Do đó, có thể nói ảnh hưởng rõ nhất của Nho
giáo đối với văn học Việt Nam trung cận đại, trước hết là ở những tác phẩm thuộc thể loại
chính luận. Ví như: Tứ thư thuyết ước của Chu Văn An (đã thất truyền), Luận ngữ ngu án
của Phạm Nguyễn Du, Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt, Bùi gia huấn hài của
Bựi Dương Lịch v.v… và thể loại văn sách thi Đình, thể loại gia huấn như đã nói. Riêng
với văn chương mỹ thuật (belles lettres), ảnh hưởng của Nho giáo bộc lộ trực tiếp, dễ
thấy là ở thành tố triết luận mà loại tác phẩm này tuy đã mang tính nghệ thuật nổi trội
nhưng vẫn chưa thóat hẳn khỏi quy luật văn triết bất phân của văn học trung cận đại. Lời
mở đầu Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu
phạt trước lo trừ bạo" (học thuyết nhân nghĩa), hai câu thơ mở đầu Truyện Kiều của
Nguyễn Du: "Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau"(thuyết
tài mệnh tương đố), hai câu thơ mở đầu truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu:
"Trai thì trung hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh là câu sửa mình" (đạo đức trung hiếu tiết
hạnh)… là những dẫn chứng. Tất nhiên, ở đây sự ảnh hưởng còn được tan biến vào nội
dung kết cấu, hình tượng nghệ thuật.
-Nho giáo góp phần hướng văn học vào cuộc sống. Có lẽ cho đến nay, trong các học
thuyết xã hội ít nhiều có tính chất triết học, thì Nho giáo và chủ nghĩa Mác là hai học
thuyết có tính chất nhập thế sâu sắc nhất, tự giác nhất. Tính chất nhập thế của Nho giáo
đã góp phần hướng văn học vào cuộc sống. Mặc dù, cũng thấy Nho giáo có những hạn
chế khơng nhỏ trong việc hướng văn học vào chủ nghĩa hiện thực. Có thể nói Nho giáo
chưa đủ khả năng đưa văn học Việt Nam trung cận đại đi tới chủ nghĩa hiện thực. Nhưng

nó góp phần khơng nhỏ vào việc tạo nên tính chất hiện thực bên cạnh những tính chất
khác của văn học Việt Nam trung cận đại mà chúng ta từng nói tới.


-Nho giáo góp phần tạo nên giá trị đạo đức vốn là một nét nổi trội của văn học Việt Nam
trung cận đại. Như trên đã nói, trong các học thuyết của lồi người, cổ kim Đơng Tây,
khơng một học thuyết nào coi trọng vấn đề đạo đức con người, vấn đề tu thân bằng Nho
giáo. Nho giáo chủ trương lý tưởng tơn qn, nhưng cũng có tư tưởng thân dân khá đậm
đà. Thử hỏi trong lịch sử Việt Nam ta, cho đến nay, về mặt đạo đức cá nhân, đã có mẫu
người nào vượt qua mẫu người chân quân tử vốn là mơ hình nhân cách của Nho giáo, của
chân Nho. Trong việc nghiên cứu văn học Việt Nam trung cận đại, gần đây đã có sự phân
loại tác gia nho sĩ thành mấy loại: nhà nho nhập thế, nhà nho xuất thế, nhà nho tài tử. Tơi
muốn nói thêm nhà nho - nghĩa khí, dù có liên quan đến nhà nho - nhập thế, nhưng so với
nhà nho nhập thể nói chung thì loại nhà nho - nghĩa khí này có phẩm chất cao đẹp hơn
nhiều. Mà nhà nho - nghĩa khí khơng phải khơng có nguồn gốc từ mẫu người quân tử của
Nho giáo. Nhiều chí sĩ cần vương cuối thế kỷ XIX, cùng nhiều sĩ phu yêu nước đầu thế
kỷ XX là thuộc loại nhà nho - nghĩa khí mà phẩm chất cao đẹp của họ sẽ sống mãi với
non sơng, với lịch sử. Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cộng sản nhưng ở Người, không hề
thiếu vắng cái cốt cách nhà nho - nghĩa khí. Đạo tu thân của Nho giáo mà Hồ Chí Minh ít
ra đã hai lần nói tới và đề cao, khơng phải là yếu tố góp phần quyết định nhân cách vĩ đại
của Hồ Chí Minh đó sao.
Nói đến văn học Việt Nam trung cận đại, không thể không ghi nhận những giá trị đạo
đức cao đẹp, sâu đậm bao gồm cả tư đức và cơng đức trong đó có tư tưởng thân dân, vốn
đã không tồn tại dưới dạng nguyên lý khô cứng mà đã trở thành Tâm huyết khơng dễ gì
thấy lại ở loại văn chương thời hiện đại. Đặc biệt là thứ tâm huyết gắn chặt với nghĩa khí
thành nghĩa khí - tâm huyết đáng được coi là một phạm trự mỹ học. Mà từ đó, lại khơng
thể khơng nghĩ đến một phần cội nguồn của nó là Nho giáo, chân Nho. Nho giáo có bao
nhiêu danh ngôn để đời như: "Kiến nghĩa bất vi vụ dũng giả", "Sát thân thủ nghĩa", "Xá
thân thành nhân", "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất",
"Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh", "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", "Thế thiên

hành đạo", "Quân tử thận kỳ độc", "Nhất nhật tam tỉnh ngô thõn", "Tiên thiên hạ ưu, hậu
thiên hạ lạc" v.v… Thử tưởng tượng, ở thời trung cận đại, trên đất nước ta, thiếu đi những
ý tưởng đó của Nho giáo, của chân nho, thì con người Việt Nam ta, và cũng là văn học
Việt Nam ta sẽ thế nào? Chắc chắn, khơng như những gì nó đã có và đã là nguồn tư tưởng
tình cảm ni dưỡng tinh thần nhân dân ta, làm đẹp con người Việt Nam ta, văn học Việt
Nam ta, ít ra là ở thời trung cận đại mà văn học là một trong các phương tiện chuyển tải
hữu hiệu.
2. Xét về hạn chế của Nho giáo đối với văn học trong đó có văn học trung cận đại Việt
Nam
một
cách
tương
đối
đầy
đủ
thì
như
sau:
-Trước hết, như đã nói là sự hạn chế do kiểu tư duy Nho giáo ít khả năng phù hợp, thậm
chí cũng có thể nói phần nào cản trở hoạt động sáng tác văn chương mặc dù Nho giáo rất
coi trọng văn chương trong sứ mệnh xây dựng cuộc sống con người.


