A.
MỞ ĐẦU
Tội phạm học là một ngành khoa học ứng dụng nên nó khơng giống với các
ngành khoa học học pháp lý khác như Tố tụng dân sự, Luật hình sự hay luật hành
chính. Nếu các khoa học pháp lí khác có quy định cụ thể trong các Luật hay văn bản
pháp luật liên quan thì tội phạm học nghiên cứu tội phạm bằng các phương pháp như
thống kê hay khảo sát thông qua các tội phạm thực tế đã xảy ra để có một cái nhìn
tồn cảnh về "bức tranh tội phamh" nhằm tìm các giải pháp ngăn ngừa tội phạm có
thể sẽ xảy ra trong tương lại. Nếu muốn biết một cái cây tại sao lại phát triển yếu kém
hơn thậm chí là chết so với các cây khác trong một điều kiện tự nhiên như nhau thì
phải tìm hiểu ngun căn của vấn đề của chính cái cây đó. Tương tự như vậy, tội
phạm học cũng tìm hiểu nguyên nhân, yếu tố thúc đẩy, dẫn đến việc quyết định thực
hiện tội phạm của người phạm tội. Từ đó, đề ra các giải pháp để ngăn ngừa các tội
phạm tương tự xảy ra. Nguyên nhân cái cây chết có thể xuất phát từ chính gốc rễ của
cái cây đã bị mục rữa, cũng có thể do chính tác động của những con sâu đục thân của
chúng. Còn tội phạm cũng có ngun nhân từ chính đặc điểm nhân thân và cũng có
những ngun nhân từ phía bên ngồi. Vậy những nguyên nhân về đặc điểm nhân
thân của người phạm tội trong tội phạm học được hiểu như thế, nó có giống với đặc
điểm nhân thân tội phạm của các ngành khoa học pháp lý khác như Hinh sự hay Tố
tụng dân sự. Đặc biệt, hơn ngày nay bộ máy quản lý nhà nước bao gồm các công
chức, cán bộ ở Việt Nam đã, đang và ngày càng có xu hướng mục ruỗng thêm về ý
thức pháp luật và đạo đức bởi chính những hành vi mà họ đã gây ra trên thực tế.
Hành vi đó khơng gì khác chính là các hành vi liên quan đến các tội phạm tham
nhũng. Vậy đặc điểm nhân của tội phạm này có gì đặc biệt, điều gì trong nhân thân
của họ đưa đến các hành vi phạm tội của họ và liệu khi biết được các đặc điểm nhân
thân dẫn đến tội phạm rồi thì có giải pháp nào phịng ngừa loại tội phạm này không?
Xuất phát từ các lập luận trên nhóm chúng em chọn đề tài: "Phân tích những đặc
điểm nhân thân của người phạm tội tham nhũng ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho
bài tập nhóm lần này.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Đặc điểm sinh học
1.1. Đặc điểm về giới tính
Nghiên cứu đặc điểm về giới tính của người phạm tội nhằm
Xác định tỷ lệ phạm tội theo giới tính
Kết quả thống kê cho thấy trong mọi xã hội, tỷ lệ phạm tội của nam giới luôn
cao hơn nữ giới. Tuy nhiên ở mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa trong từng thời kỳ, đối với
từng lọai tội phạm thì tỷ lệ này lại có sự thay đổi
Xác định các nét đặc trưng của tội phạm do nam giới và nữ giới thực hiện
Về cơ cấu của tội phạm theo giới, nam giới thực hiện tội phạm 1 cách phổ biến ở
nhiều nhóm tội và lọai tội khác nhau (tội phạm xâm phạm tình dục ). Trong khi đó,
nữ giới lại thường chiếm tỷ lệ cao ở 1 số nhóm tội nhất định như tội phạm mại dâm,
tội phạm buôn người, ma túy, các tội phạm chiếm đoạt khơng có dấu hiệu bạo lực.
Sự khác nhau trong tỷ lệ phạm tội và cơ cấu tội phạm theo giới tính là xuất phát
từ sự khác nhau giữa những đặc điểm thể chất, tâm lý và xã hội của mỗi giới tính.
Sự khác biệt trong quá trình xã hội hóa đối với mỗi giới tính đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong sự khác biệt,tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm,
ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức thủ đọan thực hiện tội phạm
I.2.
Đặc điểm về độ tuổi
Nghiên cứu đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội nhằm:
Xác định tỷ lệ phạm tội theo độ tuổi
Tội phạm học phân ra 4 nhóm tuổi : 14 – nhỏ hơn 18 tuổi, 18 – 30 tuổi, 30 -45
tuổi, lớn hơn 45 tuổi.
Kết quả thống kê cho thấy tội phạm do nhóm người từ 18 – 30 thường chiếm tỷ
lệ cao nhất trong xã hội, sau đó là nhóm 30 – 45 và những người chưa thành niên.
