BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA DU LỊCH HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
Chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp – Tác động tiêu cực của
hội nhập quốc tế đến văn hóa của người Việt Nam
GVHD
Nhóm
: NGƠ TUẤN THẮNG
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
: HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ PHÁT
TRIỂN
: NHÓM 17
Lớp
: HK211-ITS1051
Môn
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người Viêt Nam
PHẦN MỤC LỤC
BÀI TIỂU LUẬN................................................................................................1
MỤC 1: PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................2
1. Lý do chọn đề tài...............................................................2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................2
3. Mục đích và mục tiêu của nghiên cứu...............................2
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................2
5. Cái mới của đề tài..............................................................2
6. Bố cục của đề tài................................................................2
MỤC 2: PHẦN NỘI DUNG CHÍNH....................................2
Chương I: Cơ sở lý luận.........................................................2
1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu.......................................2
2. Các khái niệm cơ bản về đề tài.........................................2
2.1. Khái niệm về “Hội nhập quốc tế”...................................2
2.2 Khái niệm “Văn hóa” và “Văn hóa giao
tiếp”.......................................................................................................................2
2.3 Khái niệm chêm Tiếng Anh trong giao tiếp
Tiếng Vi................................................................................................................2
Chương II: Nghiên cứu hiện tượng chêm Tiếng
Anh trong giao tiếp của người Việt Nam..............................................................2
1. Thực trạng..........................................................................2
1.1. Trong giao tiếp các lĩnh vực xã hội.................................2
1.2. Trên các phương tiện truyền thông.................................2
2. Nguyên nhân......................................................................2
2.1. Nguyên nhân khách quan................................................2
2.2. Nguyên nhân chủ quan...................................................2
3. Tác động.............................................................................2
3.1. Tác động tích cực............................................................2
3.2. Tác động tiêu cực............................................................2
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Chương III: Một số giải pháp cụ thể......................................2
1. Giải pháp hạn chế nói chêm xen Tiếng Anh
khi giao tiếp..........................................................................................................2
2. Giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của
hội nhập văn hóa...................................................................................................2
MỤC 3: PHẦN TỔNG KẾT..................................................3
MỤC 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chúng ta đã và đang hội nhập quốc tế một cách sâu rộng trên
mọi phương diện của đời sống, trong đó có văn hóa. Con người
Việt Nam ngày càng tiếp xúc và tiếp thu nhiều nền văn hóa trên thế
giới, vì vậy khơng thể tránh khỏi những ảnh hưởng về ngôn ngữ.
Theo một nghiên cứu, cứ 360 người thì có 330 người nói tiếng
Anh. Hiện nay, có hơn 1,2 tỷ người nói Tiếng Anh trên khắp thế
giới, trong đó hơn 350 triệu người nói tiếng anh bản địa, số cịn lại
sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ 2. Ở Việt Nam, tiếng Anh
được đưa vào chương trình giảng dạy như một bộ môn bắt buộc ở
tất cả các cấp học, nhiều trường đại học yêu cầu sinh viên cần có
chứng chỉ tiếng Anh đạt chuẩn mới đủ điều kiện ra trường. Như
một kết quả của q trình hội nhập hóa, việc sử dụng song song hai
ngôn ngữ tiếng Anh với tiếng Việt trong đời sống giao tiếp là điều
khơng cịn xa lạ. Tuy nhiên, điều này dần có những tác động khơng
mấy tích cực đến văn hóa giao tiếp của người Việt, đặc biệt là giới
trẻ, khi họ lạm dụng và chêm xen tiếng Anh quá nhiều. Đặc biệt là
trong những năm trở lại đây, hiện tượng này đã và đang trở thành
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
một vấn đề nhức nhối, thu hút sự chú ý từ dư luận cùng những ý
kiến trái chiều. Vì vậy, nhóm chúng tơi quyết định chọn đề tài này
để giải thích và chứng minh tác động tiêu cực của hội nhập mới
văn hóa của một quốc gia, đồng thời đưa ra một số giải pháp khắc
phục.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là những từ, cụm từ tiếng Anh được
chêm xen trong giao tiếp hàng ngày của người Việt. Phạm vi
nghiên cứu được thực hiện với chủ yếu là các bạn trẻ trong độ tuổi
từ 10 - 25 tuổi tại Việt Nam trong vòng 2 tháng, từ tháng 10/2021
đến tháng 12/2021.
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu với mục đích giải thích những khái niệm, chứng
minh bằng những con số thống kê chính xác nhất để đánh giá
những tác động tiêu cực của hội nhập đến văn hóa thơng qua hiện
tượng nói chêm xen tiếng Anh vào tiếng Việt trong giao tiếp. từ đó
đưa ra những giải pháp cụ thể. Chúng tơi muốn các bạn trẻ nhận
thức việc sử dụng lượng từ nước ngồi chêm xen vào ngơn ngữ
giao tiếp của dân tộc một cách hợp lý, không lạm dụng để tiếng
Việt thêm phần phong phú thay vì đánh mất đi bản sắc văn hóa dân
tộc. Từ đó đề ra các giải pháp để giảm thiểu tối đa hiện tượng chêm
xen tiếng Anh nói riêng và những tác động tiêu cực của hội nhập
với văn hóa nói chung.
4. Phương pháp nghiên cứu
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
- Về phương pháp thu thập số liệu: Để nghiên cứu về hiện tượng
này, chúng tôi đã tạo một bài khảo sát online để mọi người có thể
đưa ra ý kiến của bản thân về hiện tượng này. Ngoài ra, chúng tơi
cịn tìm hiểu thơng qua những bài phỏng vấn trên mạng xã hội,
facebook,...
