BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
TÊN SÁNG KIẾN:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG TIẾT SINH HOẠT LỚP Ở TRƯỜNG THPT
Lĩnh vực: Quản lý
1
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
1.1. Sự cần thiết của việc chú trọng tìm Giải pháp nhằm tạo hứng thú cho
học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT.
Hiện nay, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo là trách
nhiệm của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người
học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ. Mục tiêu giáo dục
phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang
bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Nội dung giáo dục đã chuyển
hướng từ việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chun mơn, khơng gắn
với các tình huống thực tiễn, nội dung được quy định chi tiết trong chương trình
sang lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn
với các tình huống thực tiễn, chương trình chỉ quy định những nội dung chính,
khơng quy định chi tiết. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được
đổi mới từ hướng Giáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá
trình dạy học, học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn sang
hướng Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ, học sinh tự lực và tích cực
lĩnh hội tri thức, chú trọng khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp, phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh.
Tuy nhiên, về phương pháp dạy học và giáo dục ở khơng ít trường phổ
thơng hiện nay, một số giáo viên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, đặc
biệt là những giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp. Cụ thể, trong những
tiết sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu thuyết giảng một chiều – biểu
dương những thành tích, phê bình những sai phạm của học sinh, chưa dành
2
nhiều thời gian đưa ra những tình huống có vấn đề, hay khơi gợi những bức xúc,
những suy nghĩ đa chiều cho học sinh được bày tỏ, tâm sự, để các em nói ra suy
nghĩ của mình, thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, quan điểm và cách ứng xử
của các em trước cuộc sống (Mà đây là một cách tạo hứng thú, giúp các em
thoải mái, tự tin thể hiện chính kiến, hiểu biết, vẻ đẹp tâm hồn mình; cũng là
hoạt động nhằm đổi mới nội dung giáo dục).
“Giáo viên không phải là một nghề mà là một sứ mạng. Đó là trọng trách
cao cả để dìu dắt học sinh mở rộng tầm nhìn, đánh thức tâm hồn, định hướng
tương lai, giúp những công dân tương lai ngày càng hồn thiện về trí tuệ, tâm
hồn và nhân cách” (Nhà giáo Đàm Lê Đức). Quả đúng như vậy. Nhiệm vụ của
người giáo viên khơng chỉ là phát huy trí tuệ của học sinh mà còn vun đắp tâm
hồn và giúp các em từng bước hoàn thiện nhân cách. Đối với người giáo viên
chủ nhiệm, ngồi cơng việc giảng dạy, giáo viên chủ nhiệm còn phải là một nhà
giáo dục, nắm bắt những tâm tư, tình cảm, chăm lo đến quá trình học tập và rèn
luyện đạo đức của mỗi em và của cả tập thể học sinh. Trong công tác chủ nhiệm,
giờ Sinh hoạt lớp đóng vai trị rất quan trọng. Đó là một hoạt động giáo dục hữu
ích góp phần xây dựng tập thể học sinh đồn kết và giúp các em phát triển
những kĩ năng sống cơ bản. Chính thơng qua hoạt động này, giáo viên chủ
nhiệm có điều kiện gắn bó với học sinh trong một cộng đồng chung để cùng giải
quyết những vấn đề của tập thể, đồng thời nắm được những thông tin cần thiết
làm cơ sở để đánh giá quá trình rèn luyện của học sinh. Tuy nhiên, để đạt được
mục tiêu đó, người giáo viên chủ nhiệm cần tạo điều kiện để học sinh phát huy
vai trị, năng lực, tính tích cực, chủ động trong hoạt động giáo dục…
Chính vì vậy, việc tìm hướng tiếp cận ra sao để đổi mới phương pháp
trong tiết Sinh hoạt lớp nhằm tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập và giáo
dục cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp xung quanh, biết
cảm thông, yêu thương, chia sẻ với mọi người, với cuộc đời là vấn đề được đặt
ra và cần phải giải quyết.
3
Với vai trò là người tổ chức, hỗ trợ, hướng dẫn, điều khiển quá trình học
tập và giáo dục của học sinh, hơn ai hết, giáo viên phải tìm tịi, xây dựng hướng
tiếp cận mới để phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú,
hưng phấn, khơi dậy đam mê học tập và tình cảm, hành động tích cực ở mỗi học
sinh trong và ngồi nhà trường.
Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân
văn, nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một.
Từ thực tế ấy, đòi hỏi giáo viên nói chung và đặc biệt là các thầy cơ làm cơng tác
chủ nhiệm nói riêng phải nhận thức rõ vai trị và trách nhiệm của mình. Nó địi
hỏi người giáo viên ngồi chun mơn vững vàng, cần có tâm thế tốt, luôn nhiệt
huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp để tạo được hứng thú học
tập cho HS, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, hưng phấn, tích cực cho học sinh
trong học tập bộ mơn nói chung và trong tiết Sinh hoạt lớp nói riêng là đổi mới
phương pháp dạy học và giáo dục theo hướng lấy hoạt động học tập và giáo dục
của học sinh làm trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến
thức, người thầy đóng vai trị là người tổ chức, chỉ đạo, hỗ trợ. Vì vậy, việc
nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận giáo dục linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm
tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của
bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy văn hóa nói chung và đặc biệt là
trong tiết Sinh hoạt nói riêng, học sinh ln hứng thú, chủ động, u thích tiết
học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, tôi chọn đề tài: “Một số giải
pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT”.
1.2. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài.
4
Là một trong những người làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp, tôi
xác định rõ tác động của hứng thú trong cuộc sống của con người nói chung và
tác động của hứng thú trong dạy học nói riêng.
1.2.1. Tác động của hứng thú trong cuộc sống.
- Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực,
duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người.
- Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con
người chịu khó tìm tịi và sáng tạo.
- Hứng thú đóng vai trị chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân
cách con người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng
hoạt động khác.
- Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
1.2.2. Tác động của hứng thú trong dạy học.
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên – là những “kỹ sư tâm
hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người
(nhân cách). Dạy học không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó
đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A.Ward thì:
“Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”
Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh –
người học – là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể
dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo
Galileo Galilei).
Cho nên, trong q trình dạy học và giáo dục, nếu giáo viên khơi dậy
được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực,
5
giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học
tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự
giác, không bị ép buộc,…
Cụ thể, khi hứng thú học tập, người học sẽ:
- Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn,
thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.
- Hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ
ràng.
- Chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới,
tập trung chú ý vào vấn đề đang học.