Nhóm lớn hơn 45 tuổi có tỷ lệ phạm tội thấp nhất.
Xác định cơ cấu tội phạm theo độ tuổi (các nét đặc trưng của tội phạm theo độ
tuổi )
Phần lớn người chưa thành niên thường thực hiện các tội phạm xâm phạm sở
hữu, điển hình là trộm cắp, cướp giật tài sản, tội phạm về ma túy, các tội xâm phạm
trật tự công cộng.
Nhóm 18 -30 tuổi thực hiện phần lớn các tội phạm có sử dụng bạo lực ( giết
người, cướp tài sản, hiếp dâm )
Nhóm 30-45 tuổi và từ 45 trở lên đặc trưng bởi các tội phạm về kinh tế, chức vụ,
xâm phạm an ninh quốc gia
Nguyên nhân là ảnh hưởng của chức năng sinh học và xã hội. Nhóm chưa thành
niên chưa có vai trị vị trí trong xã hội, định hướng giá trị chưa chín chắn, vững vàn
nên muốn tự khẳng định bản thân.
Yếu tố lứa tuổi của người phạm tội ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm cũng
xuất phát từ các đặc điểm thể chất, tâm lý, xã hội của mỗi lứa tuổi khác nhau. Trong
đó, vai trị vị trí xã hội của mỗi độ tuổi luôn ảnh hưởng quyết định đến việc lựa chọn
phương thức thủ đọan thực hiện tội phạm
2. Đặc điểm tâm lí
Mỗi ngành khoa học pháp lý khác nhau sẽ nghiên cứu tội phạm dưới một góc độ
khác nhau. Tội phạm học nghiên cứu tội phạm nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm.
Muốn phịng ngừa tội phạm thì phải có giải pháp hữu hiệu và giải pháp muốn hữu
hiệu phải xuất phát từ chính các nguyên nhân phát sinh ra tội phạm. Một trong các
nguyên nhân này chính từ phía nhân thân người phạm tội. Theo các trường phái quan
điểm nguyên nhân người phạm tội thì các yếu tố chủ quan sẽ tác động qua lại với các
yếu tố khách quan trong hồn cảnh thích hợp sẽ sinh ra tội phạm. Yếu tố về đặc điểm
về tâm lí của người phạm tội cũng là một trong những yếu tố hình thành tội phạm
thuộc về mặt chủ quan của người phạm tội. Các đặc điểm về tâm lí sinh ra tội phạm
thường về nhu cầu, hứng thú, thói quen, sở thích...
2.1. Nhu cầu
Định nghĩa: Nhu cầu là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần được đáp ứng trong
những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.
• Cơ chế hình thành và vai trị trong cơ chế tâm lí xã hội của hành vi phạm tội:
Thiếu thốn => phải thỏa mãn
Nhu cầu là những đòi hỏi mà cá nhân cảm thấy cần được đáp ứng. Có thể thấy
sẽ có những người từ nhỏ những nhu cầu vật chất của họ luôn được đáp ứng nhưng
nhu cầu về tinh thần thì lại khơng được đáp ứng. Cũng có những trường hợp ngược
lại họ được đáp ứng nhu cầu về tinh thần nhưng lại không được đáp ứng nhu cầu về
vật chất. Và kết quả là họ sẽ tìm cách để thỏa mãn các nhu cầu đó. Từ đó sinh ra động
cơ phạm tội. Từ đó có thể hiểu được một phần nguyên nhân của tội trộm cắp, cướp
giật tài sản chính là do thiếu tiền để thực hiện mục đích nào đó, hay như tội hiếp dâm
do nhu cầu sinh lí hoặc tội giết người do nhu cầu phải thỏa mãn những ức chế, cơn
giận dữ đối với người bị hại... Ở nhu cầu của người phạm tội thơng thường: có sự hạn
hẹp, mất cân đối trong hệ thống nhu cầu. Các nhu cầu của người phạm tội thường
lệch chuẩn xã hội, do chính các vượt quá khả năng,tồn tại những nhu cầu biến dạng đi
ngược lại những chuẩn mực của đạo đức và pháp luật. Do các nhu cầu này khó được
đáp ứng bởi pháp luật và đạo đức xã hội không cho phép. Do đó, họ sẽ tìm các biện
pháp thỏa mãn các nhu cầu của người phạm tội thường vô đạo đức và vi phạm pháp
luật.(Do không thể dùng biện pháp thông thường để thỏa mãn nên phải dùng biện
pháp không phù hợp đạo đức và pháp luật). Và chính sự trái đạo đức, trái pháp luật
như vậy thì đó chính là tội phạm.
2.2. Hứng thú
- Định nghĩa: Hứng thú là sự rung động tâm lí được bộc lộ qua thái độ đặc biệt
của cá nhân đối với chính bản thân hoặc đối tượng nào đó, nó vừa có ý nghĩa với
cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khối cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt
động của bản thân.
