Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Chính sách đầu tư quốc tế của trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.95 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------

BÀI TẬP LỚN MƠN
CHÍNH SÁCH KINH
ĐỐI NGOẠI 2
NHĨM TẾ
8
ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA TRUNG QUỐC

Họ và tên:

Hoàng Thị Tú Uyên – 11185465
Nguyễn Thị Phương Thùy – 11184843
Nguyễn Thu Thủy – 11184885
Nguyễn Thị Nhung – 11183889
Nguyễn Thị Minh Ngọc – 11183688

HÀ NỘI, NĂM 2021
1


Mục lục
I. Tổng quan chung về Trung Quốc....................................................................5
1. Điều kiện tự nhiên-xã hội...............................................................................5
1.1. Đặc điểm địa lý.........................................................................................5
1.2. Hệ thống chính trị.....................................................................................5
1.3. Văn hóa, xã hội.........................................................................................7
2. Đặc điểm chung về kinh tế Trung Quốc.........................................................8
2.1. Đặc điểm chung........................................................................................8
2.2. Trung Quốc thời Covid-19......................................................................11


3. Quan hệ hợp tác của Trung Quốc..................................................................13
II. Chính sách đầu tư quốc tế Trung Quốc......................................................15
1. Thực trạng chính sách...................................................................................15
2. Nội dung các chính sách nổi bật...................................................................17
2.1. Quy định pháp luật về mơi trường đầu tư...............................................17
2.2. Các chính sách ưu đãi thuế.....................................................................17
2.3. Môi trường kinh doanh...........................................................................18
3. Đánh giá thành công và hạn chế trong chính sách đầu tư của Trung Quốc. .19
3.1. Một số thành công...................................................................................19
3.2. Một số điểm hạn chế...............................................................................21
III. Tác động chính sách đầu tư Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam trong việc thu hút đầu tư từ nước ngồi.........................................22
1. Tác động của chính sách đầu tư Trung quốc.................................................22
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thu hút đầu tư từ nước ngoài
...........................................................................................................................27

2


Danh mục chữ viết tắt
STT
1
2

Kí hiệu
GDP
SCO

3
4


WTO
EPC

5

ODA

6

FDI

3

Viết tắt
Gross Domestic Product
Shanghai Cooperation
Ỏganisation
World Trade Organisation
Engineering, Procurement
and Construction
Official Development
Assistance
Foreign Direct Investment

Nghĩa
Tổng sản phẩm quốc nội
Tổ chức Hợp tác Thượng Hải
Tổ chức thương mại thế giới
Hợp đồng tổng thầu

Hỗ trợ phát triển chính thức
Đầu tư trực tiếp nước ngoài


Danh mục hình ảnh
Hình 1: Số lượng dự án và vốn đăng kí mới từ Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn
2007-2017 (Nguồn: Tổng cục thống kê).......................................................................22
Hình 2: Vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn 2014-2019..........................24

4


Mở đầu
Trung Quốc là một trong những nền kinh tế lớn hàng đầu thế giới, trong những năm
gần đây nền kinh tế Trung Quốc đã có những bước nhảy vọt đầy ấn tượng, vượt qua
Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Sự thành công của quốc gia này
hình thành trên cơ sở nhiều nhân tố, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngồi chính là một
nhân tố quan trọng. Năm 2010, vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Trung Quốc đã
tăng chóng mặt lên mức cao kỷ lục, theo thông tin từ Bộ Thương mại Trung Quốc thì
tỷ lệ tăng là 17,4% lên tới mức 105,7 tỷ USD. Từ đó, có thể thấy Trung Quốc đang dần
khẳng định vị trí của mình là một điểm đến đáng tin cậy của các nhà đầu tư nước
ngoài. Trung Quốc hiện sở hữu một nền kinh tế có thực lực hùng hậu, với quyết tâm
thực hiện “Giấc mộng Trung Quốc, phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”, có kinh
nghiệm đối phó với dịch bệnh COVID-19 và đang từng bước khôi phục kinh tế - xã
hội. Đó là những thuận lợi cơ bản giúp đất nước này thực hiện chủ trương, chính sách
khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2020 và những năm tiếp theo sau đại
dịch tồn cầu. Về mơi trường quốc tế, Trung Quốc đang đứng trước ba thử thách lớn:
Một là, dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên thế giới, tác động nghiêm
trọng tới thương mại và đầu tư của Trung Quốc; hai là, cuộc chiến thương mại Mỹ Trung Quốc có hậu quả khó lường; ba là, tình hình an ninh khu vực bất ổn do các hoạt
động quân sự của Trung Quốc và Mỹ diễn ra trên Biển Đông và các vùng biển khác

dọc bờ Tây Thái Bình Dương. Vì vậy, triển vọng của công cuộc khôi phục và phát triển
kinh tế - xã hội của Trung Quốc trong thời gian tới vẫn là vấn đề chưa thể dự đốn một
cách chính xác trong bối cảnh hiện nay.

5


I. Tổng quan chung về Trung Quốc
1. Điều kiện tự nhiên-xã hội
1.1. Đặc điểm địa lý
Trung Quốc có tên chính thức là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, là một quốc gia có
chủ quyền thuộc khu vực Đơng Á. Đây là quốc gia đông dân nhất trên thế giới với dân
số ước tính đạt khoảng 1,405 tỷ người.
Với diện tích 9.596.961 km², Trung Quốc là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ 4 trên
thế giới sau Nga, Canada, Hoa Kỳ. Trung Quốc có tổng chiều dài đường biên giới trên
bộ lớn nhất thế giới, với 22.117 km (13.743 dặm) từ cửa sông Áp Lục đến vịnh Bắc
Bộ. Trung Quốc có biên giới với 14 quốc gia khác, giữ vị trí số một thế giới cùng với
Nga. Trung Quốc bao gồm phần lớn khu vực Đông Á, giáp với Việt Nam, Lào,
Myanmar, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyzstan,
Kazakhstan, Nga, Mơng Cổ, và Triều Tiên. Ngồi ra, Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines
cũng lân cận với Trung Quốc qua biển.
Cảnh quan đa dạng thay đổi từ những thảo nguyên rừng cùng các sa mạc Gobi và
Taklamakan ở phía bắc khơ hạn đến các khu rừng cận nhiệt đới ở phía nam có mưa
nhiều hơn. Các dãy núi Himalaya, Karakoram, Pamir và Thiên Sơn là ranh giới tự
nhiên của Trung Quốc với Nam và Trung Á. Trường Giang và Hoàng Hà lần lượt là
sông dài thứ 3 và thứ 6 trên thế giới, hai sông này bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng
và chảy hướng về vùng bờ biển phía đơng - nơi có dân cư đơng đúc hơn. Đường bờ
biển của Trung Quốc trải dọc theo Thái Bình Dương và dài 14.500 km, giáp với các
biển: Bột Hải, Hoàng Hải, Hoa Đơng và biển Đơng.
Trung Quốc có khi hậu khơ và gió mùa ẩm. Mùa Đơng và mùa Hạ có sự khác biệt khá

lớn giữa các vùng miền khác nhau. Nhìn chung, khí hậuvẫn phân thành 4 mùa riêng
biệt xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ trung bình vào hè dao động khoảng 23-28 độ, mùa
đông khoảng -1 – 5 độ và thường có tuyết rơi.