- Kiên trì hồn thành bài tập, khơng nản chí trước những tình huống khó
khăn…
- Hứng thú cịn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp
đến cao:
+ Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn…
+ Tìm tịi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải
quyết khác nhau về một vấn đề…
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Tóm lại, học sinh khi hứng thú với tiết học sẽ tạo khơng khí thi đua học
tập sơi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tịi, nghiên cứu… đây chính là một
trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tơi tin rằng với tiền đề đó,
q trình dạy học, giáo dục nhất định sẽ đạt được kết quả cao.
“Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất
của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài
năng.”(Viện KHGD – “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”)
Như vậy, việc tìm hướng tiếp cận nhằm tạo hứng thú trong giáo dục cho
học sinh là rất cần thiết, giúp các em hăng hái, tích cực, chủ động, sáng tạo trước
6
các tình huống đặt ra trong bài học và liên hệ thực tế, từ đó tạo cơ sở quan trọng
để các em sống tích cực, chủ động, hài hịa và lành mạnh trước cuộc sống. Và
làm được như thế tức là chúng ta đã thực hiện được mục tiêu giáo dục phổ
thông, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Có thể khẳng định rằng, việc tìm hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng
thú cho HS trong hoạt động dạy học và giáo dục ở trường phổ thông hiện nay
luôn được các giáo viên quan tâm, chú trọng và trăn trở. Là giáo viên giảng dạy
và làm công tác chủ nhiệm, trên cơ sở nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng đặc
biệt và ý nghĩa giáo dục thiết thực của tiết Sinh hoạt lớp đối với người học, bản
thân tơi ln tự thúc giục mình phải khơng ngừng tìm tịi, nghiên cứu để tìm ra
những giải pháp tiếp cận tiết học nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ
Sinh hoạt lớp. Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong học tập cho học
sinh rất phong phú và đa dạng ; song do thời gian và khả năng bản thân nên tôi
chỉ tập trung nghiên cứu cho các vấn đề: Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh; Phát
huy vai trò của Ban cán sự lớp; Nâng cao ý thức tự quản; Tích cực trong đánh
giá, phê bình, góp ý; Tích cực trong sinh hoạt tập thể; Mời đại diện phụ huynh
đến dự tiết Sinh hoạt lớp; Tác phong sư phạm của người thầy. Đây là một số
hướng tiếp cận có tính chủ quan mà tơi đã rút kinh nghiệm từ hoạt động giáo
dục thực tiễn của mình và đã đạt được hiệu quả nhất định.
7
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.1. Cơ sở lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng căn dặn các thế hệ học sinh Việt
Nam : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay khơng, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được
hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Và như
Jacques Delors đã nói : “Giáo dục là một trong những cơng cụ mạnh nhất mà
chúng ta có trong tay để đào tạo nên tương lai”.
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời
đại, theo đó địi hỏi nền giáo dục nước ta cần có sự đổi mới căn bản, tồn diện
để bắt kịp thời đại.
Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân
và giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II –
Khóa VIII).
Luật Giáo dục điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học ; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm ; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm
học tập cho học sinh”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn, bản toàn diện
Giáo dục và đào tạo cũng nêu ra : “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kĩ năng của người học …”
Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về đổi mới căn, bản toàn diện Giáo dục và đào tạo là: phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Toàn diện ở đây được hiểu là chú
trọng phát triển cả phẩm chất và năng lực con người, cả dạy chữ, dạy người, dạy
8
nghề. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực
cần thiết như trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hồi bão và lí tưởng phục
vụ Tổ quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã
hội; có hiểu biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả… như Bác
Hồ từng mong muốn: “một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người
công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hồn
tồn những năng lực sẵn có của các em”.
Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát
triển bền vững của một quốc gia. Đảng ta đã quyết tâm phải đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục. Thực hiện nhiệm vụ đó, ngành giáo dục nhiều năm nay đã
khơng ngừng triển khai tới tất cả các nhà trường, các thầy cô giáo yêu cầu đổi
mới phương pháp giảng dạy, quản lí, ứng dụng cơng nghệ thơng tin, đổi mới
cơng tác chủ nhiệm, giáo dục kĩ năng sống, tổ chức các hoạt động ngồi giờ lên
lớp,... Đã có rất nhiều cuộc tập huấn đổi mới phương pháp được tổ chức, nhiều
tài liệu có tính chất lí luận về các vấn đề này đã được ban hành. Trong đó có cả
những nội dung tập huấn về công tác chủ nhiệm.
Công tác chủ nhiệm lớp là làm công việc chỉ đạo, quản lý giáo dục toàn
diện học sinh (HS) một lớp. Đồng thời là người chỉ đạo mọi hoạt động của HS
bao gồm: hoạt động học tập, hoạt động rèn luyện theo quy định của điều lệ
trường phổ thơng. Bên cạnh đó, chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể HS với
các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường; là người tổ chức, phối hợp các lực
lượng giáo dục.
Cùng với nhà trường, thơng qua cơng tác chủ nhiệm, góp phần định hình,
định hướng tính cách của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là nhà quản
lý, nhà tâm lý; là nơi để các em học sinh chia sẻ những buồn vui, là một chỗ dựa
tinh thần vững vàng cho các em trong cuộc sống. Đồng thời, GVCN là người
đánh giá khách quan kết quả rèn luyện của mỗi HS và phong trào chung của lớp.
9
Đổi mới công tác chủ nhiệm là phải đổi mới cả nội dung và phương
pháp. Đổi mới phương pháp vừa là yêu cầu để phù hợp với đổi mới nội dung,
vừa là động lực thúc đẩy nội dung không ngừng hồn thiện. Nếu chỉ đổi mới nội
dung mà khơng đổi mới phương pháp thì sa vào tình trạng khơng đồng bộ; gặp
rất nhiều khó khăn khi giải quyết vấn đề. Ngược lại, nếu chỉ đổi mới phương
pháp mà không đổi mới nội dung thì sa vào tình trạng “bình mới rượu cũ”, vơ
tình tạo sức ì cho sự phát triển nội dung.