-Trong Nho giáo, bên cạnh thành phần chân chính, có ý nghĩa nhân văn cao cả, vẫn có
khơng ít ngun lý đạo đức cứng nhắc, đen trắng lẫn lộn như trong đạo tam cương, thậm
chí phản nhân văn như trong đạo tam tùng… kể cả một số quan điểm nhân sinh, phản
tiến hóa như tinh thần phục cổ (dù rằng cũng đã có ý thức duy tân: "Nhật nhật tân, nhật
nhật tân, hựu nhật tân" - Đại học), quan điểm coi rẻ phụ nữ (dù đã có quan niệm: "đức
hiền tại mẫu" (đạo đức hiền lành của con là cốt ở mẹ) "tương kính như tân" (vợ chồng
kính trọng nhau như kính trọng khách), "tao khang chi thê bất khả hạ đường" (vợ chồng

lấy nhau từ buổi còn ăn tấm ăn cám, khi đã làm quan không được bỏ vợ)… dù trong văn
học nho gia không thiếu những gương sáng về phụ nữ được đề cao) ảnh hưởng tiêu cực
đến văn học.
-Nho giáo với tính chất nhập thế đã hỗ trợ cho văn học hướng về cuộc sống nhưng như
đã nói Nho giáo chưa đủ sức đưa văn học tiến tới chủ nghĩa hiện thực, chỉ đủ sức góp
phần tạo nên tính chất hiện thực trong văn học. Nho giáo mang tính chất phi ngã. Nói một
cách khác là khơng phát hiện được cái Tôi - cá thể (l'individu, le Moi) trong sự sống con
người, dù Nho giáo, hơn học thuyết nào khác đã rất tự giác xây đắp cái Tôi đạo lý bằng
đạo tu thân vốn là đặc sản của nó.

Văn
hóa
Việt
Nam
thời

sử
Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông
Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã
tồn tại 3 trung tâm văn hoá lớn của 3 quốc gia cổ nhất Đơng Nam Á :
a. Văn hố Đơng Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các vua
Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với nền văn hoá Đông Sơn,
kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khá cao so với trình độ thế giới lúc đương
thời. Sản phẩm đồng thời cũng là biểu tượng của văn hố Đơng Sơn là trống đồng Đơng
Sơn. Q trình hình thành và phát triển của văn hố Đơng Sơn - văn minh sông Hồng ở
miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và nhà nước đầu
tiên của họ. Đây là một nền văn hoá thống nhất mà chủ nhân của nền văn hố đó là một
cộng đồng cư dân gồm nhiều thành phần tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn
hố. Văn hố Đơng Sơn là một điển hình của nền văn hố nơng nghiệp lúa nước.
Theo truyền thuyết giai đoạn này khởi đầu từ khoảng giữa thiên niên kỉ thứ III. trCN.

Thời kỳ Hồng Bàng cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương
Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ cho tới năm 207 trCN là năm Triệu Đà thơn tính Âu
Lạc.
Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sơng


Dương
Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới
nước Hồ Tơn (Chiêm Thành), phía đơng là Đơng Hải (một phần của Thái Bình Dương),
phía tây là Ba Thục (Tứ Xun, Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở
miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ
phương
Bắc.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên
vùng núi phía Bắc và miền châu thổ sông Hồng. Để tiện việc trao đổi bn bán, phịng
chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ tộc Lạc Việt thống nhất lại thành một quốc gia
lấy tên Văn Lang, định đô ở Phong Châu (Việt Trì, Phú Thọ). Người đứng đầu tự xưng là
Hùng Vương. Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng. Các thông
tin về các đời vua Hùng dựa nhiều vào các truyền thuyết. Dân số nước ta cuối thời Văn
Lang ước khoảng 500 ngàn người.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi
tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), gặp một
nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con
trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc
Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương,
quốc hiệu là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897
TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (cịn có tên là Thần Long) là Long nữ đẻ ra Sùng
Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai
(con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long
Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung

hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền
biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngơi vua.
Năm Q Mão 258 TCN (có tài liệu gần đây xác định lại là năm 208), Thục Phán, một
thủ lĩnh của các bộ tộc Âu Việt chiếm Văn Lang, hợp nhất Âu Việt và Lạc Việt thành một


quốc gia lấy tên nước là Âu Lạc, xưng là An Dương Vương, đóng đơ ở Phong Khê. An
Dương Vương cho xây Loa thành (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội).
Nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc
Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, đã chứng minh cho một nền văn hóa
đồ đồng rất phát triển - văn hố Đơng Sơn mà chủ nhân của nó là cộng đồng cư dân Văn
Lang. Ảnh hưởng của nó rộng lớn từ nam Trung Hoa, Thái Lan đến toàn bộ vùng Đông
Nam Á. Trống đồng Đông Sơn trở thành biểu tượng của VHVN truyền thống.
b. Văn hoá Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương
quốc Chăm Pa. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa, nhưng
biết khai thác nguồn lợi của rừng và biển, và phát triển các nghề thủ cơng.
c. Văn hố Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hố Ĩc Eo ở Nam
Bộ vào những thế kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hố Ĩc Eo gắn với vương quốc Phù
Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII ở châu thổ sơng Cửu Long. Văn
hố Đồng Nai cũng là sản phẩm của cư dân có hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp
và thủ công.
3.
Đặc
điểm
VHVN
thời
tiền
sử



sử
- Tiến trình văn hố Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành nên những nền
tảng của văn hố Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt cổ, là phác thảo khởi
nguyên về một nền văn hoá quốc gia dân tộc đa tộc người về sau.
- Nền tảng văn hố đó là văn hố bản địa - nội sinh, nằm trong cơ tầng văn hoá chung của
khu vực văn hố Đơng Nam Á thời bấy giờ, nó khác với hai nền văn hố - văn minh
Trung
Quốc