1.2. Hệ thống chính trị
Thể chế nhà nước: Theo thể chế Cộng hoà dân chủ Nhân dân, chế độ một viện (từ năm
1949). Hiến pháp hiện hành được ban hành ngày 14 tháng 12 năm 1982 và sửa đổi năm
1998.
Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền thống trị quốc gia, quyền lực của đảng này
được ghi trong hiến pháp của Trung Quốc. Hệ thống tuyển cử của Trung Quốc có phân
cấp, theo đó các đại hội đại biểu nhân dân địa phương (cấp hương và cấp huyện) được
6


tuyển cử trực tiếp, và toàn bộ các cấp đại hội đại biểu nhân dân từ cấp cao hơn cho đến
toàn quốc được tuyển cử gián tiếp bởi đại hội đại biểu nhân dân ở cấp dưới. Hệ thống
chính trị được phân quyền, và các lãnh đạo cấp tỉnh và phó tỉnh có quyền tự trị đáng
kể. Tại Trung Quốc cịn có các chính đảng khác, được gọi là 'đảng phái dân chủ', những
tổ chức này tham gia Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Nhân đại) và Hội nghị Hiệp
thương chính trị nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp).
Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là nguyên thủ quốc gia của Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. Chức vụ này đã được lập ra theo bản Hiến pháp năm 1954.
Trước đó, từ ngày thành lập nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa (1949-1954) chỉ có
chức Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Trung ương. Từ năm 1975 khơng có chức vụ Chủ
tịch nước mà vai trò đại diện quốc gia được chuyển sang cho Ủy viên trưởng Ủy ban
Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc. Hiến pháp năm 1982 lập lại chức vụ
chủ tịch nước. Về mặt chính thức, chủ tịch nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa do Đại
hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (gọi tắt là Nhân đại toàn quốc) bầu ra theo quy định
của điều 62 của Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trên thực tế, việc bầu cử
này thực chất là bầu cử 'một ứng cử viên'. Ứng cử viên cho chức vụ này được Đoàn

chủ tịch Hội nghị Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc giới thiệu. Thủ tướng Trung
Quốc là nhân vật lãnh đạo chính phủ, chủ trì Quốc vụ viện gồm bốn phó thủ tướng
cùng người đứng đầu các bộ và ủy ban cấp bộ. Tổng bí thư, Chủ tịch nước đương
nhiệm là Tập Cận Bình, ông cũng là Chủ tịch Quân ủy Trung Quốc. Thủ tướng đương
nhiệm là Lý Khắc Cường, ông cũng là một thành viên cấp cao của Ban Thường vụ Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, một cơ cấu quyết định hàng đầu của Trung Quốc
trong thực tế.
Trung Quốc là quốc gia đơn đảng do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền, chính
phủ trung ương đặt tại thủ đơ Bắc Kinh. Chính phủ Trung Quốc thi hành quyền tài
phán tại 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc và 2 đặc khu hành chính là Hồng Kơng
và Ma Cao. Chính phủ Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền đối với tất các vùng lãnh
thổ nằm dưới sự quản lý của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), đơn phương tuyên bố
hòn đảo là tỉnh thứ 23 của mình (mặc dù khơng kiểm sốt trên thực tế), chính sách này
hiện đang gây ra nhiều tranh cãi do tính chất sự phức tạp của nó đồng thời là tác nhân
của vị thế địa - chính trị Đài Loan. Tại 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh tại Trung Quốc
đại lục, người đứng đầu vị trí thứ nhất là Bí thư Tỉnh ủy, lãnh đạo phương hướng, vị trí
thứ hai là Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân (tương ứng có Thị trưởng Thành phố, Chủ
tịch Khu tự trị), quản lý hành chính. Người đứng đầu hai đặc khu hành chính là Đặc
khu trưởng, tương ứng với Tỉnh trưởng.

7


1.3. Văn hóa, xã hội
Trung Quốc chính thức cơng nhận 56 dân tộc riêng biệt, dân tộc đông nhất là người
Hán, chiếm khoảng 91,51% tổng dân số, hầu hết các dân tộc tập trung tại khu vực Tây
Bắc, Bắc, Đông Bắc, Nam, Tây Nam và một số sinh sống trên khắp đất nước. Các dân
tộc thiểu số chiếm khoảng 8,49% tổng dân số Trung Quốc. Cùng với đó là 5 tôn giáo:
Phật giáo (chiếm 15,87%), Đạo giáo, Hồi giáo, Tin lành và Công giáo.
Người Trung Quốc rất chú trọng đến những điều kiêng kỵ khi cất nhà, mở cơ sở buôn

bán, dựng vợ gả chồng cho con cái… Đặc biệt là việc cất nhà được xem xét rất chu
đáo, kỹ lưỡng. Đối với những dân tộc Á Đông, căn nhà là nơi lưu trú quan trọng nhất
của đời người, liên quan đến vận mệnh của những thành viên trong gia đình cùng việc
thành bại của công ăn việc làm, buôn bán, đau yếu, bệnh tật – thì người Hoa càng cẩn
trọng đến từng chi tiết trong việc cất nhà.
Trung Quốc có tới hàng trăm ngơn ngữ khác nhau. Ngơn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu
chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm
ngôn ngữ liên quan, được gọi chung là Hán ngữ, với số người nói chiếm tới 92% dân
số.
Nghệ thuật truyền thống đặc sắc nhất của Trung Quốc nhất định không thể khơng tìm
hiểu đó là Kinh Kịch – một trong 5 thể loại ca kịch đầu tiên của Trung Quốc, được
cường điệu hoá từ điệu Tây Bì cùng với làn điệu Nhị Hoàng, kết hợp với tiết tấu và sự
cộng hưởng giữa các loại nhạc cụ như trống, đàn nhị.
Ẩm thực Trung Quốc rất đa dạng, có nền tảng là lịch sử ẩm thực kéo dài hàng thiên
niên kỷ. Ẩm thực không những thể hiện trong phong cách đa dạng mà còn mang nhiều
triết lý nghệ thuật và tập quán ăn uống độc đáo. Sự rộng lớn của đất nước Trung Quốc
tạo nên sự khác biệt rõ ràng trong văn hóa ẩm thực.
Du lịch Trung Quốc ngày nay thì phát triển nhanh và rất coi trọng vai trò của du lịch
thông minh, nghĩa là kết hợp giữa du lịch với công nghệ hiện đại, thông tin di động, dữ
liệu lớn, điện tốn đám mây, trí tuệ nhân tạo và thực tế ảo, lấy sự trải nghiệm của du
khách làm trung tâm, triển khai bố trí tối ưu hóa tài ngun du lịch. Các địa điểm du
lịch nổi tiếng: Vạn Lí Trường Thành, Tử Cấm Thành, Bến Thượng Hải, Phượng Hoàng
Cổ Trân, …