Đối với người phạm tội, họ thường có hứng thú thấp kém, thiên về những khoái
cảm vật chất, hưởng thụ. Người phạm tội thường bị lôi cuốn, bị hấp dẫn bởi những
suy nghĩ và hành vi lệch chuẩn đi ngược lại với chuẩn mực của đời sống xã hội.
2.3 Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật
Định nghĩa: Ý thức đạo đức là một dạng của ý thức xã hội,ý thức đạo đức là
quan niệm về : tốt - xấu, khen - chê, tốt bụng - độc ác, chính - tà, cao thượng - thấp
hèn.
Ý thức đạo đức của người phạm tội thường:
- Có sự hạn chế trong việc tiếp cận với những giá trị đạo đức.
- Có những quan niệm, đánh giá riêng biệt về nội dung của những giá trị đạo
đức, quan niệm của họ về điều thiện - ác, tốt - xấu, chính - tà có sự sai lệch so với
những chuẩn mực chung của xã hội, của giai cấp.
Ý thức pháp luật: Ý thức pháp luật được xem như một thể thống nhất gồm sự
hiểu biết về pháp luật và thái độ đối với pháp luật của cá nhân.
Theo đó, ý thức pháp luật của tội phạm thường rất kém. Bởi không hiểu biết về
pháp luật hoặc họ hiểu biết nhưng vẫn cố tình thực hiện trái pháp luật thể hiện thái độ
không tôn trọng pháp luật của người phạm tội. Ý thức này thường cũng do môi
trường xung quanh tác động một phần nhưng cũng chính người phạm tội lựa chọn về
việc khơng tìm hiểu cũng như không quan tâm đến vẫn đề pháp luật quy định do đó
dẫn đến ý thức pháp luật của họ rất kém.
Ý nghĩa đặc điểm tâm lí của người phạm tội: Nghiên cứu đặc điểm này giúp
chúng ta nhận thức được một phần nguyên nhân của tội phạm cụ thể, đặc điểm tâm lí
tiêu cực của người phạm tội tác động với các hồn cảnh, tình huống khách quan có
khả năng làm nảy sinh động cơ của hành vi phạm tội. Ngồi ra cịn tác động đến việc
kế hoạch hố và thực hiện TP. Từ đó, giúp đề ra giải pháp phục vụ cho cơng tác
phịng ngừa tội phạm.
3. Đặc điểm xã hội
Quan điểm này cho rằng các đặc điểm xã hội của người phạm tội quyết định
việc thực hiện tội phạm.
3.1. Hồn cảnh gia đình
- Tội phạm học tập trung làm rõ vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân
cách và trong quá trình thực hiện tội phạm.
- Qua nhưng nghiên cứu thực tế những người phạm tội. Những người có gia
đình thường ít phạm tội hơn những người khơng có gia đình hoặc gia đình khuyết
thiếu cha, mẹ hoặc gia đình có cha, mẹ ngoại tình. Bởi chính mơi trường gia đình là
mơi trường gần gũi nhất với từng cá nhân trong xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội.
Gia đình tác động rất nhiều đến quan điểm, ý thức đạo đức và trách nhiệm của các cá
nhân. Một gia đình thường có cha mẹ ln quan tâm, chăm lo, chia sẽ và giáo dục
con tốt sẽ giúp cho đứa trẻ phát triển dưới nhân cách tốt và ngược lại. Bởi chính tình
u thương của cha mẹ sẽ dẫn đến tác động đến cảm xúc của những đứa trẻ. Những
đứa trẻ có cảm xúc tích cực sẽ ln vui vẻ, hịa đồng do đó sẽ ít thực hiện tội phạm.
Cịn ngược lại, khi cảm xúc của những đứa trẻ không tốt, thường xuyên bị la mắng,
đánh đập đối xử không công bằng bởi cha mẹ sẽ dẫn đến sự ức chế và mong muốn
giải tỏa của chúng. Chính những người lớn trong cơn nóng giận cịn khó điều khiển
hành vi, lời nói của mình thì chúng ta làm sao địi hỏi những đứa trẻ hiểu và điều
khiển cảm xúc của chúng khi chúng bị đối xử như vậy. Hơn thế chúng lại còn chỉ là
những đứa trẻ. Tức là những người khơng được coi trọng, có vai trị nhỏ trong gia
đình. Lời nói, cảm xúc của những đứa trẻ cũng rất dễ bị cha mẹ bỏ qua trong quá
trình giáo dục con trẻ. Hơn thế, những đứa trẻ như "những tờ giấy trắng", chúng chưa
có quan niệm hay nhận thức gì khi mới được sinh ra. Chúng học hỏi những thứ xung
quanh mình và gia đình là nơi là chúng học hỏi đầu tiên. Các thói quen từ cha mẹ sẽ
được chúng sao chép và bắt bước lại. Dần dần sẽ hình thành nên nhân cách của đứa
trẻ. Do đó, cũng có thể hiệu tại sao những người phạm tội có xu hướng bạo lực, trộm
cắp, coi thường pháp luật cũng thường có cha hoặc mẹ đã có những đặc điểm này.
