Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

BÍ TÍCH hòa GIẢI đối với GIỚI TRẺ CÔNG GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.18 KB, 21 trang )

Trang 1

Trung Tâm Học Vấn Đaminh.
Triết Học Năm II. Niên Khóa 2010 - 2011
BÍ TÍCH HÒA GIẢI
ĐỐI VỚI GIỚI TRẺ CÔNG GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

Bộ môn: Bí Tích tổng quát
Sinh viên: Phanxicô Xaviê Pio Nguyễn Văn Khoa, O.Carm.
Giáo sư hướng dẫn: Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, O.P.
Nội Dung
DẪN NHẬP 2
I. Bí tích Hòa giải 2
1. Nguyên tổ sa ngã và hậu quả của tội nguyên tổ 2
1.1 Nguyên tổ sa ngã 2
1.2 Hậu quả của tội nguyên tổ 3
2. Hòa giải trong Cựu và Tân Ước 4
2.1 Hòa giải trong Cựu Ước 4
2.2 Hòa giải trong Tân Ước 4
3. Bí tích Hòa giải trong Hội Thánh 5
3.1 Chúa Giêsu thiết lập bí tích Hòa giải 5
3.2 Hiệu năng của bí tích Hòa Giải 6
II. Một vài vấn nạn lớn hiện nay: giới trẻ thờ ơ, dửng dưng với bí tích Hòa Giải 7
1. Nguyên nhân ngoại tại 8
1.1 Nghi ngờ quyền tha tội của linh mục 8
1.2 E ngại, lo lắng khi xưng tội với linh mục 9
1.3 Xưng tội xong lại tái phạm nên thà không xưng tội 10
2. Nguyên nhân nội tại 11
2.1 Mất ý thức về tội, quen ở lì trong tội 11
2.2 Thất vọng về sự bất lực trước tội lỗi 12
2.3 Chưa cảm được tình yêu của Thiên Chúa tỏ lộ trong bí tích Hòa Giải 12


III. Tái khám phá vẻ đẹp của bí tích Hòa Giải 13
1. Vai trò của linh mục trong Bí tích Hòa Giải 13
2. Tầm quan trọng của bí tích Hòa Giải trong đời sống đức tin 14
3. Tín thác vào lòng xót thương của Thiên Chúa 15
4. Tương quan giữa bí tích Hòa Giải với các bí tích khác 16
4.1 Bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể 16
4.2 Bí tích Hòa Giải và bí tích Rửa Tội 16
4.3 Bí tích Hòa Giải và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân 17
IV. Nhận định 17
1. Quyền tha tội của linh mục được chính Đức Giêsu trao ban 17
2. Thiếu kiến thức Giáo lý nơi giới trẻ 17
3. Mất phương hướng trong việc đưa ra chọn lựa chính 17
4. Tìm lại ý nghĩa đích thực đời sống Kitô hữu 18
KẾT LUẬN 18

Trang 2

DẪN NHẬP
Các bạn trẻ ngày nay có một số quan niệm: nếu muốn xưng tội thì họ sẽ vô nhà thờ
và thú tội với Chúa chứ linh mục có quyền gì mà tha tội. Một số người lại quan niệm:
người Kitô hữu đã chịu Phép Rửa là được lên thiên đàng rồi, không cần phải lo sợ hay cố
gắng nữa vì Chúa đã từng hứa: “Ai tin và chịu Phép Rửa thì sẽ được cứu độ.”
i
Một số bạn
còn mạnh dạn tuyên bố rằng tôi chẳng có tội gì để mà xưng; hay nếu xưng tội xong, lại
tiếp tục phạm tội thì thà đừng xưng tội. Vậy những quan niệm trên tự bản chất có đúng và
phù hợp với giáo huấn của Hội Thánh không?
Trong buổi tiếp kiến các đại biểu tham dự hội thảo do Tòa ân giải tổ chức sáng
25.03.2011, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã đề cập đến bí tích Hòa Giải. Ngài nói:
“Trong thời đại phát triển chủ nghĩa tương đối và mất dần ý thức về bản thân, người ta