8


2. Đặc điểm chung về kinh tế Trung Quốc
2.1. Đặc điểm chung
Kinh tế Trung Quốc đại lục là một nền kinh tế thị trường cơng nghiệp mới đang phát

triển, có quy mô lớn thứ hai trên thế giới (sau Hoa Kỳ) nếu tính theo tổng sản phẩm
quốc nội (GDP danh nghĩa) và đứng thứ nhất nếu tính theo GDP sức mua tương đương
(PPP). GDP Trung Quốc năm 2019 là 14.360 nghìn tỷ USD. GDP bình quân đầu người
danh nghĩa năm 2019 là 10.099 USD (18,110 USD nếu tính theo sức mua tương đương
(PPP)), ở mức trung bình cao so với các nền kinh tế khác trên thế giới (xếp thứ 79 trên
thế giới vào năm 2019). Trong những năm gần đây, GDP bình quân đầu người của
Trung Quốc tăng lên nhanh chóng nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức cao.
Thu nhập bình quân khả dụng đầu người năm 2020 ước tính 32.189 NDT (4.966 USD),
gấp đơi so với con số năm 2010.
Trung Quốc nằm trong số các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, dựa ở
mức độ lớn vào tăng trưởng do đầu tư và xuất khẩu. Trong gần 30 năm từ năm 1978,
GDP của Trung Quốc đã tăng 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng hơn 20 lần; kim ngạch
thương mại tăng hơn 100 lần. Vào năm 1992, Trung Quốc vẫn còn xếp thứ 133 thế giới
về GDP bình quân đầu người, với hơn một nửa dân số sống dưới mức 2 USD/ngày,
nhưng dự kiến tới năm 2022, Trung Quốc sẽ tăng 69 bậc (lên hạng 64 thế giới) trong
xếp hạng về GDP bình quân đầu người, và chỉ còn chưa đầy 2% dân số Trung Quốc
sống dưới chuẩn nghèo của thế giới.
Một báo cáo được công bố tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
cũng cho thấy, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành quốc gia thu hút FDI lớn nhất thế giới
trong năm 2020, với 163 tỷ USD vốn FDI, tăng mạnh từ mức 140 tỷ USD năm 2019.
Đầu tư tài sản cố định năm 2020 tăng 2,9% lên 51,89 nghìn tỷ NDT.
Kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc đã phát triển thành một
nền kinh tế có mức độ đa dạng hóa cao và là một trong những nước đóng vai trị quan
trọng nhất trong thương mại quốc tế. Các lĩnh vực chính của nền kinh tế Trung Quốc
có sức mạnh cạnh tranh bao gồm sản xuất, bán lẻ, khai khống, thép, dệt may, ơ tơ,
năng lượng, năng lượng xanh, ngân hàng, điện tử, viễn thông, bất động sản, thương
mại điện tử và du lịch. Trung Quốc có ba trong số mười sàn giao dịch chứng khoán lớn
nhất trên thế giới gồm Thượng Hải, Hồng Kông và Thâm Quyến— ba sàn này có tổng
giá trị vốn hóa thị trường hơn 15,9 nghìn tỷ đơ la, tính đến tháng 10 năm 2020. Trung
Quốc có bốn trong số mười trung tâm tài chính cạnh tranh nhất thế giới (Thượng Hải,

Hồng Kơng, Bắc Kinh và Thâm Quyến), nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trong Chỉ
số Trung tâm Tài chính Tồn cầu năm 2020. Đến năm 2035, bốn thành phố của Trung
Quốc (Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu và Thâm Quyến) dự kiến sẽ nằm trong số
9


mười thành phố lớn nhất tồn cầu tính theo GDP danh nghĩa theo một báo cáo của
Oxford Economics.
Các giai đoạn cải cách, mở cửa của Trung Quốc
Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”,
chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây
dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”,
“phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nơng thơn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm
quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa, xây
dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế
(SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và
“cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngồi nước. SEZs của Trung Quốc đã
đạt được thành cơng bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những
năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt
trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế (1979 - 1991),
Trung Quốc đã tìm tịi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa
chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.
Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992 - 2002)
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to lớn
và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở các
nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến hành
điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.
Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Vấn

đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (họ
Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến). Trước
tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh luận, tiến
hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, có lợi cho
đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn và lấy thực
tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992) nêu mục
tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa. Đây được
coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc qụan trọng trong tiến trình cải cách,
mở cửa ở Trung Quốc.

10


Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa
XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ cơng hữu làm chủ thể, nhiều
thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập, lấy
phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới cơng bằng, khuyến
khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu có”(1). Đại
hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (2002 2012), cải cách theo chiều sâu
Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này
đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI (năm
2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào
đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa,
thúc đẩy phát triển tồn diện hài hịa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng
Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh
tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hố và xã
hội.

Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa toàn
phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu Giang với
nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất của Trung
Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây dựng 4 đặc
khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Mơn). Tiếp đó, từ năm 1984, Trung Quốc
tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990, Trung
Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết nối các điểm
tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố Đông
(Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc. Ngày 66-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở cửa
phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa Thiên Tân vươn
lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các điểm tăng trưởng
xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đơ - Trùng Khánh (Xun Du), Khu
kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến) cũng phấn đấu trở
thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc
đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết tâm
của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa
Trung Quốc và ASEAN.
11


Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay)
Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XVIII thơng qua Nghị quyết về cải cách tồn diện và sâu rộng, thực hiện “giấc
mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập Cận Bình
với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương lĩnh,
đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát triển “5
trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, mơi trường) và bố cục chiến lược “Bốn
toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in China
2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và động
lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp chiến

lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.
Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã được
Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với
Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm 2018.
Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục tiêu trở
thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI

2.2. Trung Quốc thời Covid-19
Cuối năm 2019, Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tiên phát hiện chủng mới của virus
corona. Loại virus này nhanh chóng lan rộng khắp thế giới và trở thành đại dịch toàn
cầu vào đầu năm 2020. Ở Trung Quốc các hoạt động kinh tế ở thời điểm đó hầu hết đều
rơi vào tê liệt, khiến tốc độ tăng trưởng rơi xuống dưới ngưỡng 0. Nền kinh tế tồn cầu
hứng chịu cuộc suy thối tồi tệ nhất từ thập niên 1930, trong đó kinh tế Trung Quốc sụt
6,8% trong quý 1/2020. Tuy nhiên, sang đến q II, tình hình dịch bệnh đã được kiểm
sốt, chính vì vậy mà nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu lại có sự tăng trưởng vs 3,2%. Số
liệu do Tổng cục Thống kê Trung Quốc công bố mới đây cho thấy nền kinh tế nước
này tăng 6,5% trong quý 4/2020, một mức tăng vượt xa dự báo trước đó của giới phân
tích.
Đại dịch Covid-19 và thương chiến Mỹ-Trung dường như không cản được bước tiến
của kinh tế Trung Quốc trong tương quan so sánh với thế giới. Theo số liệu của
Moody’s Analytics, Trung Quốc chiếm tỷ trọng khoảng 16,8% trong GDP tồn cầu
năm 2020 sau khi tính đến yếu tố lạm phát, tăng từ mức 14,2% vào năm 2016 - thời
điểm trước khi thương chiến bùng nổ. Trong khi đó, tỷ trọng của kinh tế Mỹ được dự
báo đạt 22,2%, giảm nhẹ so với mức 22,3% vào năm 2016. Đầu tư, tiêu dùng và xuất
khẩu là “cỗ xe tam mã” đã kéo nền kinh tế Trung Quốc vượt qua khủng hoảng và tạo
đà giúp tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước này đạt mốc kỷ lục 32,16 nghìn
tỷ nhân dân tệ, quy mô thương mại quốc tế.
12