3.2. Nơi cư trú
- Nơi cư trú: Không đơn giản là nhà ở đâu mà là sự gắn kết với mơi trường, điều
kiện sinh sống. Ngồi gia đình thì nơi cư trú là yếu tố chính yếu góp phần tạo nên
nhân cách và cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội. Nơi cú trú ngoài các điều kiện hồn cảnh người phạm tội sinh sống, cịn có
các yếu tố về những người xung quanh tác động đến họ. Nếu ở một xã mà một hành
vi không được coi là tội phạm thì họ sẽ đương nhiên coi đó khơng phải là tội phạm và
khi ra ngồi xã đó họ vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó. Giống như tục nối dây khi
trước kia trong xã hội không quan tâm tục này và không coi là tội phạm, khơng ngăn
cấm thì việc thực hiện tục này cũng sẽ là bình thường, khơng ai thấy bất cơng. Nhưng
khi đời sống phát triển, kéo theo sự phát triển của pháp luật phát triển và tập tục này
bị cấm thì những người đã quen với tập tục này mới đầu vẫn sẽ thực hiện tập tục
nhưng sau dần dần một thời gian thì nhiều người biết hơn về việc cấm tập tục này, sẽ
dần loại bỏ tập tục này. Khi xã đó khơng cịn thực hiện tập tục thì cũng khơng ai dám
thực hiện tập tục đó. Bên cạnh đó, các khu vực có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển
người dân có đời sống ổn định và mức sống khơng chênh lệch nhiều sẽ có ít tội phạm
hơn. Do đó, vấn đề về nơi cư trú cũng chính là một phần nguyên nhân tội phạm. Vì
vậy, một số tội phạm dễ có nguy cơ tái phạm ở mơi trường khu vực đã từng sinh sống
sẽ bị cấm cư trú ở khu vực đó khi họ chấp hành xong bản án.
II. Đặc điểm nhân thân người phạm tội
1.
Đặc điểm tâm lý
Muốn triệt tiêu được căn bệnh nan y tham nhũng phải tìm ra và trị từ nguồn gốc,
căn nguyên của bệnh này. Nhiều nguyên nhân đã được chỉ ra, như tham nhũng là do
mặt trái của cơ chế thị trường; do cơ chế quản lý yếu kém; một số cán bộ trong bộ
máy quản lý nhà nước thối hóa, biến chất; cơng cuộc chống tham nhũng cịn thiếu
quyết liệt, triệt để; mức thu nhập của công chức cịn thấp, trình độ học vấn của người
dân cịn hạn chế...
Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác, một số học giả cho rằng, một đặc điểm chung
trong tâm lý của các đối tượng tham nhũng chính là, họ ln nghĩ rằng hành vi sai trái
của mình sẽ được giấu kín, sẽ được “bảo hộ” và không sợ các cơ quan chức năng xử
lý. Và tâm lý “không sợ bị trừng phạt” cũng được xem là một lý do để giải thích tại
sao tham nhũng lại tràn lan như hiện nay, mặc dù chính quyền của các nước và người
dân ln đấu tranh với nó.
Thuật ngữ “khơng sợ bị trừng phạt” (The impunity) chỉ trạng thái tâm lý của
những đối tượng thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, bởi các lý do khác nhau,
tin rằng sẽ không bị trừng phạt. Khi mà hành vi phi đạo đức của các nhà lãnh đạo
chính trị và kinh doanh được xem là “bình thường” và khơng bị dư luận lên án, thì
trong họ sẽ nảy sinh tâm lý “không sợ bị trừng phạt”.
Tâm lý “không sợ bị trừng phạt” không chỉ xuất hiện ở những đối tượng đang
thực hiện hành vi phạm tội, những người có điều kiện, khả năng phạm tội về tham
nhũng và chức vụ, mà còn trở nên phổ biến và mặc định trong nếp suy nghĩ của nhiều
người. Tâm lý “không sợ bị trừng phạt” lại được lan truyền từ người này sang người
khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác dẫn đến những hành vi tham nhũng được ni
dưỡng và được che chở bởi chính quan điểm mặc định của xã hội.
Vậy đâu là lý do dẫn đến tình trạng trong xã hội tồn tại trạng thái tâm lý “không
sợ bị trừng phạt”?