ngày càng ít đến với tòa cáo giải.”
ii
Rõ ràng, lối sống đạo theo truyền thống trước đây đã
tạo nên một sự ổn định trong tâm thức của người giáo dân về hình thức sống đạo: sống
đạo có nghĩa là phải đi lễ ít nhất mỗi Chúa nhật, chịu các phép bí tích khi cần thiết, xưng
tội theo luật buộc, v.v. Ngày nay, truyền thống đó đang mất dần, giáo dân được mời gọi
đóng một vai trò tích cực hơn trong đời sống giáo xứ, thế nhưng, người ta lại ít đi lễ hơn,
ít xưng tội hơn. Vậy đâu là nguyên nhân của việc các bạn trẻ Công giáo ngày nay, đặc biệt
các bạn trẻ Công giáo ở Việt Nam lại rời xa bí tích Hòa Giải?
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ khởi đi từ việc tìm hiểu lại nguồn gốc của
bí tích Hòa Giải cả trong Kinh Thánh Cựu Ước lẫn Tân Ước, cách thức Đức Kitô thiết lập
và hiệu năng của Bí tích Hòa giải, để tìm hiểu nguyên nhân của sự sút giảm niềm tin vào
bí tích Hòa Giải nơi các bạn trẻ Công giáo, đâu là những khó khăn họ gặp phải dẫn đến
những khủng hoảng hiện nay, qua đó khám phá lại vẻ đẹp và tầm quan trọng của bí tích
Hòa Giải trong đời sống đức tin, ngõ hầu nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa và
những chiều kích nhân bản thiết thân của bí tích này, và tìm kiếm những hướng đi thích
hợp cho việc hiểu và sống ơn Hòa Giải trong đời sống Kitô hữu hôm nay.

I. Bí tích Hòa giải
Tại sao chúng ta cần phải “Hòa Giải?” “Hòa Giải” giữa các đối tượng nào? Trong
chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu nguồn gốc của tội nguyên tổ và hậu quả của nó. Qua đó
chúng ta tìm hiểu cách thức Thiên Chúa yêu thương con người, và không nỡ hủy diệt con
người cho dù con người bất tuân lệnh Ngài qua việc Thiên Chúa hứa ban tặng Người Con
trong Cựu Ước. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, đã đến và thực hiện công
cuộc hòa giải đó cách trọn vẹn nhất khi trao hiến mạng sống để giao hòa thế gian với
Chúa Cha.
1. Nguyên tổ sa ngã và hậu quả của tội nguyên tổ
1.1 Nguyên tổ sa ngã
Ngay sau khi nguyên tổ phạm tội, họ đã nhận ra mình trần truồng. Khi thấy Thiên
Chúa đi qua, họ sợ hãi và chạy trốn Ngài. Thiên Chúa hỏi Ađam tại sao ông lại ăn trái

cấm, ông liền đổ tội cho Evà: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy,
nên con ăn,”
iii
rồi khi Chúa hỏi Evà thì bà lại đổ tội cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con,
nên con ăn.”
iv
Con người xung khắc và đổ tội cho nhau.
Trang 3

Hình ảnh của nguyên tổ phạm tội cho chúng ta thấy: tội làm con người mất đi mối
hiệp thông tương quan Cha-Con với Thiên Chúa; tội làm con người xa lìa Hội Thánh; tội
còn làm con người xung khắc với anh em đồng loại và vũ trụ vạn vật; tội làm con người
mâu thuẫn với chính mình. Kết quả của tội là việc con người bị Thiên Chúa đuổi khỏi
“vườn địa đàng”
v
và đưa tới hậu quả của nó là sự chết. Từ nay con người phải làm việc
vất vả, đổ mồ hôi thì mới có ăn.
“Hội Thánh luôn dạy rằng chúng ta không thể hiểu được nỗi khốn khổ lớn lao đang
đè nén con người cũng như việc họ hướng chiều về sự dữ và sự chết, nếu không nối kết
chúng với tội Ađam ”
vi
Công đồng Trentô gọi hậu quả của nguyên tổ tội gây ra “cái chết
của linh hồn,”
vii
mà mỗi người phải mang lấy khi sinh ra đồng thời truyền lại cho con
cháu.
1.2 Hậu quả của tội nguyên tổ
Thần học về nguyên tội tiếp tục được phát triển trong các nhà kinh viện.
viii
Sau này