Để giảm nhẹ tác động của cú sốc COVID-19, Chính phủ Trung Quốc đã triển khai một
loạt biện pháp, bao gồm tăng chi tiêu tài chính, giảm thuế, cắt giảm lãi suất cho vay và
yêu cầu mức dự trữ tại các ngân hàng để ổn định tăng trưởng cũng như việc làm cho
người dân. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 trong nước đang từng bước được kiểm
soát, nhịp sống tại Trung Quốc đang dần trở lại bình thường, khi các nhà máy, trường
học, các địa điểm du lịch… được mở cửa trở lại.
Số liệu thống kê do NBS công bố cũng cho thấy, trong năm 2020, thị trường lao động
của Trung Quốc tiếp tục duy trì ổn định. Tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực thành thị là
5,6%, thấp hơn mục tiêu chính phủ đề ra (khoảng 6%). Tuy nhiên, NBS vẫn khuyến
cáo Trung Quốc cần tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết để củng cố các nỗ lực
kiểm soát dịch bệnh và phát triển kinh tế.
Cùng với đó, sản lượng cơng nghiệp giá trị gia tăng năm 2020 - một chỉ số kinh tế quan
trọng - cũng tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Các hoạt động đầu tư tài sản cố định
đã chứng kiến sự phục hồi bền vững, với mức tăng 2,9% trong năm 2020, trong đó, đầu
tư cho lĩnh vực cơng nghiệp cơng nghệ cao, chăm sóc y tế và giáo dục tăng nhanh hơn
mức trung bình.
Ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc ở khu vực châu Á và trên toàn cầu cũng ngày càng
lớn. Dù bị Mỹ áp thuế lên hàng trăm tỷ USD, Trung Quốc vào tháng 11/2020 vừa qua
đã ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), thỏa thuận thương mại lớn
nhất thế giới, với 14 quốc trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Tiếp
đó, vào tháng 12, Trung Quốc đạt thỏa thuận đầu tư với Liên minh châu Âu (EU).
Marco Sun, nhà phân tích thị trường tài chính của Ngân hàng MUFG ở Thượng Hải,
Trung Quốc nhận định hoạt động kinh tế nước này trong quý I/2021 khởi động tốt, đặc
biệt là trong mảng bán lẻ, hiện là ngành chống lưng cho quá trình phục hồi kinh tế tại
Trung Quốc. Theo chuyên gia này, trọng tâm trong thời gian tới của Trung Quốc sẽ là
làm sao duy trì đà tăng trưởng và quản lý rủi ro tài chính. Về vấn đề quản lý rủi ro tài
chính, chuyên gia của ngân hàng Thượng Hải cho rằng Bắc Kinh có thể sẽ siết chặt
định lượng thơng qua hướng dẫn về tăng trưởng tín dụng trong quý II/2021 và có thể là
trong thời gian tiếp sau đó.
Chính phủ Trung Quốc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6% trong năm 2021. Tuy nhiên

giới chuyên gia dự báo nền kinh tế thứ 2 thế giới có thể tăng trưởng khoảng 8,6%.
Trong năm 2020, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 2,3%, mức thấp nhất trong 44 năm.
Tuy nhiên Trung Quốc là nền kinh tế lớn duy nhất tránh được tăng trưởng âm trong
năm này nhờ hoạt động sản xuất công nghiệp trở lại mạnh mẽ và hoạt động xuất khẩu
13


tốt hơn dự kiến trong bối cảnh các thị trường khác trên thế giới hầu như tê liệt vì đại
dịch COVID-19.

3. Quan hệ hợp tác của Trung Quốc
Trung Quốc là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, nắm giữ các vị trí chủ chốt như là
thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Tính đến tháng 9 năm
2019, Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa có quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia. Chính
sách đối ngoại của Trung Quốc ngày nay được tóm tắt là quan hệ chiến lược với các
nước láng giềng và các siêu cường của thế giới nhằm phấn đấu vì lợi ích quốc gia của
Trung Quốc, và tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển trong nước của Trung
Quốc để cạnh tranh lâu dài trên thế giới trong dài hạn
Trung Quốc đã và đang chủ trương xây dựng một kiểu quan hệ quốc tế mới được củng
cố bằng sự hợp tác đơi bên cùng có lợi, và theo đuổi quan hệ đối tác dưới các hình thức
khác nhau với các nước đang phát triển láng giềng trong tinh thần bình đẳng và các bên
cùng có lợi.
Kể từ đầu thế kỷ 21, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ đối tác dưới nhiều hình thức khác
nhau với các nước đang phát triển láng giềng. Trung Quốc nâng cấp quan hệ với
Pakistan lên thành chiến lược trong mọi mặt trận hợp tác hợp tác năm 2015; nó đã thiết
lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc (2008), Việt Nam
(2008), Lào (2009), Campuchia (2010), Myanmar (2011) và Thái Lan (2012); Trung
Quốc cũng xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Ấn Độ vào năm 2005 và
với Afghanistan vào năm 2012 và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với
Malaysia (2013) và Indonesia (2015); nó quản lý để xây dựng chiến lược quan hệ đối

tác với Uzbekistan năm 2013 và với Tajikistan năm 2013. Ngoài ra, Trung Quốc và
ASEAN đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng vào năm
2003.
Trung Quốc đã cải thiện quan hệ với Nga. Vladimir Putin và Giang Trạch Dân , phần
lớn là để làm đối trọng với Mỹ , đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác vào tháng 7 năm
2001. Hai người cũng tham gia với các nước Trung Á như Kazakhstan , Kyrgyzstan ,
Tajikistan và Uzbekistan để thành lập Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) vào tháng 6
năm 2001. SCO được thiết kế để thúc đẩy sự ổn định của khu vực và hợp tác chống
khủng bố trong khu vực. Nga và Trung Quốc có cùng chí hướng. Các lợi ích và chương
trình nghị sự của hai nước này thường phù hợp: cả hai cùng có mục tiêu thách thức vị
trí bá chủ của Mỹ.
Quan hệ với Ấn Độ cũng được cải thiện đáng kể. Sau nhiều năm cạnh tranh, sự ngờ
vực chung giữa hai bên (chủ yếu là về mối quan hệ thân thiết của Trung Quốc với
14


Pakistan và của Ấn Độ với Liên Xô cũ ) và một cuộc chiến tranh biên giới, trong thế kỷ
21 quan hệ giữa hai quốc gia đông dân nhất thế giới chưa bao giờ hài hòa hơn, như họ
đã bắt đầu hợp tác trong một số lĩnh vực kinh tế và chiến lược. Cả hai nước đã tăng gấp
đôi thương mại kinh tế trong vài năm qua, và Trung Quốc trở thành đối tác thương mại
lớn nhất của Ấn Độ vào năm 2010. Hai nước đã có kế hoạch tổ chức các cuộc tập trận
hải quân chung. Năm 2003, Trung Quốc và Ấn Độ tổ chức đàm phán lần đầu tiên kể từ
Chiến tranh Trung-Ấn năm 1962 về một tranh chấp biên giới lớn: tuy nhiên, tranh chấp
về Aksai Chin(trước đây là một phần của bang Jammu và Kashmir thuộc Ấn Độ ) và
Nam Tây Tạng (Trung Quốc) hay Arunachal Pradesh (Ấn Độ) không được định cư và
gây trở ngại cho mối quan hệ Trung-Ấn.
Theo các khuôn khổ như “10 +1”, “10 + 3”, “10 + 6 (ASEAN cộng Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand và Ấn Độ) ”và APEC, Trung Quốc đã duy trì mối
quan hệ hợp tác tốt đẹp với khu vực các nước trong việc xây dựng mạng lưới thương
mại tự do và thúc đẩy hội nhập kinh tế. Theo khuôn khổ của SCO và CICA, Trung