Cơng tác chủ nhiệm có vai trị hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo
đức, kĩ năng sống, nâng cao tri thức cho các em HS. Trong qui định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, công tác chủ nhiệm được tính 4 tiết trên tuần. Trong đó có một
tiết chính khóa, đó là giờ Sinh hoạt lớp ngày cuối tuần. Như vậy, Sinh hoạt là
một môn học bắt buộc. Tuy nhiên, đây là một mơn học có nhiều điểm khác biệt
với những mơn học văn hóa khác. Vì Sinh hoạt lớp là dạng hoạt động giáo dục
tập thể, là một hình thức tổ chức tự quản cho HS và là một trong những biện
pháp cơ bản góp phần xây dựng tập thể HS đồn kết. Chính thơng qua các giờ
sinh hoạt lớp, các em HS có thể bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá,
nhận xét nhau thẳng thắn, tích cực. Các HS trong lớp được liên kết lại với nhau,
GV gắn bó với HS trong một cộng đồng thu nhỏ để giải quyết những vấn đề của
cuộc sống thực hàng ngày ở nhà trường, lớp học. HS được mở rộng các mối liên
hệ, tăng cường sự hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục
bộ, bè phái trong đời sống tập thể. Đây cũng là dịp để HS làm quen với nhiều
loại hình hoạt động khác nhau, giúp các em phát triển các kĩ năng cơ bản và cần
thiết cho bản thân. Các em phải được vừa học vừa chơi, được thể hiện khả năng
của mình... Nếu như các bộ mơn văn hóa đều có chương trình, sách giáo khoa,
sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu tham khảo..., thì bộ mơn Sinh
hoạt lớp lại khơng có một tài liệu hướng dẫn cụ thể nào. Vài năm gần đây, việc
thiết kế giáo án sinh hoạt lớp đã được triển khai đến các nhà trường, các thầy cô
giáo làm công tác chủ nhiệm. Như vậy, nội dung và cách thức cơ bản để tiến
hành giờ Sinh hoạt lớp đã được thống nhất trong các nhà trường. Tuy nhiên việc
thực hiện ở mỗi nơi, mỗi giáo viên..., vẫn có sự khác biệt.
10
2.2 . Cơ sở thực tiễn.
2.2.1. Thực trạng việc lên lớp của giáo viên chủ nhiệm trong tiết Sinh hoạt lớp ở
trường THPT.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của GVCN là việc tổ chức giờ
Sinh hoạt lớp. Trong nhà trường phổ thông, giờ sinh hoạt lớp thường được xếp
vào tiết học cuối của mỗi tuần học. Đây là thời điểm để các em HS tự đánh giá
những hoạt động học tập, rèn luyện của cá nhân và tập thể lớp trong tuần, trên
cơ sở đó xây dựng kế hoạch hoạt động cho tuần tiếp theo nhằm mục tiêu hoàn
thành tốt kế hoạch năm học. Đây cũng là dịp để các em được bày tỏ, chia sẻ tâm
tư, tình cảm và tham gia các sinh hoạt tập thể cùng với các thành viên trong lớp.
Từ đó, các em sẽ được trải nghiệm, được rèn luyện và phát triển nhân cách.
Song, phần lớn các em HS khơng có nhận thức đúng đắn về vai trị của giờ học
này. Chính vì thế thái độ học tập của các em chưa tích cực, đặc biệt không mấy
hứng thú.
Vậy làm sao để gây được hứng thú cho HS, không làm cho giờ Sinh hoạt
bị căng thẳng hoặc nhàm chán, lôi cuốn được HS vào những hoạt động tích cực
trong giờ sinh hoạt lớp?
Có thể nói, đối với các thầy cơ giáo làm cơng tác chủ nhiệm lớp, giờ Sinh
hoạt là khoảng thời gian vô cùng quý báu để triển khai công việc, chấn chỉnh
nền nếp, uốn nắn HS, khơi dậy trong các em sự thích thú, khả năng sáng tạo....và
đặc biệt là giáo dục kĩ năng sống cho các em một cách tập trung và hiệu quả.
Nhận thức rõ vai trò của tiết Sinh hoạt lớp, hiện nay, hầu hết giáo viên chủ
nhiệm đã ý thức sâu sắc việc đổi mới phương pháp cho tiết Sinh hoạt lớp, nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động của người học, tạo hứng thú cho HS, giúp các
em được bày tỏ ý kiến, tình cảm, được thực hành giao tiếp nhiều hơn.
Tuy nhiên, thực tế việc tổ chức tiết Sinh hoạt lớp của khơng ít GVCN ở
các trường THPT hiện nay chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như
mong muốn, vẫn còn nhiều bất cập cần được khắc phục, trong đó có trường tơi
đang cơng tác. Đó là:
11
- Một số GV vẫn còn làm việc quá nhiều, nặng về thuyết trình đạo đức
một chiều, khiến giờ học thiếu sự phóng túng, mà trở nên nhạt nhẽo. HS khơng
được phát huy vai trị chủ thể, tích cực, ít có điều kiện chia sẻ, giãi bày tâm tư,
thực hành, liên hệ … Điều này dễ đưa HS vào thế bị động, không tạo điều kiện
cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo, làm tê liệt sự hào hứng của HS.
- Nội dung giờ sinh hoạt lớp khô cứng lặp đi lặp lại, không thực sự gắn
với nhu cầu của HS. Vì thế, các em khơng thực sự cảm nhận được vấn đề trong
từng tuần học là vấn đề của chính các em phải giải quyết mà là vấn đề của thầy,
cơ giáo.
- Hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp đơn điệu, nhàm chán, không hứng
thú với HS bởi các em không được cùng nhau tổ chức, tham gia vào giờ Sinh
hoạt lớp.
- GV quá nghiêm khắc, không gần gũi, thân thiện, khơng đặt mình vào vị
trí của HS để lắng nghe tích cực tiếng nói của các em, để hiểu các em, để có
những chia sẻ, uốn nắn, định hướng hiệu quả...
- GV thường phê bình học trò hơn là khen ngợi (60 - 70%), mà lẽ ra phải
là ngược lại.
2.2.2. Thực trạng tiết Sinh hoạt đối với học sinh ở trường THPT.
Như đã nói ở trên, phần lớn các em HS khơng có nhận thức đúng đắn về
vai trị của giờ Sinh hoạt lớp. Chính vì thế, thái độ học tập của nhiều em là chưa
tích cực, đặc biệt không mấy hứng thú với tiết học này.
Thâm nhập vào các diễn đàn của tuổi teen, có thể rút ra được khung cảnh
và diễn biến của một số giờ Sinh hoạt lớp khiến các em “uể oải” như:
Ví dụ 1:
“Thầy chủ nhiệm lớp tớ nghiêm có tiếng, nên tiết Sinh hoạt lớp tớ thường
im phăng phắc. Thầy chỉ định ai phát biểu, ai nêu ý kiến gì thì mới được phát
biểu, nêu ý kiến. Đừng ai nghĩ đến việc xung phong đứng lên thẳng thắn bày tỏ
quan điểm riêng kiểu “Thưa thầy, em nghĩ khác cơ ạ”.