Một là, những người thực hiện các hành vi tham nhũng thường là những chủ thể
đặc biệt. Họ là những người có chức vụ, quyền hạn được các cơ quan, tổ chức giao
cho quyền quản lý trên một số lĩnh vực nào đó. Khi quyền lực không được giám sát
chặt chẽ, các chủ thể đặc biệt này sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng những sơ hở, thiếu sót để
thực hiện các hành vi sai trái với mục đích tư lợi. Bằng lợi ích vật chất và quyền lực
“mềm” của mình, họ sẽ che đậy các hành vi vi phạm pháp luật hoặc mua được
“quyền im lặng” từ cấp trên hoặc các cơ quan bảo vệ pháp luật. Họ cũng có đủ các
cách để “bịt miệng” cấp dưới, thông qua cách thức chia sẻ lợi ích có được từ các hành
vi vi phạm pháp luật hoặc răn đe bằng các biện pháp hành chính.
Hai là, mặc dù các văn bản pháp luật của nhà nước ngày càng được hoàn thiện
và chặt chẽ về mặt pháp lý, nhưng hành vi tham nhũng lại biến tướng với những thủ
đoạn tinh vi hơn. Những hành vi này được thực hiện không đơn thuần chỉ bởi một
người, mà bởi một nhóm người có cùng quan hệ lợi ích - hay cịn gọi là lợi ích nhóm.
Những đối tượng này câu kết với nhau, để che giấu những hành vi trái luật, không để
các cơ quan bảo vệ pháp luật có cơ hội tìm ra các chứng cứ buộc tội.
Ba là, những người thực hiện hành vi tham nhũng đôi khi được che chở bởi một
thế lực khác “cao hơn, mạnh hơn”, có đủ sức để bảo đảm rằng các hành vi vi phạm
pháp luật của những người thực hiện sẽ không giống như những người dân bình
thường. Các chế tài xử lý hình sự sẽ được “miễn nhiễm” với những loại chủ thể này.
Bốn là, công tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng cịn mang tính hình thức
mà chưa có tính quyết liệt cao. Dẫn đến những người vi phạm tin rằng những vụ án
trên chỉ là các vụ án cá biệt và tất cả những người bị phát hiện đều là những người
gặp “vận đen” và “vận đen” sẽ không phải là số nhiều, rủi ro sẽ khơng “rơi vào
mình”.
Để tìm hiểu, các tác giả đã sử dụng phương pháp thực nghiệm để phân tách các nhân
tố tình huống và chủ quan; đồng thời xác định xem liệu quyền lực làm băng hoại con
người hay những người băng hoại lại được chọn để giao quyền lực.
Họ được trao tồn quyền kiểm sốt những quyết định về việc lấy tiền cho bản thân
hay cho những người cấp dưới. Những người trong vị trí lãnh đạo có thể lựa chọn
đưa ra những quyết định phù hợp hay chống lại xã hội. Lựa chọn thứ hai sẽ làm giảm
tổng lượng tiền lấy được của nhóm nhưng lại làm tăng “thu nhập” của người đứng
đầu.
Kết quả cho thấy, ít nhất là ban đầu, những người có kết quả trắc nghiệm là ít
trung thực thường có nhiều hành vi xấu hơn; tuy nhiên về sau, ngay cả những người
lúc đầu có số điểm trung thực cao dần dần cũng không thể tránh khỏi tác động hủy
hoại của quyền lực.
2.
Đặc điểm xã hội
Việc nghiên cứu các dấu hiệu nhân thân của tội phạm tham nhũng là vô cùng
quan trọng trong việc đưa ra các biện pháp ngăn chặn, cũng như phịng ngừa loại tội
phạm phức tạp này. Trong đó, việc chỉ ra những dấu hiệu xã hội trong đặc điểm nhân
thân của của loại tội phạm này sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc loại bỏ tội
phạm tham nhũng trong tương lai. Những dấu hiệu xã hội của tội tham nhũng bao
gồm: Giới tính, tuổi,trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hồn cảnh gia đình,
quan hệ xã hội…Những dấu hiệu này tồn tại trong nhân thân của bất kỳ người nào
tuy nhiên, tập hợp những thông tin về dấu hiệu xã hội – nhân khẩu thu được qua
thống kê hình sự sẽ cho chúng ta cơ sở để rút ra những kết luận quan trọng khi nghiên
cứu nhân thân người phạm tội.
Thứ nhất, nói đến tham nhũng thì dấu hiệu xã hội cơ bản nhất của loại tội này là
nghề nghiệp cụ thể là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Theo khoản 2 điều 3 Luật phòng chống tham nhũng 2015 thì người có chức vụ,
quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một
hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm
vụ, cơng vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng
vụ đó, bao gồm:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân, viên chức quốc phịng trong
cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân;
c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ và có quyền hạn
trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó.
Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền
hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình
hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một
người có chức vụ, quyền hạn nhưng khơng lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì khơng
thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở
đây có sự giao thoa giữa những hành vi này với các hành vi tội phạm khác. Do là dấu
hiệu đặc trưng của tội phạm tham nhũng nên tất cả những người phạm tội đều mang
dấu hiệu này như : Đinh La Thăng phạm tội “Tham ô tài sản” giữ chức Chủ tịch HĐ
Thành viên Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Trịnh Xuân Thanh phạm tội “Tham ô tài
sản” giữ chức Tổng Giám đốc Công ty cổ phần xây lắp dầu khí, Phan Văn Vĩnh
phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” nguyên là Trung
tướng, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát,…
Thứ hai, về độ tuổi của các chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Thực tế đã
cho thấy hầu như những chủ thể có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham nhũng
đều là những người lớn tuổi từ 40 tuổi trở nên, có nhiều năm thâm niên trong các cơ
quan nhà nước thực hiện. Như ông Nguyễn Hồng Hà 50 tuổi Đội phó Đội Quản lý thị
trường 7B, Thành phố HồChí Minh Nhận “hối lộ” 40 triệu đồng, Trịnh Xuân Thanh
49 tuổi, Đinh La Thăng 55 tuổi hay Phan Văn Vĩnh Trung tướng Công an nhân dân
Việt Nam 60 tuổi,… Nguyên nhân là do những người có chức vụ, quyền hạn hoạt
động lâu năm trong bộ mày nhà nước là những người có q trình cơng tác và cống
hiến nên có nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ thống, là những chuyên gia trên
nhiều lĩnh vực khác nhau nên hầu hết họ đều nắm giữ những chức vụ quan trọng
trong bộ máy nhà nước. Từ vị trí lãnh đạo của mình, những cá nhân này có quyền lực
và có sự tác động lớn tới hoạt động của nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau. Qua đó,
họ có đủ những điều kiện thuận lợi để thực hiện hành vi tham nhũng, cũng như bưng
bít hành vi của mình với chính quyền, người dân. Nói như vậy khơng có nghĩa là
những người ở độ tuổi trẻ hơn ít kinh nghiệm hơn trong bộ máy nhà nước không
tham nhũng. Mà hoạt động tham nhũng của họ diễn ra ít hơn chủ yếu là những số tài
sản nhỏ, họ giữ lại cho mình hoặc giữ lại đưa cho cấp trên theo mệnh lệnh như trường
hợp của Trịnh Thị Huyền nguyên 35 tuổi là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
thành phố, tỉnh Thái Nguyên với hành vi nhận “hối lộ” 17 triệu đồng của người nhà
bị can trong một vụ án do mình thụ lý.
Thứ ba, chủ thể của tham nhũng thường là những người có quan hệ rộng và có
uy tín xã hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của
chủ thể hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra,
xét xử hành vi tham nhũng. Điển hình là trong các vụ án tham nhũng lớn như Phan
Văn Vĩnh (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1955) có tội danh “Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ” là cựu Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam,
chính trị gia và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân người Việt Nam hay Hà Văn
Thắm với tội danh “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” và “Tham ô
tài sản” nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đại dương có cả tiềm lực lớn về kinh tế
cũng như địa vị. Do có những yếu tố tốt về quan hệ cũng như uy tín xã hội những
người thực hiện hành vi tham nhũng có thể cấu kết với nhau hoặc bao che cho nhau
khi thực hiện hành vi tham nhũng. Từ đó bưng bít những hành vi vi phạm pháp luật
của mình, qua mặt các cơ quan thanh tra chính phủ che giấu bằng chứng, tài liệu
phạm tội khỏi những cơ quan thực hiện việc điều tra, xét xử tham nhũng.
Thứ tư, về trình độ học vấn thì qua việc tìm hiểu và xem xét các vụ án tham
nhũng từ địa phương cho tới các vụ đại án lớn thì trình độ học vấn của những người
phạm tội đều rất tốt. Những chủ thể phạm tội tại các vụ án tham nhũng có trình độ
học vấn ít nhất là có trình độ văn hóa phổ thơng: 12/12 ví dụ như ơng Trần Văn Luận
Ngun Đội trưởng Đội cao su thuộc Công ty TNHH MTV cao su eahleo bị bắt với
tội danh “nhận hối lộ”. Có những vụ án tham nhũng mà người phạm tội thậm chí cịn
có trình độ học vấn cao như Đinh La Thăng Ông tốt nghiệp đại học Trường Đại học
Tài chính Kế tốn Hà Nội có học vị tiến sĩ kinh tế, Hà Văn Thắm cử nhân Đại học
Thương mại, Thạc sĩ trường Đại học Columbia Commonwealth (USA) và Tiến sĩ
Quản trị Kinh doanh tại trường Đại học Công nghệ Paramount, Mỹ hay Trần Phương
Bình (sinh năm 1959) là giảng viên kinh tế và doanh nhân người Việt Nam. Ông
nguyên là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng tín
dụng Ngân hàng Đơng Á (DongABank - DAB) bị kết án về tội “Lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Như vậy có thể thấy được rằng những người có học
thức càng cao, thường giữ những vị tri quan trọng trong những cơ quan, cơng ty nhà
nước rất dễ có khả năng phát sinh hành tham nhũng. Những người này có đủ nhận
thức về hành vi mình thực hiện là sai trái nhưng vẫn thực hiện thậm chí cịn có những
chiêu trị để che dấu hành vi của mình.