Quốc đã tích cực tham gia vào các cuộc đối thoại với các quốc gia thành viên khác để
bảo vệ an ninh chung.
Việc mở rộng mạng lưới quan hệ đối tác của Trung Quốc như vậy là bằng chứng rõ
ràng về sự sẵn sàng tăng cường hợp tác với các nước láng giềng ngược lại, các nước
đang phát triển sẽ có lợi cho việc tăng cường sự tin cậy chính trị lẫn nhau. Điều làm
cho quan hệ đối tác như vậy khác với quân sự liên minh là họ khơng có bất kỳ kẻ thù
giả định nào hoặc nhắm mục tiêu vào bất kỳ bên thứ ba.
Để làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác thực dụng của mình, Trung Quốc và các nước
láng giềng đã đã tiến hành các dự án chung trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như đường
cao tốc đầu tiên của Mông Cổ, Đường cao tốc Châu Á 3 (R3A) nối Trung Quốc với
Lào và Thái Lan, Khu hợp tác kinh tế Mohan-Boten, Trung Quốc-Lào Đường sắt, lưới
điện 230 KV phía bắc của Lào và đường ống Trung Quốc-Myanmar do Trung Quốc,
Myanmar, Ấn Độ và Hàn Quốc cùng xây dựng. Nhờ sự “Chương trình Thu hoạch
Sớm”, việc xây dựng ASEAN-Trung Quốc tự do Khu Thương mại đang tiến triển
thuận lợi. Thật vậy, hầu hết các dự án chung đều có tạo ra kết quả đơi bên cùng có lợi
và củng cố mối quan hệ giữa Trung Quốc và người hàng xóm.
Ngồi ra, Trung Quốc cũng có các tranh chấp biên giới và hàng hải, bao gồm cả với
Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ và với Nhật Bản. Bắc Kinh đã giải quyết nhiều tranh chấp
này. Đáng chú ý là vào ngày 21 tháng 7 năm 2008, Nga cuối cùng đã giải quyết tranh
chấp biên giới cuối cùng cịn sót lại dọc theo 4300 km biên giới giữa hai nước bằng
cách nhượng một phần nhỏ lãnh thổ cho Trung Quốc. Trung Quốc cũng đạt được thỏa
15


thuận năm 2000 với Việt Nam để giải quyết một số khác biệt về biên giới biển của họ,
mặc dù vẫn còn bất đồng về một số đảo ở Biển Đơng .

II. Chính sách đầu tư quốc tế Trung Quốc
1. Thực trạng chính sách
1.1. Giai đoạn 1979 – 1986: Giai đoạn thử nghiệm với các khoản đầu tư quy mô nhỏ

Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là những Hoa kiều từ Hongkong, Ma Cao,
Đài Loan với quy mô nhỏ. Hoạt động kinh doanh cũng chủ yếu là gia công, lắp đặt các
linh kiện và phụ tùng nhập khẩu, chế biến thương mại, chuyển giao công nghệ và kỹ
năng. Trong suốt thời kỳ này, cũng chỉ có 992 dự án đầu tư nước ngoài được phê chuẩn
với tổng giá trị hợp đồng và giá trị cam kết tương ứng là 6 tỷ và 1,166 tỷ USD. Từ năm
1979 -1990, nguồn vốn thực nhận được từ các khoản vay nước ngoài cao hơn nhiều so
với đầu tư trực tiếp. Trong giai đoạn này, Chính phủ TQ sử dụng nguồn vốn vay nước
ngoài để cải thiện cơ sở hạ tầng như phát triển mạng lưới giao thông vận tải, thông tin,
cấp điện, cấp nước....
Tháng 4/1984, Trung Quốc công bố Quy định về các Xí nghiệp hợp tác Trung Quốc nước ngồi các cấp chính quyền địa phương lại đưa ra nhiều các biện pháp ưu đãi đối
với đầu tư nước ngoài. Kết quả là số các dự án FDI vào Trung Quốc tăng rất nhanh qua
từng năm. Năm 1984 số Xí nghiệp dùng vốn nước ngồi mới tăng lên 1857, gấp hơn 2
lần mức năm 1983. Năm 1985, mức tăng số Xí nghiệp mới đạt 65% (3.073). Khối
lượng vốn đầu tư cam kết trong các năm 1984 và 1985 tăng 53% và 120% so với các
năm trước.
Tuy vậy, trong giai đoạn này các nhà đầu tư mang vốn vào Trung Quốc với số lượng ít
và mang tính chất chỉ là thăm dị thị trường mới, đây cũng có thể coi là giai đoạn cải
thiện môi trường đầu tư cho doanh nghiệp nước ngoài.
1.2. Giai đoạn 1986 – 1991: Giai đoạn tăng trưởng và ổn định
Từ năm 1986 đến năm 1988, sau khi đạt được những kết quả đáng chú ý trong thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các năm 1984 và 1985, đây là thời gian Trung Quốc
cần ổn định lượng FDI mới, xem xét việc sử dụng hiệu quả FDI cũ và cũng để đánh giá
tổng kết kinh nghiệm, hồn thiện hơn nữa mơi trường đầu tư.
Ngày 12/4/1986, Quốc hội Trung Quốc thông qua Luật các công trình dùng vốn nước
ngoài của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đồng thời Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra
các quy định tạm thời của Hội đồng Nhà nước về khuyến khích đầu tư nước ngồi vào
tháng 10 năm 1986.
16



