Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Khảo sát tính chất lý hóa của endo-β-1.4-glucanase từ Trichoderma asperellum SH16

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.38 KB, 4 trang )

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 9(82).2014

71

KHẢO SÁT TÍNH CHẤT LÝ HÓA CỦA ENDO-β-1.4-GLUCANASE
TỪ TRICHODERMA ASPERELLUM SH16
CHARACTERISTICS OF ENDO-β-GLUCANASE FROM TRICHODERMA ASPERELLUM SH16
Hoàng Tấn Quảng1, Nguyễn Hồng Vân2, Lê Mỹ Tiểu Ngọc1, Nguyễn Hữu Nhân3,
Cao Đăng Ngun2, Nguyễn Hồng Lộc2
1
Viện Cơng nghệ sinh học, Đại học Huế; Email:
2
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế; Email:
3
Trường Cao đẳng Lương thực-Thực phẩm, Đà Nẵng; Email:
Tóm tắt - Chúng tơi đã khảo sát các tính chất lý hóa của endo-β1.4-glucanase (EG) từ chủng Trichoderma asperellum SH16. Kết
quả phân tích cho thấy endo-β-1.4-glucanase từ chủng SH16 được
tổng hợp mạnh nhất sau 96 giờ ni cấy trong mơi trường có 1%
carboxymethyl cellulose, với hoạt độ chung là 0,102 u/mL và hoạt
độ riêng là 2,694 u/mg protein. Enzyme có nhiệt độ và pH hoạt
động tối thích lần lượt là 55oC và 3,5, độ bền nhiệt thấp (dưới 30oC)
và chỉ hoạt động ở vùng pH acid (3,0-5,0). Nồng độ 10 mM Mn2+
và Co2+ có tác dụng tăng hoạt tính của enzyme lên 158 và 166%
nhưng enzyme bị ức chế mạnh bởi EDTA, urea và Triton X-100,
và mất hoạt tính khi xử lý bằng 1% SDS. Trong số 5 nguồn cơ chất
nghiên cứu, bột lõi ngơ là cơ chất thích hợp nhất cho hoạt động
của enzyme này. Kết quả phân tích bằng điện di SDS cho thấy EG
ở T. asperellum SH16 gồm 5 enzyme có khối lượng phân tử
khoảng 25, 27, 37, 45 và 66 kDa.

Abstract - Characteristics of endo-β-1.4-glucanase (EG) from


Trichoderma asperellum SH16 were investigated. Maximum
activity of extracellular EG from T. asperellum SH16 was observed
after 96hrs mycelial inoculation in 1% carboxymethyl cellulose
medium with total activity of 0.102 u/mL and specific activity of
2,694 u/mg protein. The optimum temperature and pH of the
enzyme were at 55oC and 3.5, respectively. The enzyme was
stable over the range of pH 3.0-5.0 and 10-30oC for 30 mins. The
presence of 10 mM Mn2+, and Co2+ ions increased the enzyme
activity up to 158, and 166%, respectively. The enzyme was
inactivated completely by 1% SDS and partially by EDTA, urea,
and Triton X-100. Corn coin powder was the most suitable subtrate
for cellulase activity. SDS-PAGE and native PAGE showed that EG
of T. asperellum SH include 5 enzymes and their masses were 25,
27, 37, 45, and 66 kDa, respectively.

Từ khóa - cellulose; CMCase; endo-β-1,4-glucanase; Trichoderma
asperellum; hoạt độ EG.

Key words - cellulose; CMCase;
Trichoderma asperellum; EG activity.