- Về cách thức thống kê số liệu: thông qua bài khảo sát, chúng tôi
đã thống kê được số lượng. Chúng tôi đọc lần lượt các ý kiến và
sau đó lập bảng về tỷ lệ. Trong q trình tiến hành thu thập số liệu,
chúng tơi đã sử dụng phần mềm để tính tốn với tốc độ nhanh
chóng và chính xác cao.
- Về phương pháp điều tra: chúng tôi đã đưa ra 4 câu hỏi liên quan
đến hiện tượng:
Câu hỏi thứ nhất: độ tuổi của đối tượng
Câu hỏi thứ hai: mức độ chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp tiếng
Việt
Câu hỏi thứ ba: nguyên nhân của hiện tượng đó
Câu hỏi thứ tư: nêu cảm nhận của đối tượng về hiện tượng này
5. Cái mới của đề tài
Trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, Tiếng Anh được xem
như là ngơn ngữ phổ biến nhất trên thế giới khi mà có gần 60 quốc
gia sử dụng tiếng Anh là ngơn ngữ chính bên cạnh tiếng mẹ đẻ và
hơn 100 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai sau tiếng
mẹ đẻ. Chính vì sự phổ biến này mà tiếng Anh có vai trị rất quan
trọng trong q trình hội nhập. Và Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Ở Việt Nam, Tiếng Anh được coi như là ngôn ngữ thứ hai và là
môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục. Cho nên việc mọi
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
người biết đến tiếng Anh và muốn tìm hiểu về nó khơng cịn là điều
mới mẻ nữa. Vấn đề mới mẻ khi nói đến tiếng Anh ở đây chính là
hiện tượng chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt. Hiện
tượng này rất là mới mẻ nhưng lại ít người quan tâm, nghiên cứu
đến vấn đề này. Vì thế mà chúng tôi chọn đề tài này làm nội dung
nghiên cứu của mình.
6. Bố cục của đề tài
Chương I. Cơ sở lý luận
Chương II. Nghiên cứu hiện tượng chêm xen tiếng anh trong giao
tiếp của người Việt.
Chương III. Một số giải pháp cụ thể.
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương I. Cơ sở lý luận
1.Tổng quan về lịch sử nghiên cứu.
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là người bạn đồng hành
không thể thiếu của con người. Ngơn ngữ có từ rất lâu, chậm nhất
là vào nửa cuối thế kỉ IV TCN. Ngôn ngữ học ra đời không phải
xuất phát từ suy nghĩ trừu tượng của các siêu nhân mà xuất phát từ
bản thân những yêu cầu trong đời sống của con người.
Trên thế giới có khá nhiều cơng trình nghiên cứu và tài liệu
nước ngồi có liên quan đến lĩnh vực tiếp xúc ngôn ngữ, như:
Schuchardt (1482-1927), Baudouin de Courtenay (1845-1929),
L.V. Scerba (1880-1944),… đã từng nghiên cứu về pha trộn ngôn
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
ngữ. Người có cơng lớn và được nhắc đến như là người đầu tiên
nghiên cứu sâu về tiếp xúc ngơn ngữ là Andre Martinet và người
được coi là có công truyền bá rộng rãi thuật ngữ “tiếp xúc ngôn
ngữ” là U. Weinrich nhờ sự ra đời của tác phẩm “Languages in
contact – Findings and Problem”. Trong lời giới thiệu cho tác phẩm
này, Andre Martinet đã viết “một cộng đồng ngơn ngữ khơng hề có
tính đồng nhất và vị tất có một thời kỳ nào đó đã từng là một cộng
đồng khép kín”. Góp phần vào thành tựu nghiên cứu về tiếp xúc
ngôn ngữ là cuốn “Languages Transfer của Terence Odlin”. Có thể
nói cơng trình này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng của việc
nghiên cứu ngôn ngữ giới trẻ trên thế giới tập trung ở vấn đề xen
tiếng Anh vào một ngôn ngữ
bản địa như: tiếng Anh và tiếng Nga trong “The influence of the
English language on the Russian youth slang” của Derkach, tiếng
Anh và ngôn ngữ giới trẻ Trung Quốc trong tiếng “The effects of
the English language on the cultural identity of Chinese university
students” của Seppala. Những cơng trình này khẳng định sự ảnh
hưởng của tiếng Anh đến ngôn ngữ bản địa, đặc biệt diễn ra mạnh
mẽ ở ngơn ngữ giới trẻ.
Ở Việt Nam, các cơng trình Ngơn ngữ học xã hội có ý nghĩa
lý luận: Ngơn ngữ học xã hội của Nguyễn Văn Khang (1999),
Tiếng lóng Việt Nam (2001), Từng ngoại lai trong tiếng Việt
(2007),…đã cung cấp cơ sở lý luận và gợi mở vấn đề ngôn ngữ trẻ;
PGS. TS. Phạm Đức Dương, PGS. Phan Ngọc (1983) với cơng
trình “Tiếp xúc ngơn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á”;
Nguyễn Đăng Khánh với “Sự giao thoa ngữ nghĩa chỉ số phát triển
của quá trình tiếp xúc ngơn ngữ và văn hóa”; Bùi Khánh Thế với
“Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Nam”. Các nhà nghiên cứu cho rằng, liệu những yếu tố như ngữ
vực, phạm vi giao tiếp, đối tượng giao tiếp trong những tình huống
giao tiếp cụ thể, rồi những vấn đề thuộc về ngôn điệu, những tương
quan giữa đặc trưng xã hội và ngơn điệu của người nói… có tham
gia vào việc hình thành thái độ và lựa chọn ngôn ngữ hay không?