Tháng 4/1990, sau khi tổng kết kinh nghiệm 10 năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Trung Quốc đã sửa đổi luật Liên doanh Trung Quốc nước ngoài của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công bố năm 1979, đồng thời cụ thể
Luật thành cá điều khoản như: không thực hiện quốc hữu hố các Xí nghiệp có vốn
nước ngồi, giới hạn thời gian thực hiện hợp đồng, bổ nhiệm chủ tịch Hội đồng quản
trị, miễn giảm thuế...
Tháng 5/1990, Chính phủ Trung Quốc lại cơng bố quy định về khuyến khích đầu tư
của người Hoa và Hoa kiều yêu nước ở Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan và đến tháng
9 năm đã phê chuẩn quy định về khuyến khích đầu tư nước ngoài và miễn thuế thu
nhập và thuế kinh doanh cho các xí nghiệp dùng vốn nước ngồi ở Khu mới Phố Đông
Thượng Hải. Tất cả các biện pháp này đã cho thế giới thấy lập trường của Trung Quốc
rất kiên định trong thực hiện các chính sách mở cửa kinh tế và bảo vệ quyền lợi pháp lý
cũng như lợi ích của các nhà ĐTNN, đặc biệt đối với người Hoa và Hoa Kiều.
Nhờ đó, lượng vốn FDI và Trung Quốc thực sự nhận được đã nhảy vọt, với 12.000 dự
án đầu tư mới phê chuẩn, tăng 65% so với năm 1990, các mức đầu tư cam kết và thực
tế tương ứng đạt 12 tỷ USD (tăng 82%) và 4,37% tỷ USD (tăng 25%).
1.3. Giai đoạn 1992 – nay: Giai đoạn điều chỉnh tiến tới phù hợp, hiệu quả
Bước vào thập kỷ 90, đặc biệt là từ năm 1992, vốn ĐTNN vào Trung Quốc tăng rất
nhanh. Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển
và trong top đầu thế giới về thu hút FDI, năm 2002 còn vượt qua cả Mỹ với 52, 7 tỷ
USD. Hiện nay Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về thu hút FDI trên thế giới.
Năm 2002, là năm đầu tiên Trung Quốc gia nhập WTO, sự kiện này đã tác động mạnh
đến luồng vốn FDI vào Trung Quốc, các hướng dẫn mới tập trung thu hút đầu tư vào
các lĩnh vực công nghệ cao phục vụ nông nghiệp, vận tải, năng lượng, vật liệu mới, bảo
vệ môi trường. Từ năm 2002 - 2010, các nhà đầu tư vào những lĩnh vực được khuyến
khích sẽ được hưởng mức thu thuế doanh nghiệp là 15%. Bên cạnh đó, Trung Quốc
cịn thiết lập thị trường, hạ thấp thuế quan - đây là những nhân tố khiến đầu tư nước
ngoài vào Trung Quốc tăng mạnh. Hầu hết các quốc gia đầu tư nước ngoài đã chuyển
vốn và cơ sở sản xuất sang Trung Quốc. Tính đến tháng 09/2002, Trung Quốc đã phê
chuẩn hơn 414000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, với tổng số vốn theo hợp
đồng là 813,66 tỷ USD vượt qua Mỹ và trở thành nước đứng đầu thế giới về thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2002.
Lượng vốn FDI chảy vào Trung Quốc vẫn duy trì tốc độ phát triển ổn định, theo Bộ
Thương mại Trung Quốc thơng báo trong năm 2018 có 54.700 cơng ty do nước ngoài
đầu tư mới được thành lập ở Trung Quốc, tăng 77.5% so với năm 2017. Lượng vốn đầu
17


tư đặc biệt tăng mạnh trong các lĩnh vực sản xuất thiết bị y tế và dụng cụ chính xác
(tăng hơn 132%), máy tính và thiết bị văn phịng (tăng gần 113%), điện tử và viễn
thông (tăng trên 36)%.Các nhà đầu tư chính vào Trung Quốc trong thời gian qua là Hàn
Quốc (tăng gần 39%), Nhật Bản (hơn 20%), Đức (trên 30%) và Singapore (hơn 7%).
Trong khi đó, vốn đầu tư từ Anh và Trung Quốc là tăng mạnh nhất, tới gần
199%.Ngồi ra, dịng vốn đầu tư từ các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) tăng xấp xỉ 15%, từ Liên minh châu âu (EU) tăng trên 16%.

2. Nội dung các chính sách nổi bật
2.1. Quy định pháp luật về môi trường đầu tư
Cải thiện hơn nữa mơi trường đầu tư, hồn thiện các quy định pháp luật đối với các nhà
đầu tư nước ngoài
Cùng với việc nâng cao trình độ phát triển kinh tế và xây dựng hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường, các biện pháp thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc chuyển dần từ dựa
vào chính sách ưu đãi thuế sang dựa vào môi trường đầu tư và thị trường mở cửa.
Trung Quốc đề ra một số quy định pháp luật khuyến khích nhà đầu tư nước ngồi: bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của các DN có thương nhân nước ngoài đầu tư, nghiêm khắc xử
lý việc kiểm tra lung tung, thu phí bừa bãi, bảo vệ tính nghiêm túc của pháp luật, tăng
cường lòng tin của các thương nhân nước ngoài đến Trung Quốc đầu tư. Sau khi gia
nhập WTO, ngoài việc sửa đổi các luật kinh tế liên quan đến bên ngoài, Trung Quốc đã
tiến hành bổ sung và hoàn thiện Luật chống lũng đoạn, Luật chống cạnh tranh khơng
chính đáng, tạo ra mơi trường cạnh tranh cơng bằng cho các doanh nghiệp nước ngồi.


2.2. Các chính sách ưu đãi thuế
a, Ưu đãi với kỳ hạn doanh nghiệp: Trong thời kỳ đầu mở cửa, các cơ sở mới thành lập
với thời gian liên doanh hơn 10 năm được hưởng chế độ miễn thuế thu nhập trong một
năm đầu làm lãi và được giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo. Về sau, thời
gian miễn thuế và giảm thuế tăng lên tương ứng là 2 và 3 năm.
b, Ưu đãi đối với khu vực tư nhân: Khi thực hiện chiến lược mở cửa khu vực, Trung
Quốc đã đưa ra những ưu đãi nhằm thu hút FDI vào các khu vực. Theo đó, các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài xây dựng ở đặc khu kinh tế và các doanh nghiệp nước ngồi
mang tính chất sản xuất xây dựng ở khu khai thác phát triển kỹ thuật tại 14 thành phố
ven biển do Quốc vụ viện phê chuẩn được giảm thuế thu nhập 15% theo tỷ lệ thuế. Ưu
đãi còn dành cho đầu tư ở khu phố cũ thuộc các thành phố ven biển, đặc khu kinh tế,
khu khai phát, theo đó, những doanh nghiệp đầu tư nước ngồi mang tính sản xuất có
thể được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp tới 24%. Ngồi ra, các xí nghiệp sản xuất
18


phục vụ xuất khẩu ở các đặc khu kinh tế, khi nhập khẩu vật tư được miễn thuế hải quan
từ 5- 25%.
c, Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư:
Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư thông thường: Người đầu tư nước ngoài dùng số
lợi nhuận thu được của xí nghiệp để tái đầu tư trực tiếp cho xí nghiệp đó, hoặc đầu tư
xây dựng cho doanh nghiệp khác, nếu là hạn kinh doanh không dưới 5 năm thì được trả
lại 40% thuế thu nhập đã nộp đối với phần tái đầu tư.
Đãi ngộ danh cho hành vi tái đầu tư đặc biệt: Các nhà đầu tư tái đầu tư xây dựng ở một
số lĩnh vực đặc biệt như mở rộng xí nghiệp có kỹ thuật tiên tiến, mở rộng xí nghiệp
xuất khẩu sản phẩm hoặc đầu tư cho các hạng mục xây dựng cơ bản và mở mang nông
nghiệp trong đặc khu kinh tế Hải Nam thì được trả lại toàn bộ thuế thu nhập đối với
phần tái đầu tư.