1. Mở đầu
Phân hủy cellulose là một quá trình phức tạp với sự
tham gia của nhiều enzyme ngoại bào, trong đó enzyme
cellulase giữ vai trò chủ đạo. Hiện nay, cellulase được phân
thành ba loại là endoglucanase (EC 3.2.1.4), exoglucanase
(EC 3.2.1.91) và glucosidase (EC 3.2.1.21). Trong đời sống
và trong sản xuất, cellulase được ứng dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực như trong công nghiệp dệt, công nghiệp giấy
và bột giấy, chế biến thức ăn gia súc, chế biến bia, rượu,

nước trái cây và sản xuất bánh kẹo. Trong nơng nghiệp, các
enzyme này cịn được dùng để kiểm soát dịch hại nhờ khả
năng phân hủy vách tế bào nấm bệnh từ đó ức chế sự phát
triển của chúng. Ngồi ra, cellulase cịn được ứng dụng
trong tạo tế bào trần nấm hay thực vật, làm phối tử trong
tinh sạch protein [10].
Ở Việt Nam, các enzyme thủy phân cellulose cũng đã
đươc phân lập và đánh giá từ nhiều nguồn khác nhau như
các loại nấm Trichoderma [11], nấm A. niger [8],
Penicillium [9] hay từ các loại vi khuẩn và xạ khuẩn [3,
6, 15]… Ứng dụng chính của các enzyme này là xử lý rác
thải chứa cellulose hoặc sản xuất phân hữu cơ [6, 11].
Trên thế giới, phân lập và xác định các tính chất lý hóa
của các loại enzyme cellulase từ nấm Trichoderma đã
được rất nhiều tác giả nghiên cứu như cellulase từ T.
reesei [13, 17, 18], T. viride [7, 16], T. harzianum [14]
hay từ T. lignorum [1]…
Endoglucanase (EG), còn được gọi là endo-β-1,4glucanase hay carboxymethyl cellulase (CMCase), là
enzyme tham gia phân cắt ngẫu nhiên các liên kết β-1,4
glucoside từ bên trong các phân tử cellulose và một số loại
polysaccharide tương tự khác tạo thành các oligosaccharide.

Endo-β-1,4-glucanase có thể được tổng hợp từ rất nhiều
nguồn khác nhau trong tự nhiên, trong đó chủ yếu có nguồn
gốc từ vi sinh vật [7, 12]. Trong bài báo này, chúng tôi trình
bày kết quả tách chiết và xác định các tính chất lý hóa của
endoglucanase từ Trichoderma asperellum SH16 được phân
lập ở Thừa Thiên Huế.

endo-β-1,4-glucanase;


2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu
Chủng nấm T. asperellum SH16 được phân lập từ đất
dưới đống rơm tại Quảng Điền, Thừa Thiên Huế [5].
2.2. Phương pháp
2.2.1. Thu nhận EG ngoại bào
Nuôi cấy chủng nấm T. asperellum SH16 trên đĩa Petri
chứa môi trường Czapeck-Dox ở nhiệt độ 28oC trong 48 giờ
để thu bào tử. Bào tử nấm được thu bằng nước cất vô trùng,
pha lỗng mẫu đến 107 bào tử/mL, sau đó cấy 2 mL dịch
bào tử vào 100 mL môi trường lỏng Czapeck-Dox. Mẫu
được nuôi ở 28oC trong 72 giờ với tốc độ lắc 180
vòng/phút. Sợi nấm được rửa sạch bằng MgCl2 và ni
trong mơi trường lỏng Czapeck-Dox, trong đó glucose
được thay bằng 1% (w/v) carboxymethyl cellulose (CMC)
để cảm ứng sinh tổng hợp EG, điều kiện nuôi cấy là 28oC
trong 96 giờ với tốc độ lắc 150 rpm. Dịch nuôi cấy được ly
tâm 10.000 rpm, trong 10 phút, ở 4oC, loại bỏ sinh khối
nấm, enzyme thô thu được bảo quản ở 4oC cho các thí
nghiệm tiếp theo [5].
2.2.2. Xác định hoạt độ EG
Hoạt độ của EG được xác định dựa theo Iqbal et al.
(2011) [7] với CMC làm cơ chất. Hỗn hợp phản ứng gồm
300 µL CMC 1% (trong đệm sodium acetate 0,05 M; pH