Trong bài viết đã đưa ra một số nhận xét của học giả Đào Duy Anh
về “tính chất tinh thần” của người Việt, với mục đích của bài này,
chúng ta chú ý đến các tính cách sau đây: “thích văn chương phù
hoa hơn là thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng
hoạt động”, “ít người mộng tưởng, mà phán đốn thường có vẽ
thiết thực lắm”, “tính khí cũng hơi nổng nổi”, “hay khoe khoang
trang hoàng bề ngoài”, “ưa hư danh”, “bắt chước, thích ứng và
dung hịa khí rất tài”, “có não tinh vặt”,…
2. Các khái niệm cơ bản về đề tài
2.1. Khái niệm “Hội nhập quốc tế”
Theo từ điển tiếng Việt, hội nhập là tham gia vào một
cộng đồng để cùng hoạt động và phát triển với cộng đồng ấy
((thường nói về quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia). Trong
Hướng dẫn số 42-HD/BTGTW ngày 01/9/2017 của Ban Tuyên
giáo Trung ương về chuyên đề “Hội nhập quốc tế” đã nêu “HNQT
là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với
nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt
động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc
gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải
quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm” và “HNQT
theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội”. Trong đó có lĩnh vực văn hóa-xã hội.
2.2. Khái niệm “Văn hóa” và “Văn hóa giao tiếp”.
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Văn hóa là một khái niệm được hiểu theo nhiều góc độ,
nhiều ý nghĩa khác nhau. Tựu chung lại văn hóa là tất cả những giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và phát triển trong
suốt chiều dài lịch sử bao gồm các giá trị vật thể như nhà cửa, trang
phục,...và các giá trị phi vật thể như ngôn ngữ, tư tưởng…. Theo
tác giả Hữu Đạt trong cuốn Văn hóa và ngơn ngữ giao tiếp của
người Việt có nói: “Nét đặc trưng nổi trội nhất của văn hóa là thái
độ hay hành vi ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Tạo
nên nét đặc trưng này chính là các giá trị được gọi là bản sắc miền
vùng, hay bản sắc dân tộc.
Trong đó ngơn ngữ có vai trị cực kỳ quan trọng nếu
khơng muốn nói là yếu tố quyết định tạo nên bản sắc ấy.” Có thể
thấy ngơn ngữ khơng chỉ có chức năng giao tiếp mà cịn có vai trị
lưu trữ và bảo tồn đồng thời sáng tạo và phát triển văn hóa. Nói về
văn hóa giao tiếp, tác giả Hữu Đạt nêu: “Văn hóa giao tiếp là một
khái niệm dùng để chỉ các hình thức giao tiếp mang tính đặc thù
cho hồn cảnh giao tiếp hoặc trình độ giao tiếp ở những cộng đồng
người thuộc các nhóm nghề nghiệp hoặc xã hội khác nhau. Văn
hóa giao tiếp là yếu tố quy định ngôn ngữ giao tiếp.” Ngôn ngữ
vừa là yếu tố cấu thành vừa có vai trị là động lực tạo ra sự hình
thành và phát triển của văn hóa giao tiếp. Theo tác giả Trần Anh
Tuấn - Vụ Pháp luật quốc tế: “Mục đích của hội nhập quốc tế về
văn hố là tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ
sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc, quốc gia mình.” Trong
bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã và đang tăng cường hội nhập quốc
tế, mở rộng giao lưu. Tiếp biến văn hóa, ngơn ngữ cũng là kết quả
tất yếu của q trình hội nhập. Với sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ, của các phương tiện truyền thông đại chúng,
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
sự tăng cường mở rộng giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, đời
sống xã hội giữa các nước khiến con người càng nhận thức được
việc sử dụng thành thạo các ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) là vô
cùng quan trọng và cần thiết. Do đó, trong cả văn hóa nói và viết,
hiện tượng chêm xen ngoại ngữ là rất phổ biến. Thực tế, các từ ngữ
có nguồn gốc nước ngồi xuất hiện trong giao tiếp của người Việt
khơng hiếm. Từ lâu đã có rất nhiều từ ngữ tiếng Hán, tiếng Anh,
tiếng Pháp,... đã được du nhập và được Việt hóa trở thành “từ
mượn” và làm phong phú thêm kho từ vựng tiếng Việt. Tuy nhiên,
quá trình “du nhập” tiếng Anh liên tục, tiếp xúc với môi trường sử
dụng tiếng Anh cũng xuất hiện hiện tượng chêm xen quá nhiều một
cách không cần thiết các từ tiếng Anh trong giao tiếp ngay cả khi
đó khơng phải từ chun mơn, chuyên ngành hay có từ tiếng Việt
thay thế.
2.3. Khái niệm chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp tiếng
Việt.
Chúng tôi gọi là “chêm xen” với nghĩa: dùng các từ riêng lẻ hoặc
cụm từ nguyên dạng gốc tiếng nước ngoài trong lời ăn tiếng nói,
trong văn bản tiếng mẹ đẻ. Ví dụ như cách nói của Chi Pu - tên thật
là Nguyễn Thùy Chi, một ca sĩ, diễn viên nổi tiếng Việt Nam trong buổi phát sóng trực tiếp với người hâm mộ cách đây không
lâu:
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Chương II. Nghiên cứu hiện tượng chêm xen tiếng anh trong
giao tiếp của người Việt.