2.3. Môi trường kinh doanh

a. Cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng
Trung Quốc chủ động bỏ vốn ra xây dựng cải tạo đường sá, bến bãi, cảng nước sâu, sân
bay, hệ thống thông tin từ các khoản tiết kiệm trong nước. Tính đến năm 1994. Trung
Quốc đã xây dựng được 54 ngàn km đường sắt (8.988 km đường sắt được điện khí
hố), 1.178 ngàn km đường bộ (1.555 km đường cao tốc), 9.078 đường xe hơi chuyên
dụng cấp 1 và 2, tất cả các huyện đã xây dựng đường bộ. Cải tạo sử dụng 110 ngàn km
đường sông. Xây dựng hơn 20 cảng lớn, 1763 cảng nhỏ trong đó có 350 cảng có thể
nhận được tàu trọng tải 1 vạn tấn, mở ra gần 100 tuyến đường biển giao lưu với 1100
bến cảng của 160 nước và khu vực. Hàng khơng dâ dụng Trung Quốc cũng mở ra 688
tuyến bay, trong đó có 84 tuyến bay quốc té, với đường bay dài 1045 triệu km thông
đến hơn 40 thành phố trên thế giới, sử dụng nhiều máy bay chở khách cỡ lớn như
Boeing 767, 757, 747, 737…
b. Tạo dựng môi trường luật pháp cho đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trung Quốc ban hành hơn 500 văn bản gồm các bộ luật và pháp quy liên quan đến
quan hệ kinh tế đối ngoại và đầu tư trực tiếp, tương đối phù hợp với đòi hỏi cảu những
quan hệ mở trong nền kinh tế thị trường. Chúng được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản
Bình đẳng cùng có lợi.
Trên các nguyên tắc này, Bộ luật đầu tư hợp tác giữa Trung Quốc với nước ngoài ra đời
ngày 1-7-1979 đã đặt nền móng cho các nhà đầu tư vào Trung Quốc. Ngồi ra, cịn có
“Quy định của Quốc vụ viện về việc khích lệ đầu tư của thương gia nước ngoài”, gọi
19


tắt là “22 điều mục” ban hành ngày 11-10-1986. Quy định này nhấn mạnh ưu đãi đặc
biệt cho các doanh nghiệp xuất khẩu hang hoá và doanh nghiệp kỹ thuật tiên tiến.

3. Đánh giá thành công và hạn chế trong chính sách đầu tư của
Trung Quốc
3.1. Một số thành cơng
3.1.1. Thành công trong thu hút công nghệ cao và xây dựng các khu nghiên cứu phát

triển
Một trong những chính sách thu hút đầu tư nước ngồi rất thành cơng của | Trung Quốc
là chính sách khơng thu hút vốn nước ngồi tràn lan mà tập trung vào việc khuyến
khích các nhà đầu tư nước ngồi thuộc các ngành cơng nghệ cao, năng lượng và bảo vệ
mơi trường. Chính sách này được thể hiện qua việc hạn chế nhập khẩu công nghệ cũ,
khuyến khích các doanh nghiệp nước ngồi mang kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến
vào phát triển nền cơng nghiệp Trung Quốc. Chính sách này với các quy định cụ thể đã
được thực hiện rất linh hoạt và phù hợp theo thời gian và với từng địa phương.
Bằng việc đưa ra những quy định chặt chẽ về chủng loại, chất lượng, mức độ công
nghệ đối với các máy móc, thiết bị nhập khẩu, Trung Quốc đã hạn chế được tình trạng
các doanh nghiệp nước ngoài biến Trung Quốc thành “bãi thải công nghiệp”. Các ưu
đãi đối với các doanh nghiệp nước ngồi mang vào cơng nghệ cao cũng như phát triển
về nghiên cứu khoa học kỹ thuật đã góp phần nâng cao trình độ khoa học, cơng nghệ
của các doanh nghiệp trong nước và tồn ngành cơng nghiệp Trung Quốc.
3.1.2. Thực hiện nhiều chính sách ưu đãi tài chính hiệu quả
Trong giai đoạn đầu mở cửa, chính phủ chủ yếu sử dụng chính sách thuế ưu đãi về thu
hút đầu tư nước ngoài. Thực hiện các biện pháp khuyến khích cả gói và khuyến khích
về thuế độc đáo ở các đặc khu kinh tế, khu kinh tế kỹ thuật. Đồng thời Trung Quốc còn
thành lập một số cảng và khu ngoại quan miễn thuế. Ví dụ:các dự án được khuyến
khích đầu tư sẽ được hưởng chính sách thuế với tỷ suất thấp về thuế xuất nhập khẩu,
thuế doanh thu, thuế thu nhập như việc miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT đối với máy
móc thiết bị phục vụ cho mục đích nghiên cứu và phát triển. Đặc biệt là chính sách
thuế ưu đãi đối với doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư. Chính sách thuế ưu
đãi đã chứng minh là có hiệu quả trong thu hút các nhà đầu tư.
Cùng với chính sách thuế là chính sách về thời gian thuê đất và giá đất cũng hết sức ưu
đãi đối với các nhà đầu tư.

20



Thực hiện những chính sách hỗ trợ về tài chính, ngoại hối đối với các doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả.
Thực hiện nhiều biện pháp đặc biệt ưu đãi đối với các nhà ĐTNN đầu tư vào các vùng
chưa phát triển để phát triển đồng đều các vùng như khu vực Hồ Bắc, Nội Mông, các
vùng dân tộc ở miền núi biên giới ....
3.1.3 Thực hiện chính sách cơ cấu đầu tư hợp lý, thu hút đầu tư nước ngoài dần từng
bước theo khu vực địa lý, lĩnh vực đầu tư phù hợp với hiện trạng phát triển của nền
kinh tế
Thực hiện cải cách toàn diện như nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã nói “Cải cách tồn
diện bao gồm cải cách thể chế kinh tế, cải cách thể chế chính trị và cải cách các lĩnh
vực tương ứng khác", tiến hành mở cửa từng bước theo phương châm dễ trước, khó
sau, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi ro nên đã tránh được những va chạm xã hội lớn
và sự phân hoá hai cực quá nhanh như đã xẩy ra Liên Xô cũ và các nước Đông Âu do
thực hiện "liệu pháp sốc".
* Về khu vực đầu tư
Với thực trạng của một nền kinh tế chưa phát triển, đang trên đường chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường và điều kiện chưa đủ để phát triển đồng
thời tất cả địa phương cũng như các ngành nghề trong cả nước, Trung Quốc thực hiện
làm thí điểm trước đối với một số vùng, khu vực theo phương châm: xây dựng một số
vùng có điều kiện tốt giàu lên trước sau đó sẽ giúp cho các vùng khác giàu theo.
Về lĩnh vực đầu tư:
Trong giai đoạn đầu mở cửa, Trung Quốc chủ yếu mở cửa ngành công nghiệp nhẹ và
dệt cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc mở cửa những ngành cần nhiều lao động này
đã tạo ra một lượng lớn việc làm và đem lại thu nhập cao hơn cho người lao động và
những ngành này cũng không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp
trong nước.
Sau đó để cải thiện sức mạnh kinh tế, Trung Quốc thực hiện mở rộng phạm vi đầu tư
cho nhà đầu tư nước ngoài bao gồm năng lượng, nguyên liệu thô, các ngành cơ bản,
xây dựng cơ sở hạ tầng, sau đó đến các lĩnh vực dịch vụ. Sau khi gia nhập WTO, Trung
Quốc đã cam kết mở cửa gần hết các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhưng theo

một lộ trình nhất định.
Sau đó để cải thiện sức mạnh kinh tế, Trung Quốc thực hiện mở rộng phạm vi đầu tư
cho nhà đầu tư nước ngồi bao gồm năng lượng, ngun liệu thơ, các ngành cơ bản,
21


xây dựng cơ sở hạ tầng, sau đó đến các lĩnh vực dịch vụ. Sau khi gia nhập WTO, Trung
Quốc đã cam kết mở cửa gần hết các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhưng theo
một lộ trình nhất định.
Việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư của Trung Quốc thể hiện qua việc chính phủ đã liên
tục sửa đổi Danh mục hướng dẫn về đầu tư nước ngoài, tăng số lượng ngành được
khuyến khích đầu tư, giảm các ngành bị hạn chế hoặc cấm đầu tư; đặc biệt là đối với
đối với lĩnh vực dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thơng mà trước đây
chỉ các doanh nghiệp nhà nước được phép kinh doanh. Tuy nhiên việc mở rộng này
được Trung Quốc thực hiện theo một lộ trình tương đối dài nên đã không làm ảnh
hưởng đột ngột đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, mà góp phần tạo ra
cạnh tranh lành mạnh giúp các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi cung cách quản
lý, kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
Trong thời gian qua, với việc chủ động mở cửa dần về địa lý và lĩnh vực đầu tư cho đầu
tư nước ngoài một cách hợp lý và phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước, Trung
Quốc đã dần tăng được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, nâng cấp ngành công nghiệp của Trung Quốc và đưa nền kinh tế
Trung Quốc ngày càng hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế thế giới