Công đồng Trentô đã xác định nó cách chính thức và được giảng dạy trong hơn ba thế kỷ.
Nội dung giáo lý của công đồng Trentô có thể tóm tắt như sau:
o Ađam đã phạm tội bằng một hành vi cụ thể, và ngang qua hành vi này, tội đã đi
vào thế gian.
o Tội Ađam được thông truyền cho cả nhân loại qua việc truyền sinh, nên mọi người
(trừ Đức Kitô và Đức Maria) đều là tội nhân thực sự trước khi có một hành vi chủ
ý nào.
o Phép Rửa tẩy xóa hoàn toàn vết nguyên tội nơi con người, nhưng những hậu quả
của tội này thì vẫn còn.
Trong vấn đề nguyên tội, Giáo Hội đã ý thức về một tình trạng tội lỗi nơi con
người vượt ngoài những tội cá nhân đã phạm. Đó là một tình trạng được gán cho sự đổ vỡ
do con người ban đầu gây nên, và chỉ được cứu chuộc bằng việc đón nhận cái chết và sự
phục sinh của Đức Kitô. Sau này, người ta sẽ ý thức hơn về sức mạnh của nó. Nó không
chỉ là một tình trạng, nó là một thế lực.
Thiên thần cũng là những thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên.
ix
Nếu xét về phẩm
giá, thiên thần cao quý hơn con người vì họ luôn được chiêm ngắm Thiên Chúa. Họ
không có xác phàm mà chỉ có linh hồn thiêng liêng. Thế nhưng, ngay khi thiên thần sa
ngã lập tức họ phải chịu hình phạt hỏa ngục. Còn con người sau khi sa ngã, phạm tội và
chạy trốn, chính Thiên Chúa đã đi tìm con người: “Con người ơi! Ngươi ở đâu?”
x
Khi
thấy con người nhận ra mình trần truồng và lấy lá kết lại mà che thân, Thiên Chúa thương
xót họ vô cùng, chính Ngài làm những chiếc áo bằng da thú và mặc cho con người.
xi
Hơn
nữa, Ngài còn hứa ban Đấng Cứu Thế đến giải thoát con người khỏi tội.
Tội lỗi làm con người xa lìa Thiên Chúa và đáng phải chết. Nhưng tình thương của
Thiên Chúa mạnh mẽ hơn gấp bội. Ngài không nỡ bỏ mặc con người, ngược lại muốn cứu

họ khỏi tội lỗi và sự chết. Vì thế, Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế. Để
thực hiện lời hứa này, Thiên Chúa đã quy tụ dân Israel để chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ.
Lịch sử của dân Israel để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế được gọi là thời Cựu Ước.
Trong thời kỳ này, họ nhiều lần thất trung, phản bội. Hơn nữa họ tỏ ra là một dân tộc cứng
đầu. Nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín thực hiện lời hứa. Ngài dùng những hình phạt để
Trang 4

dạy dỗ họ, và khi họ hối cải, Ngài lại thương cứu họ. Qua đó, chúng ta nhận thấy trong
suốt lịch sử cứu độ: cả Cựu lẫn Tân Ước, Thiên Chúa luôn ao ước dân hòa giải với Người.
2. Hòa giải trong Cựu và Tân Ước
2.1 Hòa giải trong Cựu Ước
Do Thái tuy là một dân tộc được Chúa chọn, được Chúa trực tiếp dạy dỗ qua các tổ
phụ và các vị thủ lãnh, được Chúa bảo vệ và chiến đấu giúp họ chống lại các thế lực lân
bang, được Chúa hiển minh và được Người thực hiện những kỳ công hiển hách, nhưng
lịch sử dân Do Thái là lịch sử lặp đi lặp lại quá trình: tội, phạt, hối, cứu.
Hình ảnh nhân từ tha thứ của Thiên Chúa, Đấng như lời Thánh vịnh đã nói: “Như
đông đoài cách xa nhau nghìn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta”
xii
là hình
ảnh của một người Cha hằng thương xót con cái Ngài. Hơn nữa, rõ ràng Thiên Chúa Đấng
Chí Thánh không thể dung nạp hay chấp nhận tội lỗi. Ngài sẵn sàng tha tội khi con người
biết hối cải, nhưng Ngài cũng đòi buộc con người phải xưng thú tội lỗi đó và làm việc đền
bù xứng đáng. Như trong Sách Lêvi đã viết: “Vậy khi ai mắc lỗi về một trong những điều
trên, thì nó phải xưng thú tội mình đã phạm, rồi phải đưa đến dâng Đức Chúa lễ vật đền
tội vì tội đã phạm, là một con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử
hành lễ xã tội cho nó khỏi tội.”
xiii
Chúng ta thấy trong Sách Lêvi đã xuất hiện các từ “xưng
thú tội,” “lễ tạ tội,” “chiên,” “tư tế cử hành lễ xã tội.” Đó là những hình ảnh làm tiền đề
cho bí tích Hòa giải sau này của Hội Thánh.