Ấn
Độ

châu
Á.
- Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hố nội sinh Việt Nam là văn
hố Đơng Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai, cũng là ba đỉnh cao của văn hố
Đơng Nam Á, miền đông bán đảo Đông Dương. Ba trung tâm văn hố đó phát triển theo
thế chân vạc, nhưng ln có mối quan hệ qua lại với nhau, đồng thời phát triển, giao lưu
với nhiều văn hoá khác ở khu vực. Đồng thời, ba trung tâm văn hoá ấy đều sẽ phát triển
thành ba nền văn minh lớn ở Đông Nam Á, ứng với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang - Âu
Lạc,
Chăm
Pa

Phù
Nam.
- Như thế, trước khi chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đất nước
ta đã từng tồn tại một nền văn minh cổ như vậy, nên ý thức quốc gia dân tộc của người
Việt đã sớm hình thành và làm nên một sức mạnh đủ để dân tộc Việt Nam vừa không bị
Hán hố lại vừa có khả năng thâu hố những nhân tố của mơ hình văn hố Trung Quốc

trong q trình xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ sau này.
4.
Thành
tựu
VHVN
thời
tiền
sử


sử
- Về mặt kỹ thuật: Văn hóa tiền sử và sơ sử hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách
mạng luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hồn thiện (tiêu biểu là nền văn hóa
Đơng
Sơn).


- Về đời sống kinh tế: Hình thành nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người
Việt cổ sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sơng nước, núi rừng,
đồng bằng và biển cả. Người Việt cổ biết thuần dưỡng một số gia súc (bò trâu, gà vịt,
heo), biết dùng trâu, bò để cày bừa, biết trồng dâu nuôi tằm, dệt vải. Ở ven các dịng sơng
và ven biển dân bản địa thạo nghề đi biển và đánh bắt hải sản.
Dùng
cây
thuốc
nam
chữa
bệnh.
Uống
chè.

Người Việt cổ làm nhà sàn hình chữ nhật bằng tranh tre, có mái cong mà mơ hình cịn
thấy trong mộ táng thuộc Văn hóa Ðơng Sơn 2000 năm TCN. Khi định cư ở Trung
Nguyên, dân Hán đã theo mô thức nhà này của người Việt.
Sách Cổ Kim Ðồ Thư, Thảo Mộc Ðiếm của Trung-hoa chép: ‘Mã viện tâu vua Tàu,
Giao-chỉ ép mía làm đường phèn: Giao chỉ có thứ cây mía ngọt, đem ép lấy nước rồi làm
đường phèn’ … ‘Giao chỉ làm giấy mật hương : giấy mật hương làm bằng lá và vỏ cây
mật hương trồng ở Giao-chỉ, giấy mềm, giai và thơm, ngâm nước không bở không nát’.
“Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng lá trà làm thức uống.” “Họ biết uống nước
bằng lỗ mũi” “Nuôi tằm mà dệt vải” “Dùng đất sét đào sâu trong đất, thái mỏng, phơi
khô làm thức ăn quý để đi hỏi vợ” “Dùng đá màu làm men gốm” “Dùng mu rùa mà bói
việc tương lai” “Họ dùng một khúc tre dài chừng hơn một thước, một đầu có trụ cao làm
tay cầm, có dây buộc vào trụ nối lại đàng kia làm đàn gọi là độc huyền cầm” “Họ đem
tính tình các con vật mà so sánh với người, rồi họ truyền tụng rằng, ngày thứ nhất trời
sinh con chuột, ngày thứ hai sinh con trâu, ngày thứ ba sinh con cọp (truyện thần thoại
của người Dao, gốc tích của 12 con giáp). Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát (thuyết
âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh, lấy đá hơ nóng áp
vào da thịt để trị bệnh.”
Về
tổ
chức

hội

đời
sống
tinh
thần:
+ Nền văn hóa tiền sử và sơ sử tổ chức xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu Á châu
của một xã hội phân hóa chưa sâu sắc, gay gắt và nhà nước mới hình thành. Nhà nước
vừa có mặt bóc lột cơng xã, lại vừa đại diện cho lợi ích chung của cơng xã trong yêu cầu

tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, khai hoang, trị thủy làm thủy
lợi, tự vệ và chống ngoại xâm. Ở các vùng núi cư dân cịn ở trình độ tổ chức bộ lạc;
nhưng ở trung du và đồng bằng cư dân đã dần dần vươn đến trình độ tổ chức liên minh bộ
lạc.
+ Nền văn hóa tiền sử và sơ sử thể hiện đậm nét bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống
và lẽ sống của người Việt cổ: Chung lưng đấu cật, đồn kết, gắn bó với nhau trong lao
động và đấu tranh, giàu tình làng nghĩa nước, tơn trọng người già và phụ nữ, biết ơn và
tôn thờ tổ tiên, các anh hùng nghĩa sĩ,...; có cội rễ và cơ sở sâu xa trong cuộc sống lâu đời
của các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang - Âu Lạc thưở đó.
+ Nền văn học dân gian hình thành và phát triển đặc biệt là các thể loại như thần thoại,
truyền
thuyết,...
+ Có thể cha ơng ta đã tạo ra hệ thống văn tự, chữ viết, nhưng về sau bị xóa bỏ. Sử Trung
Quốc cũng đã chép: người phương Nam có thứ chữ “khoa đẩu”. Những cứ liệu về dấu vết


chữ viết trên những phiến đá ở Sa Pa, trên qua đồng Thanh Hóa, lưỡi cày Đơng Sơn,
trống đồng Lũng Cú… có thể là bằng chứng cho nghi vấn này.
- Nền văn hóa sơ sử sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh láng giềng,
đặc biệt là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.
5.