Hoàng Tấn Quảng, Nguyễn Hồng Vân, Lê Mỹ Tiểu Ngọc, Nguyễn Hữu Nhân, Cao Đăng Nguyên, Nguyễn Hoàng Lộc

được tiến hành ở 4oC trong 3 giờ, sau đó ủ trong đệm citrate

20 mM ở 50oC qua đêm có bổ sung 1% (v/v) Triton X-100
để loại SDS. Sau cùng bản gel được nhuộm bằng thuốc
nhuộm Lugol.
2.2.7. Xử lý thống kê
Tính trung bình mẫu và sai số chuẩn ít nhất 3 lần lặp lại
của hoạt tính EG bằng chương trình Microsoft Excel.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Xác định thời gian thu nhận enzyme ngồi bào
Kết quả trình bày ở Hình 1 cho thấy enzyme EG ngoại
bào được tạo ra nhiều nhất sau 4 ngày nuôi cấy, với hoạt
độ chung (HĐC) là 0,102 u/mL và hoạt độ riêng (HĐR) là
2,694 u/mg protein. Lượng enzyme được sản xuất trong
những ngày tiếp theo không có sự thay đổi nhiều so với
điểm 4 ngày, vì vậy chúng tôi chọn thời điểm 4 ngày để thu
enzyme nhằm tiết kiệm chi phí.
0.12

3.5
3.0

0.09

2.5

2.0
0.06
1.5
Hoạt độ chung

0.03


1.0

Hoạt độ riêng

Hoạt độ riêng (u/mg protein)

5,0) với 150 µL dịch enzyme thơ được ủ ở 50oC trong 30
phút. Ngừng phản ứng bằng cách bổ sung 600 µL DNS 1%,
hỗn hợp được đun sơi trong 5 phút để tạo màu. Đo độ hấp
phụ quang của sản phẩm tạo thành ở bước sóng 540 nm.
Một đơn vị hoạt độ của enzyme được định nghĩa là lượng
enzyme có khả năng xúc tác chuyển hóa 1 µmol glucose
trong 1 phút ở điều kiện thí nghiệm [18]. Hàm lượng
glucose được tính tốn theo phương trình đường chuẩn
y = 0,562x (R2 = 0,962), trong đó y là nồng độ glucose và
x là OD540nm.
Hàm lượng protein tổng số của dịch chiết được xác định
theo phương pháp Bradford (1976) [2] dựa vào đường
chuẩn albumin huyết thanh bò (BSA). Hoạt độ riêng của
enzyme EG được tính bằng tỷ số của hoạt độ chung
(unit/mL) trên protein tổng số (mg/mL).
2.2.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ và pH lên hoạt độ của enzyme
Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt tính enzyme được khảo
sát trong khoảng từ 10-90oC. Độ bền nhiệt được khảo sát sau
khi ủ dịch chiết enzyme từ 10-90oC trong 30 phút [5].
Ảnh hưởng của pH đến hoạt tính của enzyme được khảo
sát trong khoảng pH từ 3-8. Đệm sử dụng cho tối ưu pH là
đệm citrate 20 mM (pH 3-5) và đệm phosphate 20 mM (pH
6-8). Dịch enzyme thô được kết tủa bằng (NH4)2SO4 70%