Mệt mỏi và mất kiên nhẫn vì những cuộc hành trình dài và vô vọng trong sa mạc,
đồng thời lại thiếu thốn lương thực, dân lại kêu trách Thiên Chúa, kêu trách ông Môsê, vì
thế nhiều người bị rắn độc cắn và chết. Dân nhận ra lầm lỗi của mình và chạy đến với ông
Môsê, xin ông cầu khẩn cùng Thiên Chúa thương tha tội cho họ.
xiv
Thiên Chúa phán với
ông Môsê: “Người hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn
mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.”
xv
“Ông Môsê làm bèn làm một con rắn bằng đồng
và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.”
xvi

Hình ảnh con rắn đồng được treo lên trong sa mạc là hình ảnh báo trước Đức Giêsu
Kitô, Đấng Cứu Thế, Con một Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa đã hứa và đã gởi đến thế
gian. Người đã đi vào lịch sử của nhân loại, kết thúc thời kỳ chuẩn bị của Cựu Ước, mở ra
thời Tân Ước. Người đã chịu khổ hình, bị đóng đinh và chết. Người hy sinh mạng sống để
giao hòa thế gian với Chúa Cha. Người chết để cứu con người khỏi phải chết, và mang lại
cho con người niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu.
2.2 Hòa giải trong Tân Ước
Điều mới mẻ của Kinh Thánh (cách riêng Tân Ước) là đặt tội của con người ở
trong bối cảnh của Giao ước tình yêu, và đặt việc sám hối trong bối cảnh của việc mặc
khải kế hoạch hòa giải của Thiên Chúa trong Đức Kitô.
xvii

Khởi đầu Tin Mừng được viết bởi thánh sử Máccô, sau khi Đức Giêsu chịu phép
rửa và chịu cám dỗ trong sa mạc, Ngài đã khai mạc công việc rao giảng qua lời kêu gọi
người ta sám hối: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy
sám hối và tin vào Tin Mừng.”
xviii

Tại sao chúng ta cần phải sám hối? Trong Tin Mừng
Luca, Đức Giêsu nói: “… nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết
hết…”
xix

Trang 5

Trong Nho giáo, “Sám Hối” có nghĩa là: “Sám giả sám kỳ tiền khiên. Hối giả hối
kỳ hậu quá” (Sám là ăn năn lỗi trước. Hối là chừa bỏ lỗi sau). Chỉ có “sám” mà không có
“hối” thì tội vẫn còn đó.
xx
Lời Đức Kitô đòi buộc mỗi người phải xem xét lại mối tương
quan giữa bản thân với Thiên Chúa, bản thân với người khác và với chính mình xem mối
tương quan đó còn nguyên vẹn không hay đã bị yếu đi hoặc bị cắt đứt do bất hòa và do
tội. Do vậy, tội là không yêu mến Thiên Chúa, tội là không yêu người. Tội làm ta xa
Chúa, và vì thế tội làm hại đến Hội Thánh.
Trong Tân Ước cũng có những phân biệt về mức độ trầm trọng của những tội khác
nhau. Không phải mọi hành động đi ngược ý muốn của Thiên Chúa đều quan trọng như
nhau. Chẳng hạn, thánh Gioan xin các tín hữu cầu nguyện cho những anh em phạm tội,
ngoại trừ trường hợp “tội chết.” Hơn nữa, tội nghiêm trọng nhất là tội phạm đến Thánh
Thần, sẽ không bao giờ được tha thứ.
xxi

“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em
đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với
người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.”
xxii
Một lần nữa Đức Giêsu đòi buộc
sự hòa giải và nhấn mạnh sự cấp thiết của hòa giải.
Rõ ràng khi phạm tội, chúng ta sống xa Chúa, không còn xứng đáng là con Thiên