1. Thực trạng hiện nay.
Hội nhập quốc tế mang đến tác động hai chiều đến bản
sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập quốc tế làm rõ nét, phổ biến rộng rãi
tạo ra giá trị văn hóa chung nhưng cũng chính hội nhập quốc tế có
thể làm “xói mịn” bản sắc văn hóa dân tộc… Văn hóa nói cũng
vậy, mỗi một ngày trơi qua nó đều có sự thay đổi, hội nhập và hiện
đại hơn hay có thể là sử dụng nhiều thứ tiếng trong cùng một câu
nói. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói " Tiếng Việt của
chúng ta rất hay, rất quý". Việc vay mượn tiếng Anh nói riêng và
tiếng của các nước khác nói chung, đã góp phần làm giàu đẹp hơn
cho tiếng Việt. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người thường dùng tiếng
Anh chèn vào những câu tiếng Việt, nói nhưng các bạn là " chêm".
Trên thực tế, vào thời đại bùng nổ của mạng xã hội như hiện nay
không chỉ có văn nói mà ngay cả văn viết của thường xuyên được
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
chêm vào những từ tiếng Anh, mặc dù cho những từ ấy tiếng Việt
đã được định nghĩa và có những từ có ý nghĩa tương tự.
Tiếng Anh là thứ ngơn ngữ chung của tồn thế giới, là cầu nối
giữa con người với con người. Nhưng cũng chính bởi sự hội nhập
quốc tế đã mang đến một “ cuộc xâm lăng” trong văn hóa nói của
người Việt. Cuộc xâm lăng vơ hình này diễn ra ở tất cả các lĩnh vực
đời sống
1.1 Trong giao tiếp các lĩnh vực xã hội
Đã bao giờ bạn bắt gặp một đứa trẻ con nhỏ học bảng
chữ số nhưng lại có sự nhầm lẫn giữa tiếng anh và tiếng việt
chưa ?
“Một…hai …ba…bốn…five…” hay sự loạn ngơn trong ngơn ngữ
của trẻ học nói tiếng mẹ đẻ. Đó chỉ là những lỗi nhỏ rất cơ bản khi
một đứa trẻ sống trong thời kỳ hội nhập quốc tế, được tiếp xúc rất
nhiều với ngơn ngữ nước ngồi. Khơng chỉ trẻ con, người lớn cũng
thường hay mắc phải vấn đề này “ Nói chêm tiếng anh vào tiếng
việt”.
Những câu nói đơn giản ngắn gọn như “Ok” , “ No”
(khơng), “Yes” (có), “ Good” (tốt) , “Very good” (rất tốt), “Thank
you” (cảm ơn) ta thường bắt gặp rất nhiều trong các cuộc hội thoại
giao tiếp hằng ngày.
Trong thể thao lĩnh vực thể thao thì chúng ta hay có
những cụm từ phổ thông như “goal” (ghi bàn), “penalty”(phạt
đền) là những từ ngữ được sử dụng trong bóng đá; “knock down”
của bộ mơn “ boxing” (đấm bốc) Hay trong những giải bóng đá lớn
trong nước được người ta đặt cho một cái tên Tiếng Anh hoàn toàn:
“V-league” cho giống với “champion league” của châu Âu.
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Trên sàn “catwalk” (sàn diễn thời trang) thì người mẫu, diễn
viên, nhà thiết kế thường có những cụm từ quen thuộc như
“design”( thiết kế), “size”(kích cỡ), “makeup” (trang điểm),
“style”( kiểu, mẫu), "cát xê" (tiền cơng diễn), “show” (chương
trình biểu diễn). Đặc biệt những ai yêu thích thời trang, theo dõi nó
thì khơng cịn xa lạ với các cụm từ “ton sur ton”, “crop top”,
“jumpsuits”, “retro”, “vintage”, “trendy”, “set”, “mix & match”,
“tips”, “legging”, “item”, “street style”…
Lĩnh vực điện tử, tin học, mạng “internet” là địa hạt có sự
cập nhật mạnh mẽ của từ ngữ, thuật ngữ tiếng Anh. Những từ ngữ
tiếng Anh như: file, game, download, chip, laptop, online, offline,
chat, virus, hack, hacker (tin tặc), blog, wifi, e-mail,…
Trong lĩnh vực ngân hàng chúng ta cũng sử dụng một số
những từ ngữ Tiếng Anh như “ bank” ngân hàng, mở “ account”
(tài khoản), rút “card” (thẻ ngân hàng)….
Trong lĩnh vực nghệ thuật những chương trình truyền hình
tên tiếng Anh như Vietnam Idol, Vietnam Got Talent, Vietnam Next
Top Model, The Voice… Nói đến những người nổi tiếng, người ta
thường hay nói đến “Hot girl” (cô gái xinh đẹp),“ Hot boy” (chàng
trai đẹp trai) ,“ Diva” ( ca sĩ có giọng ca nội lực), “KOL” ( Key
opinion leader – người có sức ảnh hưởng
Chính thức hơn là những thuật ngữ chun mơn: GDP
( Gross Domestic Product – tổng sản phẩm quốc nội), IQ
( Intelligence Quotient – chỉ số thông minh), EQ ( Emotional
Quotient – chỉ số trí tuệ cảm xúc)…
Có thể thấy chêm tiếng anh vào tiếng việt được sử dụng
rộng rãi ở khắp các lĩnh vực của đời sống. Nó len lỏi vào trong trí
óc và trở thành thói quen của con người Việt Nam.
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Chúng tơi đã có một nghiên cứu nhỏ về nước độ sử dụng từ
tiếng anh chêm tiếng việt của 205 cá nhân bất kì ở nhiều lứa tuổi
khác nhau về mức độ sử dụng chêm tiếng anh trong giao tiếp hằng
ngày.
Với câu hỏi: Bạn có hay nói chêm tiếng Anh trong giao
tiếp hàng ngày khơng? có thể biết được mức độ chêm xen tiếng
Anh trong giao tiếp. Chúng ta có thể thấy 8,3% người chưa từng sử
dụng chêm tiếng anh trong khi ấy số người sử dụng nó lại rất nhiều
dù vơ tình hay cố ý.