bão hịa ở 4oC trong 2 giờ, sau đó được hịa tan trở lại trong
các đệm có pH khác nhau và hoạt tính thủy phân CMC
được xác định tại nhiệt độ tối ưu [5].
2.2.4. Ảnh hưởng của các ion kim loại và các chất ức chế
Ảnh hưởng của các ion kim loại lên hoạt tính EG được
khảo sát bằng cách ủ enzyme đã tinh sạch sơ bộ với Al3+,
Cu2+, Co2+, Ca2+, Zn2+, Mn2+, Fe3+ và Hg2+ ở nồng độ 5 mM
trong 30 phút ở nhiệt độ phòng. Khảo sát hoạt tính thủy
phân CMC với dung dịch đệm có pH tối ưu và tại nhiệt độ
tối ưu [5].
Ảnh hưởng của các chất ức chế lên hoạt tính của EG
được khảo sát bằng cách ủ enzyme đã tinh sạch sơ bộ với
SDS 1%, EDTA 1 mM, urea 1 M và Triton X-100 1% trong
30 phút ở nhiệt độ phịng. Hoạt tính thủy phân CMC được
xác định bằng cách cho phản ứng với cơ chất trong 30 phút
với dung dịch đệm có pH tối ưu và tại nhiệt độ tối ưu [5].
2.2.5. Thăm dò khả năng phân hủy cơ chất cellulose
Khả năng phân hủy các loại có chất cellulose khác nhau
của EG được thực hiện bằng cách sử dụng 1 mL enzyme thô
để thủy phân 0,05 g cơ chất ở điều kiện phản ứng tối ưu trong
một giờ. Các loại cơ chất bao gồm bột giấy, bột rơm, bột vỏ
lạc, bột lõi ngô, bột vỏ chuối [15]. Các cơ chất này đã được
loại bỏ đường tự do bằng cách đun sôi trong 10 phút (2-3
lần), sấy khô và nghiền thành bột mịn. Khả năng thủy phân
cơ chất của enzyme được khác định dựa trên lượng glucose
được giải phóng ra trong q trình phản ứng.
2.2.6. Xác định khối lượng phân tử
Dịch enzyme thô được kết tủa bằng (NH4)2SO4 70%
bão hòa ở 4oC trong 2 giờ. Hòa tan kết tủa bằng đệm citrate
20mM (pH 4,0). Thẩm tích và làm sạch dịch chiết enzyme

trong đệm citrate 10m M (pH 4,0).
Khối lượng phân tử của EG được xác định bằng phương
pháp điện di dịch enzyme trên gel polyacrylamide 12% có
bổ sung cơ chất CMC ở nồng độ 0,2%. Quá trình điện di

Hoạt độ chung (u/mL)

72

0.5

0.00

0.0

2

3

4
5
6
Thời gian ni cấy (ngày)

7

Hình 1. Sản xuất EG ngoại bào theo thời gian nuôi cấy

Theo một số tác giả, thời gian để EG tiết ra môi trường
ngoại bào đạt cao nhất tùy thuộc vào từng chủng nấm

Trichoderma cụ thể. Nghiên cứu của Li et al. (2009) [12]
cho thấy enzyme EG từ T. viride được sản xuất nhiều nhất
sau 60 giờ nuôi cấy trong hệ lên men. Trong khi đó, Baig
(2005) [1] thu được enzyme EG từ T. lignorum có HĐC
cao nhất là 0,25 u/mL sau 8 ngày nuôi trên môi trường có
nguồn carbon là CMC.
3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Kết quả khảo sát khoảng nhiệt độ tối thích cho hoạt
động của enzyme cho thấy enzyme EG có hoạt tính cao
nhất ở 55oC với HĐC là 0,151 u/mL và HĐR là 2,729 u/mg
protein. Hoạt độ enzyme thể hiện mạnh trong khoảng 5060oC, sau 60oC hoạt độ giảm rất mạnh, có thể enzyme đã
bắt đầu bị bất hoạt (Hình 2).
Một số tác giả khi khảo sát nhiệt độ tối thích của
cellulase từ các chủng Trichoderma cũng nhận thấy 55oC
là nhiệt độ thích hợp cho enzyme phản ứng, chẳng hạn EG
III từ T. reesei QM 9414 [13], cellulase từ T. viride [7] hay
EG từ T. reesei NRRL 3652 [18]. Một số nghiên cứu khác
lại thu được nhiệt độ tối ưu cho phản ứng thấp hơn nghiên
cứu của chúng tôi như EG từ Trichoderma sp. có nhiệt độ
tối thích là 45oC [4], cellulase III từ T. viride là 50oC [16]
hay EG từ T. reesei và T. harzianum là 30oC [14, 17].


ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 9(82).2014

110

pH tối thích
2.4


100

Độ bền pH
90

1.6
80

Hoạt độ cịn lại (%)

Hoạt độ riêng (u/mg protein)

3.2

0.8
70

0

60
3

4

5

pH

6


7

8

Hình 3. Ảnh hưởng của pH lên hoạt độ của EG

Một số công bố trước đây cũng cho thấy cellulase hoạt
động mạnh trong môi trường acid như EG III từ T. reesei
QM 9414 là 4-5 [13], EG từ T. reesei NRRL 3652 là 5 [18],
cellulase III từ T. viride là 4,5-5 [16], hoặc thấp hơn như
EG từ T. reesei là 3 [17]. Một số enzyme có pH hoạt động
tối thích cao hơn nghiên cứu của chúng tơi, ở vùng trung
tính như 6,5 ở EG từ Trichoderma sp. [4] và cellulase từ T.
viride [7], 6,0 ở EG từ T. harzianum [14], hoặc ở vùng kiềm
như 8,0 ở cellulase từ T. viride [7]. Cellulase của chúng tơi
có độ bền pH nằm trong khoảng 3-5, kết quả này tương

180
150
120
90
60
30
0

1% SDS

Hình 2. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên hoạt độ của EG

Trong thí nghiệm khảo sát độ bền nhiệt độ của enzyme

EG, enzyme vẫn duy trì được 90% hoạt độ khi xử lý ở nhiệt
độ dưới 30oC, duy trì được khoảng 80% hoạt độ ở khoảng
nhiệt độ từ 30-50oC giảm rất nhanh khi xử lý ở nhiệt độ
trên 60oC (Hình 2). Kết quả này cũng tương tự kết quả khảo
sát nhiệt độ tối thích của enzyme, nhiệt độ trên 60oC khơng
cịn phù hợp cho enzyme này. Một số enzyme khác có độ
bền nhiệt cao hơn EG của chúng tôi như EG từ T. reesei
NRRL 3652 bền ở 50oC đến 160 phút [18] hay
endoglucanase III từ T. reesei QM 9414 chịu được nhiệt độ
65oC trong 30 phút [13].
3.3. Ảnh hưởng của pH
Sau khi khảo sát hoạt tính enzyme trong khoảng pH từ
3-8 cho thấy enzyme hoạt động mạnh ở khoảng pH 3-4,5,
trong đó mạnh nhất ở pH 3,5, hoạt tính của enzyme giảm
mạnh khi pH lớn hơn 5. Đây là enzyme có khoảng pH hoạt
động hẹp và chỉ hoạt động trong môi trường acid. Khảo sát
độ bền pH cho thấy enzyme giữ được hơn 80% hoạt tính ở
các khoảng pH từ 3-5, ở các mức pH cao hơn, enzyme chỉ
giữ được khoảng 60% hoạt tính (Hình 3).

1 mM EDTA

Nhiệt độ (oC)

1 M Urea

90

1% Tritox 1X


80

5 mM Hg(II)

70

5 mM Al(III)

60

5 mM Zn(II)

50

10 mM Co(II)

40

5 mM Cu(II)

30

5 mM Co(II)

20

5 mM Fe(III)

0
10


5 mM Ca(II)

Độ bền nhiệt độ
0

10 mM Ca(II)

30
Nhiệt độ tối thích

10 mM Mn(II)

1

ĐC

60

5 mM Mn(II)