Chúa, không còn được kết hợp với Chúa. Xa Chúa có nghĩa là xa nguồn sống vì Thiên
Chúa là sự sống, do đó chúng ta sẽ đau khổ và phải chết. Qua dụ ngôn chiên lạc trong Tin
Mừng Mátthêu, chúng ta sẽ thấy thái độ của Chúa Cha với những người biết hoán cải, hòa
giải. Ngài yêu thương từng người, từng cá thể. Không một ai bị loại khỏi tình yêu, lòng
thương xót Thiên Chúa và Ngài mong muốn con người quay trở về với Ngài:
Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín
mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì
Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín
con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời, không muốn cho
một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
xxiii

Hơn nữa, trong dụ ngôn “người cha nhân hậu” hay còn gọi là “người con hoang
đàng” trong Tin Mừng Luca chương 15, từ câu 11 đến câu 32, chúng ta thấy rõ hình ảnh
người con đại diện cho hối nhân, biết thống hối, ăn năn những lầm lỗi đã phạm: “Thôi ta
đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với
cha’.”
xxiv
Người cha trong ngụ ngôn chính là hình ảnh Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương,
mong chờ chúng ta quay về với Ngài và sẵn lòng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Đây là
hình ảnh rõ nét nhất trong Tân Ước của Bí tích Hòa giải sau này của Hội Thánh.
3. Bí tích Hòa giải trong Hội Thánh
3.1 Chúa Giêsu thiết lập bí tích Hòa giải
“Bắt nguồn từ nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, trải qua dòng lịch sử cứu độ,
xxv

bí tích Hòa Giải là hành vi cứu chuộc của Chúa Kitô, được thực hiện trong chính cuộc
Vượt Qua của Người. Như vậy, bí tích Hòa Giải chính là sáng kiến của Thiên Chúa.”
xxvi


Vào chiều ngày Phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, ban bình an cho
các ông,
xxvii
Ngài nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người
ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
xxviii
Hội Thánh nhận đây chính
Trang 6

là thời điểm Đức Giêsu thiết lập bí tích Hòa Giải.
xxix
Hội Thánh không có quyền đặt ra
những nghi thức như thế. “Đấng làm cho các nghi thức có ý nghĩa trong hoạt động bí tích
là Đức Kitô. Chỉ mình Người mới có quyền làm cho cử chỉ này hay cử chỉ kia có một ý
nghĩa với công hiệu tương xứng đối với các mầu nhiệm cứu độ của Người.”
xxx

Công đồng Vaticanô II đã lấy lại danh xưng: Hòa Giải. “Danh xưng này bao gồm 4
ý nghĩa: 1. Mầu nhiệm hòa giải, bắt nguồn từ sáng khởi của Thiên Chúa; 2. Tác vụ hòa
giải, được Chúa Kitô ủy thác cho Hội Thánh; 3. Việc hòa giải về phía con người, biểu lộ
qua việc thống hối và hoán cải; 4. Bí tích Hòa Giải được cử hành.”
xxxi

Như vậy, con người, với tư cách là hối nhân, cần phải có các hành vi ăn năn tội hay
sám hối, xưng thú tội và đền tội. “Sự xưng tội chỉ có tính bí tích, khi người ta làm một
cách tự phát với ý sám hối để xin ơn tha thứ các tội mình đã phạm.”
xxxii
Như vậy, sám hối
ăn năn là hành vi bên trong được tỏ lộ ra ngoài xuyên qua hành động xưng tội. “Việc thú
nhận xưng tội với linh mục là một yếu tố thiết yếu của bí tích này.”

xxxiii
Qua hành động thú
tội, hối nhân tuyên xưng, ca ngợi Thiên Chúa là Đấng Thánh và giàu lòng thương xót đối
với tội nhân.
xxxiv
Việc đền tội là một quá trình giúp cho hối nhân hoán cải. Tóm lại, chúng
ta thấy việc thống hối, xưng tội và đền tội, tất cả những điều đó là các hành vi của hối
nhân, các hành vi đó tạo nên thành phần hoàn chỉnh của bí tích, tạo nên thành phần cấu
tạo nên chất thể của bí tích Hòa Giải.
xxxv

Vậy đâu là mô thể của bí tích Hòa Giải? “Công thức giải tội” chính là mô thể của
bí tích. “Thánh Tôma Aquinô nhấn mạnh đến công thức giải tội dưới dạng truyền lệnh, vì
theo ngài dạng thỉnh cầu thiếu giá trị bí tích.”
xxxvi