12
Có bạn thừa nhận nhiều lúc muốn “có nhời” thưa lại với mấy kiểu áp đặt
của thầy chủ nhiệm đối với những hoạt động của lớp lắm, nhưng rồi nghĩ “Một
cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân” nên lại thôi ngay ý định. Điều tệ nhất là
trong lớp lại có khá nhiều “cánh én” khác nghĩ thầm trong đầu hệt như em ấy, và
thế là cả một tập thể im ắng, khơng có lời phản biện nào; khiến cho buổi sinh
hoạt trở thành một chiều, vô cùng thụ động và chẳng có tác dụng gì nhiều với
những vấn đề đáng lẽ cả lớp phải cùng nhau nhiệt tình thảo luận.
Ví dụ 2:
“Với tớ và hội bạn ở lớp thì tiết Sinh hoạt lại nhẹ nhõm lắm, vì khơng
phải là tiết học mơn gì cả, tha hồ xả hơi và cả nhóm tranh thủ chép bài tập về
nhà cho kịp các tiết sau. Cơ giáo vừa hiền, ít nói và chả mấy khi tham gia tiết
sinh hoạt, giao hết cho cán bộ lớp điều hành. Tụi cán bộ lớp cũng chả muốn chơi
nổi làm gì, vừa mất cơng mất sức vừa ngại bị phản ứng nên nói qua loa cho
xong rồi cũng yên phận về chỗ”.
Ví dụ 3:
“Trong buổi sinh hoạt lớp, cô giáo chủ nhiệm lớp tớ thường phê bình
thẳng thắn những hiện tượng lệch lạc của học sinh. Cơ chỉ đích danh từng bạn,
từng khuyết điểm đã mắc phải và dặn dò phải cố gắng sửa chữa trong tuần tiếp
theo. Một số học sinh nói nhỏ với nhau: Như thế này không phải sinh hoạt lớp
mà là giờ “luận tội”...
Ví dụ 4:
“Tất nhiên chúng tớ bao giờ chả đốn được nội dung của tiết Sinh hoạt.
Cơ giáo chủ nhiệm với mấy cán bộ lớp sẽ tổng kết lại tất cả một cách dài dịng
những gì ghi ở Sổ Nam Tào (Sổ ghi đầu bài) trong tuần rồi phê bình, kiểm điểm
trước lớp. Cái mới duy nhất của mỗi tiết “phụ mà chính” này là “nín thở chờ
xem tuần này anh nào nhà ta bị lên thớt và vận xui tới đâu với mấy hình phạt...”.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3.1. Tên biện pháp và tầm quan trọng của biện pháp.
13
Vấn đề tìm giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt
lớp ở trường THPT không phải là một việc làm mới, bởi nó đã được rất nhiều
tác giả quan tâm, nghiên cứu. Song, để thực hiện được mục tiêu giáo dục này,
chúng ta cần phải trải qua một q trình tìm tịi, nghiên cứu kĩ lưỡng và áp dụng
đồng thời nhiều biện pháp khác nhau.
Trước hết, giáo viên phải xác định mục đích và tầm quan trọng của việc
tìm giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường
THPT, trên cơ sở đó, xác định hệ thống phương pháp phù hợp để đạt mục tiêu
một cách có hiệu quả. Do đó, GV phải có phương pháp nghiên cứu, tham khảo
tài liệu hiệu quả. Các nguồn tài liệu tham khảo như: Đổi mới phương pháp dạy
học, giáo viên chủ nhiệm và đổi mới cơng tác chủ nhiệm, các tạp chí, các bài
tham luận trên Internet…
Tiếp theo, để khảo sát thực tế về nhu cầu của người học, giáo viên thực
hiện biện pháp quan sát, thống kê. Biện pháp này phải tiến hành trên diện rộng
(thông qua hoạt động học và sinh hoạt tập thể của toàn bộ học sinh ở các lớp
mình giảng dạy và chủ nhiệm), sau đó thống kê để tìm phương pháp phù hợp với
quá trình giáo dục.
Trong quá trình dạy học theo hướng tạo hứng thú cho HS, GV cần vận
dụng biện pháp điều tra – đàm thoại. GV tiếp cận, trao đổi, trò chuyện với HS,
với cha mẹ HS, thông qua những người bạn trong lớp hoặc những người bạn
khác lớp của HS; trao đổi với GV bộ mơn dạy lớp mình chủ nhiệm, với GV
trong Tổ chuyên môn, với các GV chủ nhiệm của trường... Sau đó, GV tiến hành
thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của các ý kiến đóng góp
về việc đổi mới giờ Sinh hoạt lớp.
Và cuối cùng để đánh giá về kết quả thực hiện giải pháp nhằm tạo hứng
thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp, cần vận dụng biện pháp so sánh, biện
pháp này được tiến hành sau khi kết thúc năm học.
14
Vận dụng phối kết hợp các biện pháp nêu trên trong quá trình dạy học
theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ
tạo ra hiệu quả nâng cao chất lượng giáo dục
2.3.2. Đề xuất cách thực hiện.
2.3.2.1. Xác định các yêu cầu, nguyên tắc, phương pháp và hình thức tổ chức
giáo dục.
2.3.2.1.1. Các yêu cầu, nguyên tắc đổi mới tiết Sinh hoạt lớp, bao gồm:
Thứ nhất, nội dung tiết sinh hoạt phải bổ ích, gắn với nhu cầu xã hội, phù
hợp với nhu cầu, hứng thú, kinh nghiệm, trình độ của học sinh khối THPT.
Thứ hai, đa dạng hóa hình thức tổ chức sinh hoạt lớp nhưng cần phù hợp
với các điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
Thứ ba, phát huy thế mạnh của hoạt động nhóm/tổ
Thứ tư, tăng cường vai trị của học sinh, phát huy tính chủ động, sáng tạo
của học sinh. Học sinh là chủ thể, GVCN là người hướng dẫn.
Thứ năm, có sự giao lưu đối thoại giữa GVCN và học sinh, giữa các em
học sinh với nhau.
Thứ sáu, dành thời gian và công sức cho phần chuẩn bị của GVCN và học
sinh trước tiết sinh hoạt lớp.
2.3.2.1.2. Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.
Đẩy mạnh đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát
triển năng lực cho học sinh. Cụ thể:
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các phương pháp giáo dục theo hướng: Giáo
viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ, học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri
thức; phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như giải
quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy học khám phá, dạy học theo dự án,... chú
trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, chiến lược học tập, khả năng hợp tác, kỹ
15
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,… nhằm hình thành và phát triển các
năng lực chung, năng lực chuyên biệt cho học sinh.
- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức giáo dục trong và ngoài lớp học,
trong và ngoài nhà trường; cân đối giữa dạy học và hoạt động giáo dục, giữa
hoạt động tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân,… để đảm bảo vừa phát triển các năng
lực cá nhân, vừa nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi học sinh.