Bảng 1: Mức độ chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp
Mức độ
Số lượng
Chưa từng
17
Thỉnh thoảng
125
Bình thường
52
Rất thường xun
11
1.2 Trên các phương tiện truyền thơng
Phương tiện truyền thơng là đại diện tiếng nói cho một cá
nhân, tổ chức; là phương thức tiếp cận trực tiếp đến người xem. Nó
là một trong số những lĩnh vực đi đầu, ln đón nhận những xu
hướng, sự phát triển và cách tân trong Tiếng Việt. Thông qua
phương tiện truyền thơng ta có thể thấy rất rõ sự thay đổi của ngơn
ngữ tiếng việt đặc biệt là hiện tượng nói chêm tiếng anh vào tiếng
việt.
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Đối với báo chí ta có thể thấy rất nhiều những tờ báo
mang tên Tiếng Anh như VnExpress, Hoa Học Trò Magazine, Tuổi
trẻ Online, Thanh niên Online, Vietnam Investment Review,
VnEconomy, Thesaigontimes,….
Và cũng trong những bài báo chúng ta bắt gặp rất nhiều
những từ ngữ quen thuộc, lặp đi lặp lại như : internet, wifi, virus,
online, hacker, website, email, comment, view, stress, show,
showbiz, fan, fanpage, like, clip, MC, module, U - under (trong
những kết cấu U50, U30), top, marketing, module, shopping…
Đối với truyền hình, các chương trình hút khách cũng
có tên Tiếng Anh bên cạnh tên Tiếng Việt như World Cup, Miss
Vietnam, “Thần tượng Việt Nam” (Vietnam’s Idol), “Giọng hát
Việt” (The Voice), Giọng hát Việt nhí (The Voice Kids), “Nhân tố
bí ẩn” (The X-Factor), “Vua Đầu bếp” (Masterchef), “Bước nhảy
hồn vũ” (Dancing with the Stars), “Thử thách cùng bước nhảy”
(So you think you can dance), “Tìm kiếm tài năng Việt Nam”
(Vietnam’s Got Talent), Ơn Trời cậu đây rồi ( Thanks God ! You're
Here), Hãy chọn giá đúng (The Price Is Right), Chiếc nón kỳ diệu
(Wheel of Fortune), Ai là triệu phú? (Who Wants To Be A
Millionaire?), Hello Vietnam,…Đôi lúc bản thân ta không thể nhớ
được tên gọi tiếng việt của các chương trình bởi sự phổ biến của
tên tiếng anh.
Bên cạnh đó đối với những ai u thích các chương trình
âm nhạc, quan tâm và theo dõi nó sẽ biết đến những dòng nhạc như
“pop”, “ballad”, “rock”, “rap”, “dance”, “jazz”,… Một số bài hát
được phát sóng trên mạng xã hội,vơ tuyến, các nhạc sĩ cũng thêm
thắt vào đó vài từ tiếng Anh để nghe cho “sang”, cho “hợp thời” vì
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Tiếng Việt không thể diễn đạt được những ý tứ của người sáng tác
nên người ta phải dùng tiếng Anh.
Những người dẫn chương trình mà ngày nay quen gọi là “MC”
( master of ceremonies) thường có những từ (ngữ) cửa miệng như:
“gameshow” (trị chơi truyền hình), “fan” (người hâm mộ), “clip”
(đoạn phim)….
Quả thật việc nói chêm tiếng anh vào tiếng việt là vấn đề
không thể tránh khỏi trong cuộc sống hiện đại ngày nay nhất là
những bạn trẻ, mầm non của đất nước. Nói chêm khơng xấu, nó là
cách để ta giao tiếp đối với người đối diện. Thay vì phải nói dài
dịng, việc sử dụng những từ tiếng anh đơn giản, phổ biến sẽ giúp
chúng ta tiết kiệm thời gian rất nhiều.Thế nhưng dùng hạn chế
tiếng nước ngoài ở một mức độ nào đó cũng có thể chấp nhận
được, nhưng có lúc sự lạm dụng vượt quá ngưỡng cho phép của
pháp luật. Cứ như chiến dịch “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”
(tiếng Việt không phải là hàng), mở rộng ra lĩnh vực ngơn ngữ, thì
tiếng mẹ đẻ cần phải được tôn trọng, ngoại trừ đối với một vài
trường hợp như từ internet, là phát minh mới của loài người, cả thế
giới đều dùng, chấp nhận dùng nguyên thể, dù dịch ra tiếng Việt
cũng được.
2. Nguyên nhân
Bảng 2: Lý do chêm xen tiếng Anh
Nguyên nhân
Do thói quen
1
Số lượng
64
19
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
Khơng thể tìm được từ tiếng Việt tương ứng
65
20
Rất thích Tiếng Anh
40
12
Thể hiện cá tính (sang, thời thượng)
30
9,
Nghe tiếng Anh hay hơn
52
16
Do môi trường giao tiếp xung quanh
37
11
2.1. Nguyên nhân khách quan:
2.1.1. Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa
Việt Nam đang ngày càng mở cửa và hội nhập, việc này sẽ giúp
Việt Nam có nhiều cơ hội giao thoa văn hóa và ngơn ngữ. Trong
q trình hội nhập, ta tiếp nhận thêm tiếng Anh và tiếng Anh như là
một ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất chỉ sau tiếng mẹ đẻ. Vì
vậy việc biết đến nghiên cứu và sử dụng tiếng Anh là điều vô cùng
dễ hiểu.
2.1.2.