Từ
nhận
thức
trên,

thể
rút
ra

kết
luận:
Ít nhất từ 30.000 năm TCN, sau thời kỳ băng hà, người Bách Việt là chủ nhân miền
đất ngày nay có tên là Trung Quốc. Cùng với việc biến cải nơi đây thành vùng nông
nghiệp lúa nước, người Bách Việt đã xây dựng nền văn hóa vật thể và phi vật thể độc
đáo.
“Nếu văn hóa Việt ở Trung Nguyên đạt được những thành tựu như vậy thì điều chắc
chắn là văn hóa Việt tộc ở đất tổ, ở nơi gốc phát tích sẽ rực rỡ hơn. Cho dù bị hủy hoại
khơng ít trong thời kỳ Bắc thuộc, nhất là ảnh hưởng suy đồi của Hán Nho, Tống Nho
nhưng do sức sống nội tại, văn hóa tận nguồn đó vẫn được người dân Việt lưu giữ bảo
tồn. Vấn đề của chúng ta là chọn lọc giữa những yếu tố lai tạp để tìm ra tinh hoa văn hóa
cội nguồn của dân tộc. Trong việc này, tinh thần Việt nho giúp chúng ta như một định
hướng, để ta cắt nghĩa vì sao trên đất nước ta lại có nhiều địa danh “Tàu”? Chính bởi vì
khi khai phá lưu vực Hồng Hà, cha ông chúng ta đã đặt cho đất ấy những tên như Hà
Ðông, Hà Tây, Hà Nam, Hà Nội… Khi trở về Nam, các vị nhớ tới đất cũ mà đặt tên cho
những nơi vừa khai phá. Không phải vay mượn mà cha ơng ta lấy lại bản quyền của
mình. Khơng chỉ thế, đó cịn là tình cảm là tâm linh tưởng nhớ cội nguồn! Cũng từ cái
chìa khóa thần ấy, ta dễ dàng giải thích vì sao người Việt ln chống Tàu nhưng lại học
hỏi và tơn trọng văn hóa Trung Hoa? Bởi lẽ cha ông ta minh triết: biết phân biệt giặc Tàu
xâm lược với “văn hóa Tàu” vốn là văn hóa gốc của mình!” (Tìm lại cội nguồn tổ tiên,
cội nguồn văn hoá, Hà Văn Thùy)
Thời đại đồ đá cũ
là một thời đại tiền sử được phân biệt bằng sự phát triển của các công cụ đá. Về cơ bản,
nó chiếm gần như tồn bộlịch sử lồi người trên Trái Đất, kéo dài từ khoảng 2,5 triệu
năm trước, với sự xuất hiện của các công cụ bằng đá do các dạng ngườinguyên thủy
như người khéo tay (Homo habilis) đưa ra, cho đến khi có sự xuất hiện của nông
nghiệp vào khoảng 10.000 TCN. Thuật ngữ "Paleolithic", nghĩa văn chương là "Thời đại
cổ của đá", đã được nhà khảo cổ học John Lubbock tạo ra vào năm 1865 và có nguồn gốc
từ tiếng Hy Lạp "παλαιός", "paleos" (cổ, cũ) và "λίθος", "lithos", (đá). Thời đại đồ đá cũ
nói chung kết thúc khi thời đại đồ đá giữa(Mesolithic) bắt đầu, hoặc ở các khu vực với

quá trình đồ đá mới hóa là sự bắt đầu của thời đại đồ đá cũ trên (Epipaleolithic).
Thời đại đồ đá cũ được đặc trưng bằng việc sử dụng các công cụ bằng đá được ghè đẽo,
mặc dù người nguyên thủy vào thời gian đó cũng sử dụng các công cụ bằng gỗ và xương.
Các sản phẩm nguồn gốc hữu cơ cũng được sử dụng làm công cụ, bao gồm da và các
sợi thực vật; tuy nhiên các loại công cụ này đã không được bảo quản ở mức độ đáng kể.


Theo truyền thống, thời đại đồ đá cũ được chia ra thành ba thời kỳ, là thời kỳ đồ đá cũ
hạ, thời kỳ đồ đá cũ trung và thời kỳ đồ đá thượng. Các thời kỳ này đánh dấu các tiến bộ
trong cơng nghệ và văn hóa ở các xã hội loài người nguyên thủy khác biệt.

Đá mới
Nối tiếp văn hố Sơn Vi là văn hố Hồ Bình (lấy tên tỉnh Hồ Bình - nơi phát hiện
những di tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hố Hồ Bình cách
ngày nay 11.000 năm, tức vào đầu thời Tồn Tần. Trên đất Thanh Hố, trung tâm dân
cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá
Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc... Họ thường sống trong các hang động, các núi đá
vơi rộng, thống đãng và gần sơng, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ
chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hố, và chính họ cư dân văn hố Hồ Bình ở Thanh Hố, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc
Sơn sau này.
Nối tiếp văn hố Sơn Vi là văn hố Hồ Bình (lấy tên tỉnh Hồ Bình - nơi phát hiện
những di tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hố Hồ Bình cách ngày
nay 11.000 năm, tức vào đầu thời Tồn Tần. Trên đất Thanh Hố, trung tâm dân cư lúc
này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước,
Thạch Thành, Ngọc Lặc... Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vơi rộng,
thống đãng và gần sơng, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ
trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hố, và chính họ - cư dân văn hố Hồ
Bình ở Thanh Hố, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Sơn sau này. I. Những vết
tích của văn hố hồ bình. 1. Hang Con Moong (xã Thành Yên - huyện Thạch Thành).
Ðây là một hang rộng, nền hang cao hơn 40m so với chân núi hiện tại và rộng hơn 300