- Tăng cường, nâng cao hiệu quả của các phương tiện dạy học, đặc biệt là
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ đổi mới phương pháp
dạy học. Tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận các nguồn học liệu mở, khai thác
thông tin trong môi trường công nghệ thông tin và truyền thông phong phú, đa
dạng để xây dựng các chủ đề học tập theo sở thích, phát triển năng lực tự học
theo tốc độ, cách học cá nhân.
2.3.2.2. Mô tả giải pháp.
2.3.2.2.1. Thuyết minh tính mới.
2.3.2.2.1.1. Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh.
Khi nhận sự phân công chủ nhiệm từ Ban giám hiệu nhà trường, GVCN
cần tìm hiểu kỹ các đối tượng học sinh của lớp mình. Để làm tốt được cơng tác
chủ nhiệm thì GVCN phải hiểu được tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, mong
ước của các em, nắm bắt được hoàn cảnh sống của các em, những tác động của
gia đình, xã hội đến tâm sinh lí của các em, mối quan hệ của các em với bạn bè
trong và ngồi xã hội. Vậy người giáo viên tìm hiểu bằng cách nào? Một là có
thể trị chuyện trực tiếp với các em, thông qua những người bạn của các em để
hiểu về các em. Hai là thông qua các hoạt động sinh hoạt tập thể để tìm hiểu,
theo dõi những hành động, cử chỉ của các em để hiểu về các em. Ba là thông qua
các tiết Sinh hoạt lớp, tổ chức các trò chơi tập thể để hiểu về các em.
Vào tiết Sinh hoạt đầu tiên của năm học (hay từ khi nhận lớp chủ nhiệm),
GVCN có thể phát cho học sinh mỗi em một “thẻ bài” do chính tay GV làm ra,
16
cho các em tự tay viết lên tấm thẻ đó một số thơng tin: “ngày sinh, sở thích,
năng khiếu, ước mơ của mình và tự tay trang trí cho tấm thẻ theo ý thích của
mình sao cho lành mạnh, lịch sự” (Hoặc giáo viên có thể cho HS làm việc này ở
nhà, các em có thể viết các thơng tin về họ tên, ngày sinh, sở thích …và trang trí
theo sở thích trên ứng dụng điện thoại thơng minh rồi gửi riêng cho GVCN).
Tấm thẻ bài đó GVCN dùng để gọi học sinh trong các tiết học. Ngoài ra, thẻ bài
đó cũng phần nào giúp GVCN hiểu được các em hơn, đồng thời giúp GV ghi
nhớ sinh nhật của các em và có thể gửi lời chúc mừng sinh nhật tới các em, trên
zalo, facebook hoặc trong tiết học nếu ngày hơm đó GV có tiết trên lớp học,
hoặc có thể là lời chúc mừng sinh nhật theo tháng. Đây là một việc làm tuy rất
nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự quan tâm của người thầy đối với các
em học sinh, thầy cô như cha mẹ, như người anh chị đối với người con, em của
mình. Với cách làm đó, học sinh sẽ rất vui mừng và phấn khởi.
Việc làm tiếp theo là GVCN có thể cho mỗi học sinh viết ra một tờ giấy
những điều em mong muốn ở thầy, cô giáo và gửi lại cho giáo viên. GVCN sẽ
đọc tất cả những điều mà các em mong muốn và phân tích những điều các em
mong muốn ở thầy cô giáo, đồng thời GVCN cũng nói điều mà giáo viên mong
muốn ở các em. Qua đó, giáo viên sẽ hiểu được học sinh, học sinh hiểu được
giáo viên, giáo viên điều chỉnh được những hoạt động của mình hướng tới các
em và học sinh có những hành động tích cực trong lớp học, làm cho khoảng
cách giữa giáo viên và học sinh được rút ngắn lại gần hơn.
Một lớp học sẽ có những học sinh ngoan, có những học sinh cá tính, nghịch
ngợm, ương bướng; có học sinh giỏi, có những học sinh thì chưa được giỏi,
những học sinh giỏi thì thường ý thức của các em rất tốt, các em có lịng tự trọng
rất cao; có những em điều kiện gia đình rất tốt, lại có những em thì gia đình rất
hồn cảnh… Do đó, GVCN phải biết phân luồng các đối tượng học sinh để có
phương pháp giáo dục cụ thể, khơng được đánh đồng để áp dụng phương pháp
giáo dục như nhau, bởi làm như vậy hiệu quả khơng cao, thậm chí đơi khi nó
cịn đi ngược lại với mong muốn của chính mình. Đặc biệt, GV khơng la mắng
học sinh, phải ln giữ bình tĩnh trong mọi trường hợp, tình huống để có được
17
những lời lẽ nhẹ nhàng, tình cảm nhưng triết lí, nhằm khuyên bảo, cảm hóa học
sinh, bởi mọi suy nghĩ và hành động của các em cịn mang tính bộc phát, cảm
tính. Chẳng hạn:
- Với những học sinh có hồn cảnh khó khăn, éo le, các em thường có tâm
lí tự ti, mặc cảm, dễ chạnh lịng. Do đó, những em này rất cần những lời động
viên, thăm hỏi, quan tâm ân cần của thầy cô, bạn bè để chia sẻ những khó khăn,
vướng mắc với các em, giúp các em có thể sống hịa đồng với bạn bè trong lớp.
Muốn vậy, người GVCN không chỉ là người thầy mà còn phải biết nhập vai để
đồng cảm, lắng nghe các em nói, tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng của các
em, tạo cho các em có cảm giác mình được chia sẻ, được giúp đỡ, có người hiểu
mình, thơng cảm với mình. Sau khi nghe, giáo viên phải tìm hiểu thực tế và có
những lời khuyên khéo léo, nhẹ nhàng, tình cảm, giúp các em nhìn nhận vấn đề
tốt hơn, hiểu biết đúng về hoàn cảnh thực tế để vươn lên trong học tập và trong
cuộc sống.