3.2. Một số điểm hạn chế
3.2.1. Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp nước ngồi cịn nhiều bất cập
Thiếu các tiêu chí về chính sách ưu đãi dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các
địa phương trong việc thu hút FDI. Sự khác biệt trong quy định về thuế giữa chính
quyền trung ương và địa phương cản trở đầu tư nước ngồi, đặc biệt ở những vùng xa
xơi và chưa phát triển.

Chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp khi thực hiện đầu tư vào Trung Quốc, đặc biệt là trong
giai đoạn đầu thực hiện đầu tư. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng sự ưu đãi
này để trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước; đồng thời còn tạo ra sự cạnh
tranh không bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong nước gây thiệt hại cho các
doanh nghiệp này.
3.2.2 Hệ thống pháp luật thiếu minh bạch
Trên thực tế, luật ở Trung Quốc được miêu tả “luật tuân theo hướng dẫn hơn là hướng
dẫn phải tuân theo luật” . Vào những năm 1980, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã
phải bỏ ra nhiều năm để xây dựng các mối quan hệ với các công chức quản lý về đầu
tư nước ngồi ở địa phương đó trước khi đảm bảo được được cấp phép. Đến nay, tình
22


trạng này đã giảm nhiều do những nỗ lực về cải cách thủ tục hành chính trong cấp phép
đầu tư của chính phủ. Bên cạnh đó, thực tế khoảng cách quyền lực giữa chính quyền
địa phương và trung ương cũng không rõ ràng, mạch lạc như trong các văn bản.

III. Tác động chính sách đầu tư Trung Quốc và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thu hút đầu tư từ
nước ngồi
1. Tác động của chính sách đầu tư Trung quốc
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), vốn FDI là một trong
những nguồn lực đầu tư thân thiện nhất cho phát triển, có thể tạo việc làm, phát
triển công nghệ, nâng cao năng suất và giúp doanh nghiệp địa phương tiếp cận
thị trường thế giới.
Từ cuối những năm 1991 đến nay, FDI của Trung Quốc đổ vào Việt Nam tăng
mạnh, góp phần giải quyết nhu cầu về vốn trong nước, tạo việc làm và đóng góp
cho sự phát triển kinh tế nói chung. Lượng vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt
Nam đã không ngừng gia tăng trong 10 năm trở lại đây. Từ mức khiêm tốn chỉ

572,5 triệu USD trong năm 2007, tổng lượng vốn FDI đã tăng gần gấp 4 lần, lên
mức 2,17 tỷ USD trong năm 2017, vươn lên vị trí thứ tư trong số các nước có
vốn FDI đăng ký tại Việt Nam.

23


Hình 1: Số lượng dự án và vốn đăng kí mới từ Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn
2007-2017 (Nguồn: Tổng cục thống kê)

Từ năm 2011, FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam không chỉ gia tăng về quy mô
vốn, quy mơ dự án đầu tư mà cịn khơng ngừng được mở rộng. Từ mức trung
bình 1,5 triệu USD/dự án vào năm 2007, các dự án của Trung Quốc đang tăng
hơn 3 lần về quy mô, lên mức trung bình 5 triệu USD/dự án vào năm 2017. Đặc
biệt, ở Việt Nam ngày càng có nhiều dự án FDI lớn với trị giá hàng trăm triệu
USD, điển hình như: Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 với tổng số vốn
khoảng 2 tỷ USD, cụm công nghiệp Lan Sơn và Nhà máy Nhựa Khải Hồng Việt
với số vốn lên tới 150 triệu USD...
Trung Quốc cũng thực hiện đa dạng hóa cách thức đầu tư. Trước đây, các doanh
nghiệp (DN) Trung Quốc đầu tư thông qua hình thức liên doanh, mua lại các DN
Việt Nam thì hiện nay, ngày càng có nhiều dự án 100% vốn FDI được thành lập.
Chỉ tính riêng năm 2017, đã có 284 dự án đầu tư mới được hình thành với tổng
số vốn lên tới 1,41 tỷ USD. Ngành nghề và địa bàn đầu tư của Trung Quốc cũng
được mở rộng. Không chỉ tập trung vào các ngành dịch vụ, dòng vốn FDI từ
Trung Quốc đang chuyển hướng sang các ngành chế biến, chế tạo. Trong đó,
riêng dệt may và các ngành chế biến kim loại đã chiếm hơn 50% tổng lượng vốn.
24


Trung Quốc cũng "rót vốn" đầu tư vào trên 50 tỉnh, thành phố tại Việt Nam,

trong đó, tập trung chủ yếu vào các địa phương có lợi thế về địa hình, sát biển,
đông dân cư hoặc gần Trung Quốc như Bình Thuận, Hà Tĩnh, Bình Dương, Lào
Cai...
Cơ cấu vốn FDI đăng ký của Trung Quốc vào Việt Nam năm 2017 so với năm
2011 có sự gia tăng đáng kể về số vốn đăng ký. Nếu năm 2011, số vốn FDI đăng
ký của Trung Quốc vào Việt Nam (bao gồm cả Đài Loan) là 1,3 tỷ USD, thì đến
năm 2017, con số này đã tăng lên 2,7 lần, trung bình mỗi năm tăng khoảng 18%.
Cơ cấu vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam trong tổng số vốn đăng ký của
khu vực FDI là 12%, đứng thứ tư, sau Nhật Bản (30%), Hàn Quốc (28%) và
Singapore (19%).
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, vốn đăng ký cấp mới từ Trung Quốc trong
11 tháng đạt hơn 2,28 tỷ USD. Con số này cao hơn gấp đôi so với mức trung
bình ba năm gần nhất và đưa Trung Quốc vươn lên vị trí thứ hai, chỉ sau Hàn
Quốc, về vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Quy mô này không chỉ tăng cao đột biến so với cùng kỳ, mà còn đi ngược với
diễn biến chung. Trong 11 tháng, vốn FDI cấp mới chỉ đạt gần 14,7 tỷ USD,
giảm 7% so với năm 2018 và chỉ tương đương 74% của năm 2017. Theo giới
phân tích, một phần nguyên nhân đến từ sự dịch chuyển dòng vốn do thương
chiến, nhưng lý do khác cịn là sự thay đổi về chính sách mơi trường của Trung
Quốc.

25


×