Thật vậy, do các hành vi của hối nhân là thành phần của chính bí tích và bí tích Hòa
Giải hệ tại cuộc đối thoại giữa cha giải tội và hối nhân, nên nó cũng có giá trị chữa
bệnh thuộc phạm vi luân lý và tâm lý và còn hơn thế nữa. Nếu Hòa Giải là bí tích do
Đức Kitô thiết lập và Hội Thánh thực thi quyền cứu độ của mình trong bí tích đó, thì nó
cũng phải có một giá trị và một hiệu năng chắc chắn, biệt lập với hiệu năng luân lý và
tâm lý qua các hành vi của hối nhân và của cha giải tội.
xxxvii

Tóm lại, chính Đức Kitô thiết lập bí tích Hòa Giải, Ngài là Con Thiên Chúa, là
Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền tha tội, và Ngài đã trao quyền đó cho các tông đồ.
Hành vi sám hối, xưng tội, đền tội của hối nhân tạo nên chất thể của bí tích, công thức tha
tội của Hội Thánh là mô thể. Chúng ta đã bàn khá nhiều đến khía cạnh bí tích của bí tích
Hòa Giải, vậy khi hối nhân lãnh nhận bí tích Hòa Giải, họ sẽ nhận được những ơn nào?
3.2 Hiệu năng của bí tích Hòa Giải

Trước tiên, “mục đích và hiệu quả của bí tích này là giao hòa hối nhân với Thiên
Chúa.”
xxxviii
“Theo thánh Tôma, chính Thiên Chúa ban ân sủng đánh động lòng người ta
ăn năn trở lại với Người. Hành vi cải hóa này, xét theo nguồn gốc, phát xuất từ lòng nhân
hậu của Thiên Chúa.”
xxxix
Như vậy, hành vi sám hối và trở về của hối nhân phải phát xuất
từ sự tự do quay về với Thiên Chúa, từ bỏ con đường xấu trước đó, nhờ đó “hối nhân
được phục hồi trong ơn nghĩa Chúa và liên kết với Người trong tình bằng hữu thắm thiết
cao cả.”
xl
Vì thế, bí tích Hòa Giải phục hồi phẩm giá, phục hồi sự sống thiêng liêng và đặc
quyền làm con cái Thiên Chúa nơi hối nhân
xli
đặc biệt là nối lại mối tương quan mật thiết
với Ngài.
Trang 7

Chúng ta thấy, “tội lỗi không chỉ xúc phạm đến Thiên Chúa, mà còn xúc phạm đến
Hội Thánh nữa.”
xlii
Thế nên, hiệu quả thứ hai của bí tích Hòa Giải là “giao hòa hối nhân
với Hội Thánh.”
xliii

Bí tích Hòa Giải tái tạo sự hiệp thông huynh đệ, mà tội lỗi làm tiêu hao hay cắt đứt.
Theo nghĩa này, bí tích Hòa Giải không những chữa lành hối nhân vừa được hiệp
thông lại với Hội Thánh, mà còn làm cho Hội Thánh thêm sức sống sau khi đã phải
đau khổ vì tội lỗi của các chi thể.

xliv


Việc giao hòa với Thiên Chúa còn dẫn tới những sự giao hòa khác là chữa lành các
vết thương do tội: khi được tha thứ, hối nhân được giao hòa với chính mình, nhờ đó
tìm lại được chính mình; được giao hòa với anh em là những người họ đã xúc phạm
và gây thương tổn; được giao hòa với Hội Thánh và vạn vật.
xlv


Khi đến với bí tích Hòa Giải, hối nhân đã đặt mình trước tòa phán xét mà họ sẽ
phải chịu sau khi chết. Vì thế, chính nhờ sự thống hối, xưng tội và đền tội, nhờ việc quay
về với Đức Kitô, họ đã được xét xử trước ngay ở đời này, đã chết cho tội và được ban lại
sự sống mới. Vì thế họ sẽ không bị xét xử nữa.
xlvi