- Đối với học sinh cá tính, chưa ngoan, GV phải vừa nghiêm khắc khi xử lí
những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên các em, thậm chí cịn
phải dỗ dành các em. Muốn giáo dục được học sinh cá biệt, điều quan trọng là
phải tạo được mối quan hệ gần gũi với các em. GV có thể gặp riêng các em để
trao đổi, tìm ra ngun nhân và có hướng giải quyết nhẹ nhàng, tình cảm nhưng
sâu sắc mà nghiêm khắc chứ không nhất thiết chúng ta cứ phải mang tất cả vi
phạm của các em vào trong tiết Sinh hoạt. La mắng các em, mang những “tội,
lỗi” của các em ra giữa lớp học để mắng mỏ, chỉ trích sao em thế này, sao em
thế kia sẽ khơng mang lại hiệu quả cao. Ở lứa tuổi này, tính sĩ diện, cái tôi của
các em cao lắm, nên GV càng cư xử tế nhị, tình cảm, nhẹ nhàng khuyên bảo,
dẫn dỗ các em hiểu vấn đề càng có lợi cho GVCN và học sinh sẽ đón nhận
những lời dạy của GV tốt hơn. Khi GV tạo được mối quan hệ gần gũi với HS rồi
thì việc giải quyết vấn đề học sinh cá biệt, thường xuyên vi phạm không cịn là
vấn đề khó khăn nữa. Tuy nhiên, muốn làm được điều đó, GVCN cần phải đầu
tư thời gian, cơng sức và trí tuệ của mình vào lớp chủ nhiệm.
18
2.3.2.2.1.2. Phát huy vai trò của Ban cán sự lớp.
Trong giờ Sinh hoạt lớp, đội ngũ Ban cán sự lớp sẽ hỗ trợ đắc lực cho
thầy cô chủ nhiệm trong cơng tác tổ chức, quản lí các hoạt động giáo dục HS lớp
chủ nhiệm nói chung và điều hành tổng kết, đánh giá thi đua, xây dựng kế hoạch
cho các hoạt động của lớp trong tuần, tháng nói riêng. Giáo viên chủ nhiệm chỉ
giữ vai trò thiết kế, giám sát là chính, “trao quyền” cho các em tổ chức, quản lý
và điều hành các bước của giờ sinh hoạt. Chẳng hạn:
- Các tổ trưởng báo cáo cụ thể kết quả thi đua của từng thành viên và cả tổ
trong tuần (điểm thi đua, xếp loại hạnh kiểm, điểm trung bình chung của tổ...).
- Các lớp phó văn - thể - mĩ, lao động nhận xét tình hình từng mảng mà
mình phụ trách.
- Lớp trưởng điều khiển học sinh thảo luận, đóng góp ý kiến về các hoạt
động của lớp, về việc theo dõi thi đua của các tổ... Trên cơ sở ý kiến của các bạn
và quá trình theo dõi lớp trực tiếp, lớp trưởng tổng kết những mặt mạnh, mặt yếu
của tập thể, đề xuất tuyên dương những cá nhân điển hình hay phê bình cá nhân
vi phạm, từ đó định hướng kế hoạch cho tuần tới.
Để Ban cán sự lớp làm việc nghiêm túc và có hiệu quả trong giờ Sinh
hoạt, GVCN khơng “khốn trắng” cho các em mà phải đóng vai trị là người cố
vấn, giúp các em tự tin thực hiện nhiệm vụ và phát huy vai trị của mình. Cụ thể:
- GVCN phân cơng nhiệm vụ cụ thể cho Ban cán sự lớp để các em có
trách nhiệm với mảng cơng việc mình được giao. Chẳng hạn: lớp trưởng quản lý
lớp và phụ trách mảng trật tự, nề nếp; lớp phó học tập theo dõi tình hình học tập
của lớp; lớp phó văn thể mĩ phụ trách công tác văn nghệ, thể thao và đời sống; bí
thư tổ chức các phong trào của lớp và phụ trách công tác vệ sinh; tổ trưởng điều
hành công việc chung của tổ, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện nội quy của tổ
viên, xếp loại hạnh kiểm; tổ phó theo dõi tình hình học tập, điểm cộng... u cầu
Ban cán sự ghi chép vào trong sổ theo dõi của mình để cuối tuần có cơ sở đánh
giá, nhận xét.
19
- Giáo dục cho các em thấy được vai trò “thủ lĩnh”, “đầu tàu” nên cần
gương mẫu trong học tập và rèn luyện để các bạn nể phục, yêu mến. Hơn thế,
giáo dục các em phải có ý thức và trách nhiệm với cơng việc mình được giao và
có ý thức xây dựng, gắn kết các thành viên trong tập thể. GVCN biểu dương kịp
thời những cố gắng của Ban cán sự lớp, đồng thời cũng phải nghiêm khắc chỉ ra
những thiếu sót, song cần giữ uy tín cho các em trước tập thể. Khi các em có
được lịng tin vững chắc, có vị trí quan trọng, có điều kiện để khẳng định mình,
các em sẽ nỗ lực cố gắng để hồn thành tốt cơng việc của mình vì mục đích
chung.
Tuy nhiên, để Ban cán sự lớp phát huy được vai trò và trọng trách trên,
GVCN đặc biệt phải xây dựng được một đội ngũ Ban cán sự lớp thực sự có
năng lực, nhiệt tình, gương mẫu, có trách nhiệm cao và có uy tín trước các bạn
khác.
2.3.2.2.1.3. Nâng cao ý thức tự quản.
Trong những tuần đầu tiên của năm học, GVCN định hướng cho HS xây
dựng nội quy lớp học dựa trên tinh thần cộng tác. Có gì khác giữa việc thực hiện
một bản nội quy do giáo viên đưa ra và việc thực hiện nội quy do học sinh thiết
kế? Thay vì cảm thấy bị áp đặt với tâm lý thụ động, khi được chủ động đề ra
những nội quy cho tập thể của mình, các em sẽ tích cực gia tăng ý thức tự chủ và
tinh thần hợp tác. Chính các em là người thiết kế và thực hiện nội quy do tập thể
thống nhất đề ra. Đó là cơ sở để nâng cao ý thức tự quản.
Trên cơ sở những quy định của nhà trường, tiêu chí đánh giá thi đua của
Đồn và mục tiêu của lớp, GVCN tổ chức cho học sinh thảo luận về nội quy của
lớp. Cụ thể hóa những nội dung trên bằng hình thức chấm điểm thi đua, quy
định mức điểm cộng và điểm trừ phù hợp. Việc xếp loại hạnh kiểm của học sinh
hàng tuần dựa trên kết quả điểm mà các em đạt được. Tập thể lớp cũng đề ra
hình thức thi đua giữa các tổ, nhóm và cá nhân. Hàng tuần và sau mỗi đợt thi
đua, các em sẽ bình chọn những cá nhân và tổ, nhóm xuất sắc để biểu dương,
khen thưởng (Phần thưởng được trích từ quỹ lớp, có khi chỉ là một gói kẹo,
20
chiếc bút bi, một quyển vở... nhưng các em rất vui vì đã được tập thể ghi nhận
và động viên những cố gắng của mình). Để tạo hứng thú cho học sinh trong việc
xây dựng bài ở các giờ học trên lớp, GVCN gợi ý cho các em cộng điểm thi đua
cho mỗi lượt phát biểu hoặc được điểm cao. Nhờ vậy, nhiều giờ học của lớp đã
diễn ra rất sơi nổi, các em có ý thức học tập tốt hơn, hăng say, tích cực hơn trong
các tiết học, cũng do đó mà các giáo viên bộ mơn của lớp ln phấn khởi và hài
lịng.