90
2

đương với EG từ T. reesei NRRL 3652 [18]. Tuy nhiên,
một số nghiên cứu cho thấy các cellulase khác có độ bền
pH cao hơn, chẳng hạn cellulase từ T. viride bền ở pH 4,57,5 [16] hay EG III từ T. reesei QM 9414 là 3-8 [13].
3.4. Ảnh hưởng của ion kim loại
Khảo sát ảnh hưởng của các ion kim loại lên hoạt tính
EG cho thấy Al3+ và Hg2+ có tác dụng ức chế mạnh hoạt

động của enzyme này, hoạt độ thu được còn lại sau khi xử
lý cịn lại dưới 40%. Các ion kim loại có tác dụng tăng
cường hoạt tính của enzyme đáng kể là Ca2+ (113%), Mn2+
(108%) và Co2+ (115%). Khi tăng nồng độ các ion này lên
10 mM, tác động của Ca2+ lại khơng tốt bằng (106%), trong
khi đó Mn2+ và Co2+lại có hoạt tính tăng rất mạnh (158 và
166%). Đối với các chất ức chế, tất cả các chất nghiên cứu
đều ảnh hưởng đến hoạt độ enzyme, ảnh hưởng nhiều nhất
là SDS 1% (cịn lại 3%) và EDTA 1 mM (39%) (Hình 4).
Hoạt độ còn lại (%)

120

Hoạt độ còn lại (%)

Hoạt độ riêng (u/mg protein)

3

73

Các ion kim loại và chất ức chế

Hình 4. Ảnh hưởng của các ion kim loại và các chất ức chế
lên hoạt độ của EG

Việc sử dụng các ion kim loại để tăng cường hoạt tính
của enzyme cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu, Co2+
và Mn2+ tăng cường hoạt độ của cellulase từ T. viride [7],
Ca2+ và Co2+ tăng cường hoạt độ của EG từ T. harzianum

lên gần gấp đôi [14]. Okada (1976) [16] nhận thấy cellulase
III từ T. viride bị ức chế bởi Hg2+ nhưng không bị tác động
bởi EDTA, trong khi đó Iqbal et al. (2011) [7] công bố Hg2+
và SDS, EDTA ức chế hoạt tính của cellulase từ T. viride,
nghiên cứu của Nawaz et al. (2006) [14] cũng cho thấy
Hg2+ ức chế hoạt tính của EG từ T. harzianum. Như vậy,
nghiên cứu của chúng tơi có kết quả tương tự như các
nghiên cứu đã công bố trước đây.
3.5. Khả năng phân hủy cơ chất cellulose
Kết quả trình bày khả năng phân hủy cơ chất có nguồn
gốc cellulose của EG từ T. asperellum SH16 được trình bày
ở Bảng 1 cho thấy chúng có hoạt tính mạnh nhất trên nguồn
cơ chất là lõi ngô, với lượng glucose được giải phóng ra là
1,13 µmol.
Bảng 1. Khả năng phân giải cơ chất của EG từ T. asperellum SH16

Nguồn cơ chất Hàm lượng glucose giải phóng (µmol/mL)
Bột giấy
0,18
Bột vỏ lạc
0,64
Bột vỏ chuối
0,62
Bột rơm
0,33
Bột lõi ngô
1,13


Hoàng Tấn Quảng, Nguyễn Hồng Vân, Lê Mỹ Tiểu Ngọc, Nguyễn Hữu Nhân, Cao Đăng Nguyên, Nguyễn Hoàng Lộc


74

Các nguồn cơ chất khác hoạt tính của enzyme thấp hơn
nhiều. Trong khi đó, nghiên cứu của Trần Non Nước và
nnk (2012) [15] cho thấy cellulase được tổng hợp nhiều
nhất trên nguồn có chất là bột giấy.
3.6. Xác định khối lượng phân tử
Kết quả điện di trên polyacrylamide gel cho thấy có 5
vùng phân giải cơ chất CMC xuất hiện ở vị trí khoảng 25,
27, 37, 45 và 66 kDa (Hình 5). Điều này cho thấy EG ở
T. asperellum SH16 có thể là 5 loại khác nhau với khối
lượng phân tử tương ứng với các vùng phân giải trên.
kDa
97
66