III. Giải pháp phịng ngừa
1.
Giải pháp về gia đình
Có thể nói răng, những đối tượng phạm tội chức vụ phải là những người có chức
vụ, do đó họ có một lượng kiến thức chuyên mơn, năng lực, trình độ, đồng thời là
người có đạo đức, lối sống chuẩn mực. Bởi lẽ để có thể nắm được quyền hạn trong
tay, họ phải hội tụ đủ các yếu tố về đức và tài. Một trong những đặc điểm của nhóm
đối tượng này là được tiêp xúc, làm việc trong mơi trường đặc biệt, do đó những mối
quan hệ xã hội tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống cũng
như xử sự của những người này. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận sự tác động của
gia đình đối với những hành lệch lạc mà họ đã thực hiện, từ đó có thể đưa ra một số
giải pháp phịng ngừa từ phía gia đình như sau:
Thứ nhất, song song với việc nắm giữ chức vụ, quyền hạn, thì số lượng cơng
việc của họ là rất lớn, đem lại áp lực không hề nhỏ. Từ phía gia đình thì cha, mẹ, con
cái, vợ hoặc chồng, anh chị em,… cần có sự quan tâm, lắng nghe, cũng san sẻ về
những áp lực công việc.
Thứ hai, hàng năm, những đối tượng này cần phải thực hiện tự kiểm điểm, kê
khai tài sản,… do đó chính bản thân những người này, cũng như người thân trong gia
đình cần trung thực, kê khai một cách chính xác, khách quan. Điều này vừa thể hiện
sự minh bạch của cá nhân đồng thời giúp các cơ quan có thẩm quyền có thể dễ dàng
nắm bắt, kiểm sốt và đánh giá được những sai phạm trong quá trình thực hiện cơng
việc của họ.
Thứ ba, có thể nhận thấy rằng, sự thể hiện của các tội phạm này thường là ở
phương diện vật chất. Do đó gia đình cần phải nắm bắt được những thay đổi này, để
có thể ngăn chặn được ngay từ đầu những dấu hiệu của tham những. Không để cho
hành vi này được tái diễn, lặp đi lặp lại nhiều lần, cũng như gia tăng mức độ nghiêm
trọng.
Thứ tư, ắt hẳn rằng trong gia đình, những người nắm giữ chức vụ, quyền hạn đó
có thể là một tấm gương về tài và đức để noi theo. Đó là niềm tự hào, cũng như mục
tiêu để phấn đấu của họ, do vậy chính bản thân những chủ thể của nhóm tội này cần
phải gương mẫu hơn nữa, cần – kiệm – liêm – chính, chí cơng vơ tư, là hình mẫu cho
gia đình, cũng như tạo nên sự tin cậy cho nhân dân.
2.
Giải pháp về trường học
Phòng ngừa tham nhũng là một trụ cột của Luật phòng, chống tham nhũng.
Chính vì vậy, trong Luật phịng, chống tham nhũng năm 2005, số lượng điều khoản
và nội dung về phòng ngừa tham nhũng chiếm tỉ lệ rất lớn, phần lớn những điểm mới
trong quy định của pháp luật về chống tham nhũng nằm trong các biện pháp phòng
ngừa tham nhũng. Hiện nay, để phịng chống một cách có quy mơ và phù hợp khơng
thể khơng nói đến cơng cuộc dạy học ở trường học. Sau đây là một số giải pháp
phịng ngừa từ phía trường học:
Thứ nhất, Các trường học đưa các nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về phịng chống tham nhũng tích hợp vào các hoạt động dạy học, giáo dục
phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường. Theo đó, với mục tiêu xây dựng lối
sống liêm chính, tạo ý thức chấp hành, học tập về pháp luật phòng chống tham nhũng
trong học sinh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, ngành giáo dục hình thành văn
hóa minh bạch, giải trình, đạo đức, hành vi chuẩn mực trong thực thi cơng vụ.
Thứ hai, Việc triển khai đề án cịn hướng đến mục tiêu hình thành nhận thức rõ
hành vi đưa, nhận, môi giới hối lộ là vi phạm pháp luật, trái với đạo đức, lương tâm,
trách nhiệm để xây dựng mối quan hệ lành mạnh giữa cán bộ, công chức, viên chức
với phụ huynh, học sinh.