Cũng vì có điểm thi đua rõ ràng mà trong các tiết Sinh hoạt lớp cuối tuần,
các em tự đánh giá được kết quả rèn luyện của mình qua điểm thi đua và xếp
loại hạnh kiểm. Từ đó, các em biết cố gắng phấn đấu để ngày càng tiến bộ hơn.
2.3.2.2.1.4. Tích cực trong đánh giá, phê bình, góp ý.
2.3.2.2.1.4.1. Về phía Ban cán sự lớp và tập thể lớp.
Một trong những nội dung quan trọng của giờ Sinh hoạt lớp là phần đánh
giá, nhận xét, đóng góp ý kiến của học sinh. Đây là giờ sinh hoạt tự quản, giúp
các em phát huy tinh thần phê và tự phê, tự đánh giá các hoạt động của cá nhân
và tập thể. Các em được bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá, nhận xét
nhau thẳng thắn, tích cực. Tuy nhiên, tâm lý của học sinh khi phê bình bạn là e
ngại vì sợ bạn ghét, sợ bị cơ lập hoặc có thể có những hành động bị “trả thù”,
nên các em thường có xu hướng bao che. GVCN cần nắm bắt tâm lí này để giúp
đỡ và cố vấn cho các em, khuyến khích các em mạnh dạn, tự tin khi bày tỏ quan
điểm riêng của mình.
Ví dụ:
- Với Ban cán sự lớp, GVCN cần giúp các em hiểu rằng làm việc phải
cơng tâm, nghiêm túc, phải tạo được uy tín để các bạn khác nghe theo, đồng thời
trong cách nhắc nhở, góp ý cho bạn, các em cũng cần tế nhị, khéo léo để tránh
tổn thương người khác. Để hoạt động này được hiệu quả thì ngay từ đầu năm
học, GVCN cần phải xây dựng đội ngũ Ban cán sự lớp vững vàng, uy tín có thể
21
thu hút, thuyết phục được tập thể. Đồng thời, GVCN cần có sự tập dượt cho lực
lượng cán sự lớp phương pháp làm việc, phương pháp theo dõi, đánh giá,
phương pháp nhận xét trước tập thể như: tuyên dương thì cần làm nổi bật, phê
bình thì nhẹ nhàng, thuyết phục; không nên dùng từ ngữ gay gắt gây tổn thương
trực diện đối tượng bị phê bình.
- Với tập thể lớp, GVCN cần giảng giải để các em hiểu được những lời
phê bình, nhận xét của Ban cán sự lớp đều là vì cơng việc chung, vì mục tiêu
xây dựng tập thể đoàn kết, giúp đỡ nhau tiến bộ. Tất cả các bạn trong tập thể lớp
đều bình đẳng, việc phê bình chỉ giúp hồn thiện chứ khơng mang tính chất chỉ
trích, trù dập hay cơ lập một thành viên nào đó trong tập thể.
- Với những cá nhân khi đóng góp ý kiến, các em cần xuất phát từ thái độ
chân thành, tơn trọng bạn bè; khi được góp ý, các em cần bình tĩnh, tránh tự ái,
bảo thủ, phải biết ghi nhận để tiến bộ hơn.
- Có những tình huống nảy sinh trong tập thể lớp như xích mích, hiểu
nhầm,... GVCN cần nêu vấn đề để các em thảo luận, trao đổi và quyết định, mục
đích là nhằm nâng cao bầu khơng khí đồn kết, tinh thần trách nhiệm của mỗi
học sinh trong lớp.
2.3.2.2.1.4.2. Về phía giáo viên chủ nhiệm.
GVCN cần phát hiện và tuyên dương, động viên kịp thời những HS đã có
sự cố gắng, phấn đấu trong tuần; phê bình nhẹ nhàng nhưng cương quyết những
cá nhân sai phạm về ý thức, chây lười, lơ là trong học tập và thiếu tinh thần
trách nhiệm với tập thể. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời hiện tượng học sinh cá
biệt.
GVCN cần khen, chê học sinh đúng mức, đúng chỗ, đúng đối tượng. Nếu
GVCN biết khen chê đúng mức sẽ khiến học trò hứng thú trong học tập. Về
nguyên tắc, khen phải nhiều hơn chê để tạo tâm lí tích cực vì ai cũng thích khen.
Nhưng lưu ý, khi chúng ta khen học sinh thì sự khen ngợi đó phải cụ thể, gọi
đúng tên bản chất sự việc. Thái độ khen ngợi phải chân thật, gây được cảm xúc
tích cực nơi người được khen. Đối với những hành vi tích cực mới, GV cần khen
22
ngay khi nó vừa xuất hiện, nhất là với những em hay mắc khuyết điểm, những
em học yếu, nhút nhát... vừa có một sự tiến bộ nào đó. Ngay cả khi phê bình học
sinh, GVCN cũng cần lưu ý là phê bình hành vi cụ thể chứ khơng khái qt hoá
thành nhận định liên quan đến nhân cách. Tuyệt đối tránh lối phê bình chì
chiết, nhắc đi nhắc lại những khuyết điểm cũ đã xảy ra từ lâu.
Một yêu cầu cũng rất quan trọng đối với GVCN là thưởng, phạt cần cơng
minh, đảm bảo được tính thuyết phục, thu hút và ràng buộc học sinh.
Đặc biệt, GVCN phải thực sự giao lưu - đối thoại với HS, để học sinh cởi
mở, thân thiện và đoàn kết hơn, giúp các em tin tưởng và khơng bị ức chế về
tâm lí mỗi khi đến trường, đến lớp và đến giờ Sinh hoạt lớp. Khi các em mạnh
dạn đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình, chúng ta nên sẵn sàng
lắng nghe và tiếp nhận những ý kiến đó một cách tơn trọng, đặt mình vào vị trí
các em, lắng nghe tích cực tiếng nói của các em để có những chia sẻ, uốn nắn,
định hướng hiệu quả.