Sự phát triển của công nghệ thông tin
Sự phát triển của công nghệ thông tin: Với thời hiện đại
4.0 như ngày nay, có rất nhiều phương tiện truyền thơng thơng tin
đã và đang phát triển rất nhanh. Cùng với đó là sự phát triển của
mạng xã hội. Giới trẻ như chúng ta được biết đến là thế hệ được
tiếp xúc với khoa học cơng nghệ nhiều nhất và có khả năng tiếp
nhận thông tin nhanh nhất nên khi một trào lưu nào đó xuất hiện,
chỉ cần cần vài phút là có thể phát tán tràn lan trên mạng. Nên khi
trào lưu chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt được sử
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
dụng, nó đã nhanh chóng phổ biến trên khắp trang mạng xã hội và
được giới trẻ sử dụng trong giao tiếp hàng ngày.
Kinh tế phát triển, đời sống văn hóa, xã hội nâng cao, việc
giao lưu ngày càng được mở rộng trơng thấy. Cũng từ đó ngơn ngữ
trong giao tiếp được nâng cao hơn, ngôn ngữ được bổ sung thêm
nhiều từ mới, nghĩa mới. Điều đáng nói ở đây là việc nhập thêm
nhiều từ ngữ tiếng Anh vào Việt Nam một cách ồ ạt, khơng kiểm
sốt. Điều đó làm cho những từ ngữ đó được chêm xen vào trong
giao tiếp tiếng Việt ngày càng phổ biến hơn.
2.1.3. Sự vô tâm của gia đình, nhà trường; Sự yếu kém
trong quản lý của các cơ quan truyền thông
Nhận thức và trách nhiệm của gia đình cịn chưa thực sự
tốt. Với sự hiện đại như thời nay, có lẽ thế hệ bố mẹ chúng ta chưa
theo kịp với những xu hướng của con em mình. Nhiều gia đình cịn
ủng hộ cho lối đua địi, a dua của con cái, nng chiều hết mực.
Ngay cả một đứa trẻ mới 6 tuổi cũng đã được bố mẹ sắm cho một
cái điện thoại, thậm chí cịn được dùng các trang mạng xã hội như
Facebook... Chính sự nng chiều đó của cha mẹ đã khiến cho con
em mình tiếp xúc với những mặt trái của mạng xã hội và chạy theo
những thế giới ảo, dần đánh mất đi bản sắc văn hóa dân tộc.
Bên cạnh đó, là sự vô tâm của nhà trường, chỉ để ý đến
những mặt tích cực của hiện tượng mà khơng quan tâm đến mặt
tiêu cực của nó. Một số nhà trường có quan tâm nhưng mới chỉ
dừng lại ở mức hời hợt. Có nêu ra một số khẩu hiệu hơ hào “giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nhưng lại khơng đưa ra cách “làm
thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt?”. Hay có những
học sinh vi phạm thì nhà trường lại bỏ qua, khơng đưa ra các biện
pháp để xử lý nghiêm những hành vi đó. Thậm chí, cịn có sự yếu
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
kém trong quản lý của các cơ quan truyền thông. Khi hiện tượng
xuất hiện trên mạng, các cơ quan truyền thơng cịn xử lý chậm
trong việc ngăn chặn những hiện tượng mang tính tiêu cực, để khi
hiện tượng ấy trở thành trào lưu trên mạng xã hội, được lan truyền
một cách chóng mặt thì lúc ấy khó mà kiểm sốt được. Hay có một
số cá nhân hoặc cơ quan báo chí, truyền thơng cũng vơ tình “vạch
đường cho hươu chạy”. Nhiều trang mạng truyền thơng cịn tích
cực chia sẻ những thơng tin ấy, khiến cho nó lan rộng hơn nữa.
Nhiều tử ngữ được sử dụng phổ biến thường xuyên với ý nghĩa
nhất định lại được truyền thông đưa ra với những ý nghĩa mới,
thuật ngữ mới. Điều đó làm cho những từ ngữ ấy mất đi ý nghĩa
ban đầu và dẫn đến những nhận thức khác nhau về nó.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
2.2.1. Tư tưởng thoáng
Người dân Việt Nam có tính khơng chối từ. Việt Nam có một
vị trí địa – chính trị khá đặc biệt: Nằm ở rìa phía đơng của bán đảo
Đơng Dương, gần trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Trên đất
liền giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia; trên biển giáp Malaixia,
Brunay, Philippin, Trung Quốc và Campuchia. Là một nước thuộc
vùng văn hóa Đơng Nam Á, giáp biển Đơng, so với nước Lào,
nước ta có thể coi như “ngôi nhà mặt tiền” nằm ở ngã tư đường, có
hai mặt phố. Chính vị trí địa – chính trị đó đã tạo điều kiện thuận
lợi cho nước ta có cơ hội được tiếp xúc với nhiều văn hóa khác
nhau. Từ xa xưa, dân tộc ta đã có trong mình tinh thần tiếp thu, học
hỏi nên khi được du nhập, tiếp xúc, người Việt ta sẵn sàng tiếp thu
những nền văn hóa lạ. khơng những thế, vị trí của nước ta cũng tạo
điều kiện cho các chính sách mở cửa, hội nhập với các nước trên
thế giới. chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tích cực và tồn
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
diện của Nhà nước đã tạo điều kiện cho văn hóa Việt Nam hội nhập
và phát triển. Với đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, văn hóa Việt Nam có cơ hội thuận lợi tiếp thu văn hóa
nhân loại và sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới. Và có thể nói
người dân Việt Nam có tính khơng chối từ.