~ 66 kDa

45

~ 45 kDa
~ 37 kDa

30

~ 27 kDa
~ 25 kDa

20,1

M

1

2

Hình 5. Hình ảnh điện di enzyme EG. M: thang chuẩn khối
lượng phân tử protein (Bio-Rad), 1: protein ngoại bào tổng số,
2: băng enzyme trên gel có 0,2% CMC sau khi nhuộm bằng
thuốc nhuộm Lugol.

Hiện nay, chưa có các cơng bố liên quan đến enzyme EG
trên T. asperellum, tuy nhiên, trên các đối tượng khác thuộc
chi Trichoderma, các công bố trước đây cho thấy enzyme
này có rất nhiều loại với khối lượng phân tử khác nhau, ví
dụ cellulase III từ T. viride có khối lượng phân tử là 45 kDa
[16], endoglucanase III từ T. reesei QM 9414 là 48 kDa [13]
và cellulase từ T. viride là 58 kDa [7]. Như vậy, ngoại trừ
cellulase III từ T. viride, các enzyme mà chúng tôi thu được
khác với những enzyme đã được công bố.
4. Kết luận
Endo-β-1.4-glucanase từ chủng SH16 được tiết ra nhiều
nhất sau 4 ngày nuôi cấy trong mơi trường có 1% CMC,
với hoạt độ chung là 102 u/mL và hoạt độ riêng là 2,694
u/mg protein. Enzyme có nhiệt độ và pH hoạt động tối thích
lần lượt là 55oC và 3,5, bền ở nhiệt độ thấp và chỉ hoạt động
ở vùng pH acid. Mn2+ và Co2+ có tác dụng tăng cường mạnh
hoạt động của enzyme trong khi Al3+, Hg2+, SDS và EDTA
ức chế mạnh hoạt động của enzyme này. Trong số 5 nguồn
cơ chất nghiên cứu, bột lõi ngơ là cơ chất thích hợp nhất

cho hoạt động của enzyme này. EG ở T. asperellum SH16
gồm 5 enzyme có khối lượng phân tử khoảng 25, 27, 37,
45 và 66 kDa.
Lời cảm ơn: Đề tài được thực hiện với nguồn kinh phí
của đề tài cấp Đại học Huế (2013-2014).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Baig M. M. V., "Cellulolytic enzymes of Trichoderma lignorum
produced on banana agro-waste: Optimisation of culture medium
and conditions" J. Sci. Ind. Res., 64, 2005, 57-60.
[2] Bradford M. M., "A rapid and sensitive method for the quantitation
of microgram quantities of protein utilizing the principles of proteindye binding" Anal. Biochem., 72, 1976, 248-254.
[3] Tăng Thị Chính, Lý Kim Bảng và Lê Gia Hy, "Nghiên cứu sản xuất
cellulase của một số chủng vi sinh vật ưu nhiệt phân lập từ bể ủ rác
thải", Báo cáo khoa học, Hội nghị Công nghệ Sinh học toàn quốc,
Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1999, 790-797.
[4] Gautam S. P., Bundela P. S., Pandey A. K., Khan J., Awasthi M. K.
and Sarsaiya S., "Optimization for the production of cellulase
enzyme from municipal solidwaste residue by two novel cellulolytic
fungi", Biotechnol. Res. Int., 2011.
[5] Hung N. B., Quang H. T., Ha T. T. T., Thao T. N., Chau T. T. D.
and Loc N. H., "Isolation and characterization of 42 kDa chitinase
from Trichoderma asperellum", Vietnamese J. Biotechnol., 8(3B),
2010, 1651-1657.
[6] Nguyễn Lan Hương và Hồng Đình Hịa, "Hệ vi khuẩn có hoạt tính
thủy phân tinh bột, protein, cellulose hoặc dầu ơ lưu trong q trình
phân hủy chất thải hữu cơ", Báo cáo khoa học, Hội nghị Công nghệ
Sinh học toàn quốc, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2003,
288-291.
[7] Iqbal H. M. N., Ahmed I., Zia M. A. and Irfan M., "Purification and