2.3.2.2.1.5. Tích cực trong sinh hoạt tập thể.
Để tránh sự nhàm chán, căng thẳng của tiết Sinh hoạt lớp, bên cạnh những
vấn đề vừa nêu ở trên, GVCN cần tạo ra được sự tích cực, chủ động, hứng thú
cho HS trong các tiết Sinh hoạt lớp. Do đó, GVCN cần:
- Đa dạng hóa về nội dung tiết Sinh hoạt lớp. Nội dung tiết Sinh hoạt lớp
hàng tuần phải cụ thể, bổ ích, phải gắn với nhu cầu hứng thú của học sinh và phù
hợp với tâm lý, khả năng tiếp thu và trình độ hiểu biết của học sinh, huy động
đến mức cao nhất trí tuệ và tình cảm tập thể của các em. Tăng cường những nội
dung sinh hoạt có liên quan đến các công việc chung của lớp, phù hợp với nhu
cầu và sở thích của học sinh, để các em được bàn bạc, nỗ lực, cố gắng và hợp tác
với nhau để hồn thành cơng việc được giao.
- Thu hút tối đa sự tham gia của mọi HS dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ, cố
vấn của giáo viên nhằm tăng cường vai trị tự quản của học sinh. Tạo mơi trường
chung để tất cả học sinh cùng được trải nghiệm những xúc cảm tích cực, tăng
cường giao lưu giữa các em, tạo ra mơi trường lớp học mang bầu khơng khí tin
23
tưởng, thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ và lắng nghe ý kến của nhau. Từ đó
tình cảm gắn bó, chia sẻ giữa các em được hình thành và củng cố.
- Đa dạng hóa về hình thức tổ chức tiết sinh hoạt lớp: tổ chức trò chơi, hội
thảo, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức thực hiện giờ sinh hoạt.
Về vấn đề đa dạng hóa hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp, GVCN cần cố
vấn cho HS tổ chức những hoạt động tập thể như: Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm
học tập, kinh nghiệm sống, văn nghệ, kể chuyện, những trò chơi nhỏ, những
cuộc thi,... Các em sẽ rất hào hứng và sôi nổi khi tham gia các hoạt động này.
Tập thể lớp chủ nhiệm có thể tổ chức những hoạt động vui vẻ và có ý
nghĩa trong các giờ Sinh hoạt lớp nhằm tạo hứng thú cho HS như:
2.3.2.2.1.5.1. Chúc mừng sinh nhật – trao tặng yêu thương.
GVCN có thể cố vấn cho HS lớp chủ nhiệm chúc mừng sinh nhật những
bạn có ngày sinh trong tháng hoặc tuần đang sinh hoạt. Lớp tự thiết kế một món
quà đặc biệt, có thể chỉ là tấm thiệp có ghi những lời chúc mừng độc đáo của các
bạn trong lớp,… Món quà nhỏ nhưng có nhiều ý nghĩa về mặt tinh thần, thể
hiện sự đoàn kết, hịa đồng, quan tâm và tình cảm chân thành của bạn bè dành
cho nhau.
GVCN có thể thực hiện như sau: Làm một bảng tổng hợp ngày sinh của các
em theo tháng và treo vào một góc của lớp học. Đề nghị cả lớp hàng tháng, khi
đến sinh nhật của những bạn nào thì các bạn trong lớp sẽ gửi một lời chúc tốt
đẹp nhất của mình đến những bạn đó và bỏ vào một chiếc túi đặc biệt của lớp.
Đến buổi sinh hoạt tuần cuối của tháng, giáo viên sẽ mở túi đó ra và yêu cầu lớp
trưởng đọc từng lời chúc của từng bạn và sẽ tổng kết lại xem bạn nào nhận được
nhiều lời chúc nhất. Lớp cũng chuẩn bị những phần quà nho nhỏ dành cho các
bạn có ngày sinh trong tháng đó. Việc làm này được các em rất quan tâm và
hưởng ứng.
2.3.2.2.1.5.2. Kể một câu chuyện/tấm gương có ý nghĩa về cuộc sống
24
GVCN có thể định hướng cho các em kể một câu chuyện/tấm gương có ý
nghĩa về cuộc sống. Phần này thường do tổ trực nhật đảm trách, GVCN gợi ý
lớp tạo điều kiện cho những bạn còn rụt rè lên kể chuyện. Chẳng hạn, có HS kể
về cụ Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ mù yêu nước Nam Bộ, sống với ý chí, nghị
lực phi thường. Dù bị mù hai mắt, cụ vẫn làm được nhiều việc có ý nghĩa cho
nhân dân, đất nước như bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo, sáng tác thơ văn
đề cao đạo lí nhân nghĩa và tư tưởng yêu nước, chống quân xâm lược. Có bạn nữ
kể về Nguyễn Thị Ánh Viên như một thần tượng của em đó: Ánh Viên trẻ tuổi
nhưng đã rất thành công trong lĩnh vực thể thao bơi lội. Ví dụ, tại Đại hội thể
thao lớn nhất Đơng Nam Á Sea Games 28, chị giành được 8 Huy chương vàng
và phá vỡ 8 kỷ lục bơi; tại Sea Games 30 vừa qua, khi giành được 6 Huy chương
vàng ở 10 nội dung đăng kí tham dự, Ánh Viên được nhận giải thưởng nữ vận
động viên xuất sắc nhất. Ánh Viên được nhất Hạng mục nữ vận động viên của
năm trong Lễ trao giải Cúp chiến thắng 2019. Thành tích ấn tượng này khiến
Ánh Viên trở thành thần tượng của giới trẻ, chị được gắn với nhiều tên như
“Kình ngư vàng”, “Tiểu tiên cá”, “Siêu sao trên đường đua xanh”... Dù phải xa
nhà từ lúc 12 tuổi, mỗi năm về thăm bố mẹ rất ít, suốt ngày chỉ có bơi lội và có
một chế độ ăn uống nghiêm ngặt… nhưng Ánh Viên chưa bao giờ bỏ cuộc mà
luôn cố gắng. Ánh Viên luôn khiêm tốn, khéo léo trong ứng xử: thắng không
kiêu, bại không nản, không ngủ quên trong chiến thắng mà phải luôn nỗ lực
không ngừng… Đối với HS nam, Công Phượng gắn với quyết tâm theo đuổi,
nuôi dưỡng đam mê bóng đá từ nhỏ của cầu thủ đội tuyển Việt Nam này đã được
các em kể lại với niềm ngưỡng mộ sâu sắc. Cũng có bạn lại lấy những tác phẩm
văn học dân gian như Tấm Cám, Thạch Sanh, Trầu cau, Cây khế,… kể trước lớp
với những cách nhập vai nhân vật rất đa dạng đã nhận được sự tán thưởng của cả
lớp...
Thông qua những câu chuyện, đặc biệt là những chuyện với người thật,
việc thật mang tính giáo dục về nghị lực sống, sức mạnh của đam mê, cái giá
phải trả, biết quý trọng bản thân..., giáo viên định hướng cho các em rút ra
những bài học về cách làm người, cách sống, cách ứng xử nhân văn với mọi
25