Thứ ba, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện. Nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và quyết tâm phòng chống tham nhũng của cán bộ,
giáo viên, nhân viên trong nhà trường. Kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động gây
lãng phí, thất thốt kinh phí và tài sản trong đơn vị, xử lý nghiêm những hành vi tham
nhũng, làm cho mọi hoạt động trong nhà trường được minh bạch, nâng cao tính mẫu
mực xứng đáng với niềm tin của phụ huynh và nhân dân.
3.
Giải pháp xã hội
Phòng chống tham nhũng là cơng việc khó khăn, phức tạp, là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Các giải pháp trọng tâm sau đây:
Thứ nhất, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính
quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phịng chống tham nhũng, lãng
phí. Nâng cao vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, tính
tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Cơ quan Kiểm tra của Đảng phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng của Nhà nước để
kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán
bộ, đảng viên có vi phạm.
Thứ hai, tiếp tục hồn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng chống
tham nhũng. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai và pháp luật liên quan đến quản lý,
sử dụng đất đai, tài ngun, khống sản. Hồn thiện các quy định để quản lý, kiểm
soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách; việc chi tiêu công, nhất là mua sắm và đầu tư
cơng. Hồn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn
của Nhà nước. Hồn thiện cơ chế, chính sách để kiểm sốt chặt chẽ hoạt động tín
dụng, đầu tư xây dựng.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về cơng tác
tổ chức, cán bộ để phịng chống tham nhũng. Thực hiện dân chủ, cơng khai, minh
bạch trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm,
điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật…
Có quy định cụ thể để điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có
nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, khơng đáp ứng u
cầu nhiệm vụ. Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm sốt thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn. Từng bước thực hiện chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm cho
cán bộ, cơng chức, viên chức có nguồn thu nhập chủ yếu bằng lương, sống bằng
lương và có mức sống khá trong xã hội.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả cơng tác phịng chống tham
nhũng, lãng phí. Đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí nghiêm
trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm. Tập trung kiểm tra, thanh tra, kiểm toán
đối với một số lĩnh vực trọng điểm; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng; xử lý nghiêm các tổ chức,
cá nhân vi phạm, gây lãng phí.
Thứ năm, tăng cường vai trị giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong
phòng chống tham nhũng, lãng phí. Ban hành quy chế về việc nhân dân giám sát tổ
chức Đảng và cán bộ, đảng viên. Có biện pháp bảo vệ an tồn và kịp thời biểu dương,
khen thưởng những cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo, phát hiện hành vi
tham nhũng, lãng phí và những tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí.
Thứ sáu, đổi mới, nâng cao năng lực của cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ quan
thường trực, tham mưu về công tác phòng chống tham nhũng. Ở Trung ương, thành
lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do
đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Lập lại Ban Nội chính Trung ương là cơ quan
tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, về chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính; đồng thời, là
cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng.
C.KẾT LUẬN
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, có thể thấy tội tham nhũng là một tội phạm gây
ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến tình hình xã hội, gây mất niềm tin của người dân
với cán bộ, công chức những người quản lý và cũng đồng thời nắm giữ quyền lực nhà
nước. Xưa có câu: "Dân có giàu thì nước mới mạnh". Ngay từ năm 1945, khi nước
nhà vừa giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một quan điểm bất hủ:
“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Nhà nước ta hiện đang xây dựng một nhà nước "Của dân, do dân và vì
dân". Nhân dân chính là cái gốc của nhà nước, các "quan" ngày nay hay nói cách
khác chính là các cán bộ, cơng chức hưởng lương nhà nước, hưởng lương từ chính
sức lao động, từ thuế của dân nộp lên để thay nhân dân quản lý đất nước. Vậy mà một
bộ phận cán bộ, công chức lại lợi dụng chính cái quyền hành mà mình được giao,
tưởng rằng đó chính là quyền của mình mà lại hám lợi nên thực hiện các hành vi
tham nhũng. Chính vì những tác hại do các hành vi này gây ra không phải ai cũng
thấy trước mắt mà các hành vi này càng đáng được quyết tâm đẩy lùi. Bởi đợi đến khi
tác hại to lớn đó phơi bày trước tồn bộ xã hội thì lớp cán bộ, cơng chức quản lý nhà
nước đã "mục nát", tiền của của nhà nước, của người dân đã bị rải rác phân tán hết
mà khơng thể thu hồi và lịng tin của nhân dân về cán bộ nhà nước cũng khơng cịn.
Do vậy, trên cơ sở phân tích nguyên nhân tội phạm tham nhũng ở Việt Nam hiện nay,
nhóm chúng em đã đề ra một vài giải pháp mong có thể góp được phần nào đẩy lùi
nạn tham nhũng hiện này.