m2. Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng diện tích 100 m2 tại cửa hướng Tây Nam, liên
tục từ thời văn hoá Sơn Vi đến văn hố Hồ Bình, Bắc Sơn. Các nhà khảo cổ đã thu được
rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên
thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt. Về cơng cụ bằng đá: cư dân văn hố Hồ Bình ở
Con Moong vẫn giữ truyền thống văn hoá Sơn Vi: dùng đá cuội để chế tác công cụ,
nhưng kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế
tác. Cơng cụ kiểu Xumatơra(3) (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi
được tạo xung quanh rìa hịn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chức
năng sử dụng rất đa dạng: có thể dùng cắt, chặt, nạo....từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ.
Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sưu tập công cụ của họ ở Thanh Hoá; người ta
thường chặt cuội hoặc chặt đơi những cơng cụ hình bầu dục để tạo rìu ngắn; chức năng
của rìu ngắn cũng rất đa dạng. Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu dục của cư dân văn
hố Hồ Bình có nhiều khả năng được sử dụng như những chiếc cuốc đá. Mảnh tước ở
Con Moong có số lượng khơng nhiều, nhưng phần lớn đã được gia công để tạo thành
công cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc. Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những cơng cụ
được tìm thấy khá nhiều. Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng
xương thú với kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao: người ta chỉ lựa


chọn xương ống của động vật có vú - loại xương có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp để chế tác công cụ và đã mài nhẵn đầu. Thức ăn rất phong phú, đa dạng: trong tầng văn
hoá, các nhà khảo cổ học đã thu được 85m3 vỏ nhuyễn thể như trùng trục, trai, ốc...và các
loại xương thú rất phong phú. Chôn người chết theo tư thế nằm nghiêng chân co như cư
dân văn hoá Sơn Vi giai đoạn trước, nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh mộ để
bảo vệ và đều chôn theo công cụ. 2. Di chỉ mái đá Ðiều và các di chỉ khác: Cũng như ở
Con Moong, mái đá Ðiều là một di chỉ chứa đựng nhiều lớp văn hoá thuộc các thời đại đồ
đá khác nhau. Niên đại lớp văn hóa Hồ Bình của Mái đá Ðiều là 8.200 ± 70 năm, cách
ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu được rất nhiều công cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hồ
Bình. Ðáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn nghiền cũng chiếm tỉ
lệ đáng kể. Riêng công cụ bằng mảmh tước, ở một số địa điểm đã xuất hiện kĩ thuật mài
đá. ở các di chỉ mái đá Bát Mọt, hang Mộc Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ

trai xà cừ lớn mà cơng dụng có thể được chủ nhân văn hố Hồ Bình sử dụng như những
lưỡi dao, nạo để vót tre nứa và nạo thịt thú. Một đặc điểm chung nữa là tại các di chỉ văn
hoá này, tầng văn hoá đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con
Moong: 3,5m, mái đá Ðiều: gần 4m, mái đá Làng Bon: 3,7m, hang Ðiền Hạ III: 3,8m,
mái đá chịm Ðồng Ðơng: 3,5m; chứa đựng một khối lượng vỏ nhuyễn thể rất lớn lẫn
trong lớp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật. Cư trú trong các hang động, mái đá
tương đối cao, có nơi rất cao (như Con Moong), cư dân Hồ Bình ở Thanh Hố chắc
rằng, ngồi những cơng cụ bằng đá, đã sử dụng một số lượng khơng ít các cơng cụ và đồ
dùng được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây... Ðể đựng các loại
nhuyễn thể lượm nhặt từ sông, suối đem về nơi cư trú. Các nhà khảo học đã phát hiện
được nhiều mộ táng của người Hồ Bình ở Thanh Hố. Ðã tìm thấy ở hang Lộc Thịnh,
mái đá Làng Bon, mái đá làng chịm Ðồng Ðơng... các di cốt, xương, răng bị vỡ, mủn.
Ðáng chú ý nhất là các di tích Con Moong (2 mộ), mái đá Ðiều (13 mộ), mái đá Mộc
Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ). Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn và cho thấy tư
thế chơn nằm nghiêng co bó gối, bơi thổ hồng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật làm
đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hồ Bình. Chủ nhân
của văn hố Hồ Bình ở Thanh Hố đã tiến tới tổ chức cơng xã thị tộc mẫu hệ. Các công
xã thị tộc thường cư trú trong một vùng đất nhất định. Trong mỗi hang động là một thị tộc
cư trú bao gồm nhiều gia đình nhỏ với vợ chồng, con cái. Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn
được tìm thấy có quy mơ nhỏ hơn giai đoạn trước và số lượng cũng tăng hơn. Kinh tế hái
lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của
người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Với môi trường sinh sống gần sông, suối, khai
thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân văn hoá Hồ Bình ở Thanh Hố đã chuyển
từ cuộc sống hái lượm - săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa. Ðó là mầm mống sơ
khai của nền kinh tế sản xuất nơng nghiệp: người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số
lồi cây có củ, quả như rau, đậu, bầu bí... và thuần dưỡng chó. Những quan niệm tơn giáo
sơ khai, mầm nghệ thuật - sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sỉnh trong quá trình lao động
kiếm sống và vui chơi giải chí. Ðó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã
hội của cư dân văn hố Hồ Bình xứ Thanh và với thành quả ấy, họ đã thực sự góp phần
vào cách mạng đá mới. Sau hơn 70 năm phát hiện và nghiên cứu văn hố Hồ Bình ở