characterization of the kinetic parameters of cellulase produced from
wheat straw by Trichoderma viride under SSF and its detergent
compatibility", Adv. Biosci. Biotechnol., 2, 2011,149-156.
[8] Hoàng Quốc Khánh, Ngô Đức Duy và Nguyễn Duy Long, "Khả
năng sinh tổng hợp và đặc điểm cellulase của Aspergillus niger
RNNL-363", Báo cáo khoa học, Hội nghị Cơng nghệ Sinh học tồn
quốc, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2003, 304-307.
[9] Trịnh Đình Khả, Quyền Đình Thi và Nguyễn Sỹ Lê Thanh, "Tuyển
chọn và nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường lên khả
năng sinh tổng hợp cellulase của chủng Penicillium sp.DTQ-HK1",
TC Công nghệ Sinh học, 5(3), 2007, 355-362.
[10] Kuhad R. C., Gupta R. and Singh A., "Microbial cellulases and their
industrial
applications",
Enzyme
Res.,
2011,
Doi:10.4061/2011/280696.
[11] Trần Thị Lệ, Trần Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Xuân
Kỳ, "Tuyển chọn chủng nấm Trichoderma spp. phân giải cellulose
mạnh để sản xuất phân hữu cơ vi sinh và nghiên cứu ảnh hưởng của
chúng đối với giống đậu xanh 208 vụ xuân 2011 tại HTX Hương
long, thành phố Huế", Tạp chí Khoa học (Đại học Huế), 71(2), 2012,
203-214.
[12] Li X., Yang H., Roy B., Park E. Y., Jiang L., Wang D. and Miao Y.,
"Enhanced cellulase production of the Trichoderma viride mutated
by microwave and ultraviolet", Microbiol. Res., 165(3), 2009,
190-198.
[13] Macarrón R., Acebal C., Castiilón M. P., Domínguez J. M. and
Manta I. D. L., "Mode of action of endoglucanase III from

Trichoderma reesei", Biochem. J., 289, 1993, 867-873.
[14] Nawaz S., Malana M. A., Ikram N., Hafeez S., Ghori M. I. and Jamil
A., "Kinetic study of carboxymethyl cellulase from Trichoderma
harzianum", Pak. J. Life Soc. Sci., 4(1-2), 2006, 15-19.
[15] Trần Non Nước, Võ Văn Song Toàn, Dương Thị Hương Giang và
Trần Nhân Dũng, "Tuyển chọn và tối ưu hóa vi khuẩn kỵ khí sinh
tổng hợp enzyme cellulase trên cơ chất bột giấy", Tạp chí Khoa học,
Trường ĐH Cần Thơ, 22b, 2012, 43-53.
[16] Okada G., "Enzymatic studies on a cellulase system of Trichoderma
viride", J. Biochem., 80, 1976, 913-922.
[17] Shafaq A., Malana M. A., Ikram N., Ghori M. I. s., Butt K. Y. and
Ahmed S., "Kinetic study of carboxymethylcellulase from
Trichoderma reesei", Pak. J. Life Soc. Sci., 2(1), 2004, 1-4.
[18] Zhekova B., Dobrev G., Dobreva V. and Hadjikinova M.,
"Characterization of enzyme with carboxymethyl cellulase activity
produced by Trichoderma reesei NRRL 3652", Agri. Sci. Tech.,
4(3), 2012, 311-314.

(BBT nhận bài: 19/08/2014, phản biện xong: 23/09/2014)



×