Thực tế có thể nhìn ra được về điều ấy. Cứ nhìn cách ăn ở,
ăn mặc, ăn uống, các lễ hội, giải trí,...là ta thấy rõ người Việt như
một bức tranh khảo (mơ da ích) trong đó cái nền gốc ở Đơng Nam
Á có rất nhiều mảnh ghép có gốc gác từ nhiều nền văn hóa khác từ
nhiều phương trời. Trong khi văn hóa của các dân tộc anh em cùng
chung sống trên một dải đất Việt Nam còn tương đối mộc mạc đầy
bản địa, thì văn hóa của người Việt lại rất phức tạp với nhiều nét
ngoại lai do tiếp xúc đa phương mạnh mẽ.
Người Việt Nam có đầu óc khơng thành kiến. Trải qua hàng nghìn
năm xây dựng và phát triển, đất nước ta đã phải đương đầu với rất
nhiều kẻ thù không độ trời chung và đã từng trở thành nô lệ của các
kẻ thù xâm lược. Mỗi một chặng đường lịch sử, dân tộc ta đã tiếp
thu các loại ngôn ngữ mới. Ngôn ngữ đầu tiên mà nước ta được
tiếp thu của kẻ thù là tiếng Hán. Chúng ta sử dụng tiếng Hán như
một ngơn ngữ quốc gia, trong hành chính quản lý đất nước cũng
như trong giáo dục và văn hóa. Sau đó, kế thừa tiếng Hán đó là
tiếng Pháp cũng được sử dụng rộng rãi gần 10 thập kỷ. Đến giai
đoạn hiện nay, có lẽ với xu thế hội nhập quốc tế thì tiếng Anh - Mỹ
trở thành chìa khóa ngoại giao đối với đất nước ta.
Về óc thực tế/ thực dụng/ thiết thực. Việt Nam xuất phát từ nền
nông nghiệp lúa nước, nên hầu hết mọi người chỉ luôn quan tâm
đến những cái cần thiết cho cuộc sống sinh tồn hàng ngày, cơm ăn
ba bữa đủ no là vui rồi, chẳng mấy khi mơ tưởng đến những cái xa
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
vời. Nếu khơng có lợi cho cuộc sống, thì khơng ai muốn làm. Ai
cũng mang trong mình những tư tưởng ấy nên dần hình thành trong
đầu những suy nghĩ hời hợt, óc thực tế, thiết thực, vụ lợi như thế
khiến cho người ta đưa nhau đi học tiếng Anh, tiếng Mỹ mà không
học tiếng của những người láng giềng (tiếng trung, tiếng Lào, tiếng
Khơme) vì nghĩ rằng chỉ cần học tiếng Anh – Mỹ là sẽ được đi ra
nước ngồi, thốt khỏi cuộc sống cơ cực, có nhiều cơ hội thành đạt
và kiếm được nhiều tiền.
Với thời đại hội nhập hiện nay, con người ngày càng năng
động, linh hoạt nên việc chủ động tìm tịi, sáng tạo cái mới là điều
dễ hiểu, đặc biệt là giới trẻ, tiếp thu rất nhanh chóng. Khoa học
phát triển, mạng Internet được sử dụng rất phổ biến. Hiện nay 1/3
dân số Việt Nam đều sử dụng Internet, 75% số người sử dụng
Internet dưới 35 tuổi và thời gian sử dụng trên Internet mỗi ngày
ngày càng tăng lên. Chính sự phát triển đó, việc giao lưu, tìm kiếm
thơng tin trở nên dễ dàng hơn. Từ đó cơ hội tiếp cận với nhiều trào
lưu ngơn ngữ trên thế giới và sử dụng chúng một cách không hợp
lý. Việc hội nhập với thế giới đã làm cho con người ngày càng trở
nên linh hoạt, khả năng thích ứng ngày càng cao đối với những
phong cách hiện đại.
2.2.2. Tạo phong cách khẳng định bản thân
Một số người có thói đua địi, a dua, học địi quyền q và
muốn gây chú ý cho người nghe. Hầu hết người Việt Nam đều có
quan niệm rằng người biết nói tiếng Anh là người đã được đi nước
ngoài về, hay là những người có trình độ kiến thức cao, có học
thức. Chính suy nghĩ đó đã trở thành một trong những nguyên nhân
của việc chêm xen. Chỉ vì muốn khẳng một bộ phận giới trẻ đã thể
hiện bằng cách chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt hay
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
“nửa Tây nửa Ta trong giao tiếp”, gây sự chú ý của người nghe. Đó
chẳng phải là thói đua đòi, học đòi quyền quý sao?