Việt Nam cũng như ở Thanh Hố đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về lịch sử Thanh
Hoá thời đại đồ đá mới: đó là sự phát triển liên tục, nội tại từ cư dân văn hoá núi Ðọ đến
Sơn Vi và văn hố Hồ Bình. II. Đồ gốm xuất hiện và cư dân văn hoá bắc sơn ở Thanh
hoá: Tại Thanh Hoá, dấu vết văn hoá Bắc Sơn đã được phát hiện trong các lớp văn hoá


muộn của các di chỉ mái đá Thạch Sơn, mái đá chịm Ðồng Ðơng, hang Lộc Thịnh, mái
đá Ðiều, hang Mỹ Tế, mái đá làng Bon, làng Ðiền Hạ III...và đặc biệt rõ ở hang Con
Moong- thuộc lớp trên cùng, có niên đại khoảng 7.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân văn
hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá cũng như ở nơi khác, đã đưa kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá
đến trình độ cao: họ đã biết và phổ biến kỹ thuật mài đá. Ðã tìm thấy trong các di chỉ Bắc
Sơn ở Thanh Hoá những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất nhiều chày nghiền, bàn
nghiền. Những chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn ra đời đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của
nghề nông đã thai nghén từ văn hố Hồ Bình. Nhưng thành tưụ kĩ thuật lớn nhất của cư
dân văn hoá Bắc Sơn là phát minh ra đồ gốm. Mặc dù cịn rất thơ sơ về chất liệu, hình
dáng, hoa văn, độ nung cịn thấp, nhưng cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của
chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá phát triển hơn hẳn nền kinh tế sản xuất nơng
nghiệp của văn hố Hồ Bình. Tuy nhiên kinh tế sản xuất chưa thể chiếm vai trò chủ đạo
trong đời sống của người Bắc Sơn. Hái lượm và săn bắn vẫn đóng vai trị chính trong đời
sống của họ: trong các hang động nơi họ cư trú, tầng văn hoá vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể
và xương cốt động vật (lớp văn hoá Bắc Sơn ở Con Moong - lớp trên cùng- có độ dày từ
mặt đất từ 0,2m - 1,2m, đã thu được tới 60m3 vỏ nhuyễn thể). Xã hội người nguyên thuỷ
văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá đã phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ngày càng lệ thuộc vào
thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng. Ðó là những cơng việc chủ yếu
do phụ nữ đảm nhận, và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò người phụ nữ
trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. III. Cư dân văn hoá đa bút chiếm lĩnh
đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước. Vào hậu kì thời đại đồ đá mới, cách
ngày nay khoảng 6.000 - 7.000 năm, sau nhiều đợt biển tiến, biển lùi, sang thế Hơlơxen,
đồng bằng sơng Mã đã hình thành tương đối ổn định với tài nguyên phong phú, đầy hấp

dẫn, đã lơi cuốn chủ nhân văn hố Hồ Bình - Bắc Sơn ở vùng núi rời khỏi các hang động
- nơi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi. Nền
nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng với dân cư văn hoá Hạ Long ở phía Bắc, văn
hố Quỳnh Văn ở phía Nam, người nguyên thuỷ ở Thanh Hoá làm nên một nền văn hoá
Ða Bút độc đáo, làm phong phú thêm diện mạo văn hoá của các bộ lạc nguyên thuỷ sinh
sống trên tồn cõi Bắc Việt Nam. 1. Văn hố Ða Bút: Theo hiểu biết hiện nay, văn hoá Ða
Bút gồm hệ thống các di chỉ Ða Bút (xã Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng
Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, Cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, huyện Hà
Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc). Khai quật và nghiên cứu hệ thống di
chỉ này, các nhà khảo cổ học đã chứng minh rằng chủ nhân của văn hố Ða Bút theo q
trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá. Kết
quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ văn hoá Ða Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai
đoạn này đã bước vào thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển. Nhờ nông nghiệp lúa
nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ
công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá được mở rộng.
……………….
Vương quốc Phù Nam với văn hóa Ĩc Eo và các vết tích văn hóa (khoảng từ thế kỷ I
đến thế kỷ VI sau Công nguyên):
Vào đầu Công nguyên, Vương quốc Phù Nam (Fou - Nan) hình thành ở miền Nam Đơng
Dương, quản lý cả một vùng rộng lớn gồm nước Kampuchia, miền Nam Thái Lan, một


phần nước Lào, hết Nam Bộ và tới đèo Cả hiện nay. Cư dân Phù Nam gồm nhiều bộ tộc
thuộc giống người Anhđônêdiêng, ngữ hệ Nam Á - Nam đảo, theo đạo Hindu - Ấn Độ
giáo. Kinh đơ đóng ở Ba Phnom có tên phạn ngữ là Vyâdhapura, nay thuộc tỉnh Preyven
(Đơng Nam Kampuchia), mở thương hải cảng ở Ĩc Eo gần núi Ba Thê thuộc tỉnh An
Giang ngày nay(1).
Trong những thế kỷ qua những vết tích của Vương quốc Phù Nam hầu như bị
quên lãng, mãi đến những năm 40 của thế kỷ XX, sau cuộc khai quật khảo cổ lớn tại khu
di tích Ĩc Eo (Thoại Sơn - An Giang) mới được các giới khoa học quan tâm nghiên cứu.

Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (E.F.E.O) coi những sản phẩm vật chất ở di tích Ĩc Eo là
của văn minh Phù Nam và gọi là nền văn hóa Óc Eo. Đến nay, hàng trăm di tích lớn đã
được khai quật nghiên cứu ở miền Tây Nam bộ. Trong đó, các di tích ven biển được quan
niệm là "Phù Nam biển" (Fou Nan maritime), các di tích trong vùng sâu, vùng cao thuộc
hạ lưu sông MêKong được coi là vùng đất "Phù Nam nội địa" (Fou Nan continental). Bấy
giờ, quan niệm những vết tích văn hóa Phù Nam chỉ phân bố ở miền Tây sơng Hậu.
Những di tích được khai quật nghiên cứu thường thuộc loại hình di chỉ cư trú, di
chỉ kiến trúc đền đài, di chỉ kiến trúc được quan niệm là mộ hỏa táng... có khung niên đại
từ thế kỷ I đến VI sau Công nguyên. Trong các di tích cịn thu thập một khối lượng lớn cổ
vật mang đặc trưng phát triển các ngành nghề sản xuất thủ công nghiệp như: nghề làm
gốm, luyện đồng, luyện sắt, luyện thiếc và nghề kim hoàn với nghệ thuật khắc mịn trên
đá, ngọc rất tinh tế; nghệ thuật tạc tượng cũng khá tinh xảo. Đặc biệt trong các di tích
phân bố gần bờ biển cổ phía Tây - Nam như di tích Ĩc Eo (An Giang), Nền Chùa, Cạnh
Đền (Kiên Giang) và nhiều cổ vật liên hệ đến hoạt động giao lưu thương mại quốc tế như
những đồng tiền vàng La Mã; những con dấu - vật đeo chạm hoa văn mang truyền thống
nghệ thuật Ba Tư, Ấn Độ; những gương đồng thời Tam Quốc; những pho tượng Phật
bằng đồng thời Bắc Ngụy (Trung Hoa). Ngồi ra cịn có số lượng lớn các loại hạt chuỗi,
vật đeo bằng đá quý, thủy tinh, mã não thật, mã não giả, vàng, thiếc.... Đáng chú ý là tìm
thấy những bản bia đá, những bản minh văn, những hiện vật nhỏ như con dấu, đồ trang
sức, bùa đeo bằng đồng, thiếc, vàng, mã não khắc nhiều thứ chữ Hán, Mã Lai, La Tinh,
Phạn. Trong đó chữ Phạn (Sanskrit) chiếm đa số với văn tự được dùng ở Ấn Độ từ thế kỷ
II - V sau Cơng ngun.
Dọc theo bờ biển phía Nam, khảo cổ học cũng tìm thấy những loại đồ trang sức
tương tự ở di tích Arikamedu (Đơng Nam Ấn Độ), Man Tai (Srilanka), Khuan Lak Pat,
Khuan Phun Pin, Phu Khao Thong, Yarang, U Thông, Chan Sen, Pathom (Nam Thái
Lan), Kuala Selingsing (Bắc Malaysia).... Những di tích đều có niên đại khoảng thế kỷ
I - VI sau Công nguyên. Chúng được xem là nơi vừa sản xuất, vừa trao đổi sản phẩm và
cùng với cảng thị Óc Eo hợp thành con đường thương cảng trên biển từ Ấn Độ đến Nam
Trung Hoa. Đồng thời là đầu cầu giao lưu kinh tế, văn hóa với các vùng sâu trong đất liền
của các đồng bằng châu thổ sông Menam Chao Phrya (Thái Lan), Inrawaddy (Myanmar),

sông Cửu Long (Nam bộ Việt Nam) và Tonle Sáp (Kampuchia).
Vùng đất phía Đơng - Bắc đồng bằng Nam bộ thuộc hạ lưu sông Đồng Nai được
xem thuộc "Phù Nam nội địa" vào những năm 80 của thế kỷ XX, Malleret phát hiện một
địa điểm có tên Bàu Thành hoặc Bàu Tượng (Mare aux Eléphants) thuộc tỉnh Bà


Rịa - Vũng Tàu, thu thập hai con lăn bằng đá và nhiều mảnh gốm gần gũi với gốm Óc
Eo. Trên một quả đồi ở phía Tây Bãi Dứa (Vũng Tàu) cũng phát hiện một kho đồ trang
sức bằng vàng, bạc gồm 58 loại có bơng tai, vàng nhẫn, hạt chuỗi, móc đeo, mảnh vàng
dập hình ốc và các hạt đá quý dùng gắn vào đồ trang sức. Đây là những sản phẩm của văn
hóa Ĩc Eo.
Ở Đồng Nai có bốn di tích được xem là tiền thân văn hóa Óc Eo.
Trên nền đất phù sa cổ thuộc xã Long Phước, huyện Long Thành phát hiện hai di
tích kiến trúc Gị Chiêu Liêu, Gị Ơng Tùng nằm theo hướng đơng - tây, cách nhau
khoảng 100 m. Hai di tích được xây dựng gần giống nhau, có bình đồ hình chữ nhật,
xung quanh xây vách gạch, trung tâm là một huyệt thờ hình vng. Trên vách và nền
gạch tìm thấy nhiều lỗ cột hình trịn đục xun qua gạch sau khi kiến trúc được xây xong.
Niên đại phóng xạ C14 cho kết quả 1900  70 năm cách ngày nay, tức vào khoảng thế kỷ
I - II sau Công nguyên.
Trong khu vực lòng hồ Trị An thuộc xã Cây Gáo, huyện Vĩnh Cửu phát hiện hai
di tích kiến trúc Cây Gáo I và II nằm cách nhau khoảng 60m theo hướng bắc - nam, bên
bờ tả ngạn sông Đồng Nai. Hai di tích đều có bình đồ kiến trúc hình chữ nhật, xung
quanh là vách tường dầy, trung tâm là huyệt thờ hình vng, trên vách tìm thấy những lỗ
chân cột hình trịn đục xun qua gạch. Niên đại phóng xạ C 14 cho kết quả 1700  45
năm cách ngày nay, tức vào khoảng thế kỷ III sau Công nguyên.
Di vật tìm thấy trong các di tích kiến trúc khơng nhiều ngồi những mảnh gốm
thơ, mịn của nhiều tiêu bản đồ đựng có chất liệu hình dáng tương đồng với gốm truyền
thống văn hóa Ĩc Eo.
Những di tích kiến trúc ở Đồng Nai đều xây dựng bằng gạch mộc (gạch phơi
khơ hoặc nung qua lửa), có dạng đền thờ của đạo Hindu - Ấn Độ giáo. Trên kiến trúc