Nhiều bạn trẻ hiện nay, có thể đi du học vài năm hoặc làm việc,
học tập trong mơi trường nhiều người nước ngồi đang có xu
hướng này thì lý do các bạn đưa ra là “mình nói tiếng Anh quen
rồi” và khơng phản xạ kịp tiếng Việt. Khi giao tiếp thường xuyên
bằng tiếng Anh, một số từ tiếng Việt đơi khi bị qn hoặc có thể là
chưa nhớ ra được. PKL (26 tuổi, cựu du học sinh tại Anh) là một
trong những diễn giả trong buổi tọa đàm nói về sự năng động của
giới trẻ hiện nay. Khi L lấy dẫn chứng minh họa, L đã nhắc đến từ
“unofficial” mà không biết diễn đạt thế nào sang Tiếng Việt. Cũng
là một du học sinh trở về nước, anh L.Đ.H (cựu du học sinh
Trường ĐH California, Los Angeles UCLA) cũng chỉ ra có những
trường hợp quên tạm thời: “Qn tạm thời nhưng khơng hẳn do
“qn”, vì tụi mình đi nước ngồi cũng sau 18 tuổi. Nhưng chủ yếu
là thói quen phản xạ hoặc trong một khoảng thời gian tức thì,
khơng nghĩ ra được từ Tiếng Việt tốt nhất để diễn đạt ý mình muốn
nói”. Hay T.T.T.V, cựu sinh viên trường ĐH Ngoại thương cơ sở
TP.HCM, chia sẻ: “Như kiểu những từ dù cho có thể dịch ra được
Tiếng Việt như “sure – chắc chắn”, “strategy – chiến lược”,
“discuss – bàn luận”… nhưng do dùng thường xuyên và thói quen
nên đến lúc cần chuyển qua tiếng việt thì phải chờ một lúc mới nhớ
ra, vì tức thời lúc đó khơng nhớ ra được. Nói chuyện với bạn bè,
đồng nghiệp thì “nửa Tây nửa ta” quen rồi đến lúc về nói chuyện
với ba mẹ, em phải ráng nghĩ từ đó ra tiếng việt để nói”
Theo như kết quả điều tra, Một số người lại nghĩ rằng, việc “nửa
Tây nửa Ta” trong giao tiếp sẽ tạo ra sự hứng thú đối với người
đọc, tạo thú vị cho người nghe nên sử dụng chúng một cách thường
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
xuyên và trở nên lạm dụng. Số khác lại cho rằng việc chêm xen
tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt là dễ trả lời, tiết kiệm thời gian,
thuận tiện, nhanh chóng. Thay vì trả lời dài dịng, họ thường tìm
cách trả lời ngắn gọn hơn, ví dụ như có một số từ Tiếng Anh ngắn
gọn hơn từ Tiếng Việt: but (nhưng), or (hoặc), of (của)… Hay với
giới trẻ hiện nay, lại đưa ra những lý do rất đỗi bình thường “Văng
tục cho lịch sự hơn”, “Nói xấu mà khơng bị phát hiện”, hoặc có thể
là “Do mọi người xung quanh đều nói vậy”. Có vơ vàn những
ngun nhân, lý giải khác nhau của giới trẻ về hiện tượng này.
Điều ấy khiến chúng ta phải suy ngẫm về văn hóa của giới trẻ hiện
nay. Liệu cuộc nói chuyện “nửa tây nửa ta” diễn ra phổ biến hơn
thì cuộc trị chuyện ngày càng hấp dẫn hơn hay ngôn ngữ mẹ đẻ,
cách ứng xử văn hóa của chúng ta ngày càng bị mai một?
2.2.3. Tiếng Anh là mơn học chính bắt buộc
Tiếng Anh chính là ngơn ngữ có ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực
các quốc gia như chính trị, thương mại, du lịch… vì vậy những
người có vốn tiếng anh thành thạo sẽ tạo được ưu thế cạnh tranh
trong công việc, đem lại nhiều lại ích cho bản thân. Tiếng Anh
đang là thứ ngôn ngữ chung của các quốc gia trên thế giới trong xu
thế hội nhập và toàn cầu hiện nay. Các quốc gia trên thế giới hiện
nay đều chú trọng tới việc học tiếng Anh để nâng cao trình độ, bắt
kịp với xu thế hội nhập. Trong xu thế đó, tiếng Anh trở thành một
phần khơng thể thiếu, có thể nói tiếng Anh ln ở xung quanh ta. Ở
Việt Nam, tiếng anh là ngôn ngữ bắt buộc phải học, do vậy mà
chúng ta thường xuyên tiếp xúc với tiếng anh hàng ngày. Đáp ứng
nhu cầu của xu thế, nhu cầu học tiếng anh, rèn luyện trong giao
tiếp và trong văn viết cũng tăng lên. Vì vậy mà nhiều người cho
1
Hiện tương chêm xen Tiếng Anh trong giao tiếp của người
Viêt Nam
rằng sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt chính là đang học
tiếng Anh, điều đó có thể nhớ từ vựng được lâu hơn.
Vấn đề nói chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp tiếng Việt sẽ không
ảnh hưởng gì nếu ta biết sử dụng đúng tình huống và hoàn cảnh.
Nhưng với giới trẻ hiện nay, dường như điều ấy đã trở thành một
ngôn ngữ không thể thiếu trong giao tiếp. họ chêm xem một cách
lạm dụng, không kiểm sốt. Có lẽ do sử dụng hàng ngày và thường
xun, điều đó đã trở thành thói quen dẫn đến gây ra hiện tượng
mai một tiếng mẹ đẻ.
3. Tác động
Những năm gần đây, nhiều người Việt mắc rất nhiều lỗi
chính tả,chêm tiếng anh trong khi nói học viết tiếng Việt, cú pháp
trong ngơn ngữ nói, dùng nhiều hư từ, tiếng đệm vơ nghĩa, từ sai
nghĩa... làm mất đi tính trong sáng và chuẩn mực của tiếng Việt. Tệ
hại hơn là điều này lại xảy ra thường xuyên ở xã hội trẻ ngày nay...
Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến những thế hệ sau, họ sẽ sử
dụng tiếng Việt ra sao nếu cứ tồn tại cái sai, thiếu sự chuẩn mực ra
rả hàng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng với nhịp
độ ngày càng tăng đang gặm nhấm, xói mịn và méo mó ngơn ngữ
Việt vốn phong phú và đa sắc, đủ biểu hiện mọi sắc thái tình cảm,
hành động của con người.
3.1. Tác động tích cực
Trước hết, khơng thể phủ nhận rằng, việc sử dụng chêm xen
tiếng Anh trong giao tiếp cũng có tác dụng nhất định như: Có thể
chuyển tải nghĩa 1 cách ngắn gọn và hiệu quả, khả năng truyền đạt
thông tin nhanh. Giúp các bạn trẻ năng động, hiện đại hơn trong
giao tiếp. Chẳng hạn, dùng từ “ đi toilet” (nói là “ đi toa-lét”) thì
1