gạch là một kiến trúc khác bằng vật liệu nhẹ (gỗ - tre - lá) làm mái che. Những ngôi đền
đạo Hindu ở Ấn Độ đã từ lâu được xây dựng bằng đá, đục trong núi hoặc xây bằng gạch
mộc chứ không dùng vật liệu nhẹ như ở Đồng Nai và Nam bộ.
Những di tích kiến trúc dạng đền thờ đạo Hindu - Ấn Độ giáo ở Đồng Nai có
niên đại khá sớm so với các di tích cùng thời ở Nam bộ, kết cấu vật liệu xây dựng bằng
gạch - gỗ, có khả năng là vết tích văn hóa Ĩc Eo mở đầu ở Nam bộ trước khi hình thành
cảng thị Óc Eo. Theo cổ thư Ấn Độ - Trung Hoa thì hoạt động giao thương, trao đổi văn
hóa giữa cư dân Thiên Trúc - Ấn Độ và cư dân vùng Đông Nam Á diễn ra khá sớm mà
khảo cổ học phát hiện nhiều địa điểm nằm dọc theo duyên hải và cả trong nội địa Đông
Nam Á những sản phẩm giao thương có niên đại sớm nhất vào khoảng thế kỷ IV - III
trước Công nguyên. Lúc ấy, cảng thị Cần Giờ là đầu cầu giao lưu kinh tế - văn hóa quan
trọng trong vùng Đồng Nai. Có lẽ kiến trúc dạng đền thờ đạo Hindu - Ấn Độ giáo được
đầu tiên du nhập vào đây, sau đó chuyển về miền tây Nam bộ khi cảng thị Ĩc Eo hình
thành. Vật liệu xây dựng kiến trúc bằng gạch - gỗ là sản phẩm sáng tạo tại chỗ, kết hợp
hai truyền thống bản địa và ngoại nhập.


Truyền thống bản địa có nguồn gốc từ kiến trúc nhà sàn, loại kiến trúc này còn
lưu lại nhiều dấu vết ở trạng thái nguyên thủy tại nhiều địa điểm trong vùng đầm lầy, thấp
trũng, ngập nước xưa ven sông, ven bờ biển cổ trong các di chỉ thuộc thời đại kim khí
trước đó và liên tục kế thừa nhiều thế kỷ sau Công nguyên. Đây là một bộ phận quan
trọng trong các dạng kiến trúc đền thờ của cư dân văn hóa Ĩc Eo. Sự phổ biến rộng rãi và
tồn tại lâu dài kiến trúc nhà sàn ở vùng duyên hải và châu thổ sông Cửu Long cho thấy
sức sống mạnh mẽ và vị thế của nó trong buổi đầu tiếp nhận và thực thi kiến trúc ngoại
nhập.
Truyền thống kỹ thuật làm gạch mộc hẳn được nhập từ Ấn Độ vào cùng thời với
những sản phẩm có xuất xứ từ Ấn Độ qua giao thương được tìm thấy khá phổ biến trong
các di tích trong vùng. Nhưng mãi đến khi vương quốc Phù Nam hình thành, đạo Hindu
được truyền bá nghề làm gạch mới được phát triển mạnh để đáp ứng những nhu cầu tôn
giáo.

Những sản phẩm Ấn Độ có thể được vận chuyển trên biển, khởi phát từ Nam Ấn
tại thương cảng Arikamedu là một trung tâm sản xuất và xuất khẩu các loại hạt chuỗi
(ngày nay có tên là Pondichery), đi thuyền ngang qua vịnh Băng Gan, dừng ở Perak (nơi
có di tích Kuala Selinsing). Từ Perak vượt qua bán đảo Malaysia bằng đường bộ, xuống
thuyền đi ven vịnh Thái Lan (nơi có di tích Ban Don Ta Phet) rồi vào biển Đông. Từ đây
đi dọc theo bờ biển châu thổ sơng Cửu Long (bấy giờ cịn lầy lội) đến Vũng Tàu vào
vùng cửa sông Đồng Nai - Sồi Rạp.
Di tích kiến trúc Gị Chiêu Liêu, Gị Ông Tùng, Cây Gáo I và Cây Gáo II được
xây dựng theo kiểu đền đài của đạo Hindu - Ấn Độ giáo có niên đại vào khoảng thế kỷ
I - II sau Cơng ngun. Đây là những chứng tích về "Ấn Độ hóa" sớm nhất trên vùng
đồng bằng Nam bộ Việt Nam. Những ngôi đền này đã một thời là nơi truyền bá đạo
Hindu và văn minh Ấn Độ đến cộng đồng cư dân trong vùng. Các di tích kiến trúc này
khơng phải là những cơng trình sao chép ngun bản của Ấn Độ mà nó được xây dựng
bằng sự kết hợp hai truyền thống văn hóa bản địa và văn hóa Hindu. Trên thực tế chúng
là những ngơi đền Hindu giáo đã được bản địa hóa thích nghi với môi trường tự nhiên và
nhân văn trên đất Đồng Nai.
Như vậy, từ khi Phù Nam lập quốc, xây dựng nền văn hóa Ĩc Eo từ thế kỷ I - VI
sau Công nguyên mà phát triển cực thịnh vào thế kỷ III - IV ở Đông Nam Á. Vùng Đồng
Nai từ một trung tâm văn hóa lớn thời tiền sử, mở đầu cho sự xâm nhập văn minh Ấn Độ
và dần mất đi vị thế chiến lược của nó để nhường chỗ cho sự ra đời một trung tâm kinh
tế - văn hóa mới ở vùng châu thổ sơng Cửu Long - miền tây sơng Hậu với các di tích
Cảng thị Óc Eo (An Giang), Cạnh Đền (Kiên Giang) có qui mơ rộng lớn. Bởi vậy, những
di tích văn hóa Ĩc Eo và những sản phẩm văn hóa đặc trưng của nó trên vùng Đồng Nai
khơng dày đặc và phong phú như ở vùng châu thổ sông Cửu Long.



×