Vấn đề là Thiên Chúa đã tha thứ, hòa giải hối nhân với Người, thì hối nhân đâu cần
phải làm việc đền tội nữa? Nói cho cùng, chẳng ai có thể đền bù cân xứng những gì mình
đã gây ra. Tuy nhiên sự đền bù có giá trị bù đắp những tổn thương gây ra do tội, về mặt xã
hội và tâm lý, nó mang tính cách chữa trị. Ngoài ra việc đền tội còn chứng tỏ thiện chí của
hối nhân quyết tâm sống đời sống mới và thay đổi cuộc đời. Vì thế, bí tích Hòa Giải, từ
cách hiểu đơn giản là “tha tội” đã mang đến hiệu quả khác là “chữa trị,” giúp chúng ta trở
nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô hơn.
xlvii

Nhìn lại toàn bộ chương I, chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của bí tích Hòa Giải:
đó là một phần thiết yếu của sứ điệp Tin Mừng, hầu như được tìm thấy trên từng trang
Tân Ước. Đức Giêsu đã rao giảng sứ điệp hòa giải, chính Ngài thiết lập bí tích hòa giải và
trao quyền hòa giải cho Hội Thánh. Cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài đều là
thành phần của một mặc khải lớn: Tin Mừng loan báo Thiên Chúa luôn yêu thương mỗi

người, sẵn sàng tha thứ và hằng mong mỏi con người quay về sống trong tình liên đới với
Ngài, chia sẻ hạnh phúc của Ngài.
Vậy nguyên nhân nào đã làm cho các bạn trẻ công giáo thời nay, đặc biệt các bạn
trẻ tại Việt Nam ngày càng trở nên thờ ơ, dửng dưng với bí tích Hòa Giải. Vấn nạn đó sẽ
được tìm hiểu và trình bày trong chương II của bài tiểu luận này.

II. Một vài vấn nạn lớn hiện nay: giới trẻ thờ ơ, dửng dưng với bí tích Hòa Giải
“Trong thời đại phát triển chủ nghĩa tương đối và mất dần ý thức về bản thân,
người ta ngày càng ít đến với tòa cáo giải.”
xlviii
Đó là nhận định của Đức Thánh Cha
Bênêđíctô XVI trong thời gian gần đây. Nhận định đó đáng để chúng ta suy nghĩ và tìm
hiểu nguyên nhân và tác động của việc người có đạo ngày càng thờ ơ, dửng dưng với bí
tích Hòa Giải, đặc biệt đối với các bạn trẻ tại Việt Nam.
Vậy đâu là nguyên nhân của vấn nạn trên. Việc tham dự vào bí tích Hòa Giải của
một hối nhân có thể được phân tích theo ba khía cạnh: Cảm thức về tội lỗi và nhu cầu hòa
giải và hoán cải; hiểu biết về vai trò trung gian của vị linh mục; nhận thức và giải thích
các nghi thức. Trong từng nhân tố trên đây đều tồn tại những vấn nạn cần giải quyết.
Trang 8

Chúng ta cùng khởi đi từ nguyên nhân ngoại tại, rồi đến nguyên nhân nội tại đối
với người muốn xưng tội, để tìm ra những ngăn trở họ gặp phải khi đến với bí tích Hòa
Giải, với ước mong góp phần nào đó để giúp các bạn trẻ trong thế giới hôm nay.
1. Nguyên nhân ngoại tại
Tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy người giáo dân vẫn đi xưng tội, vẫn có
những dòng người xếp hàng dài tại các nhà thờ để lãnh nhận bí tích Hòa Giải đặc biệt
trong những dịp chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh hay Giáng Sinh. Ở nơi vùng sâu, sự xuất
hiện của linh mục là một niềm an ủi không nhỏ cho người tín hữu, vì đây là cơ hội hiếm
hoi cho họ được xưng thú những lỗi lầm họ đã phạm trong một thời gian dài, mà họ không
thể xưng vì không có linh mục. Tuy nhiên, số người đi xưng tội đã giảm sút đáng kể, và

hiện tượng ngày càng có chiều hướng gia tăng trong lớp trẻ hôm nay. Tại sao vậy? Có thể
vì họ nghi ngờ bí tích Hòa Giải, nghi ngờ quyền tha tội của linh mục, e ngại, lo lắng khi
xưng tội với linh mục, hay xưng xong lại tái phạm nên ngại xưng tội.
1.1 Nghi ngờ quyền tha tội của linh mục
Cha Phan Tấn Thành có nêu ra một số vấn nạn từ phía giáo dân. Nhiều người cảm
thấy ngại ngùng khi phải kể những tội của mình với một con người bằng xương bằng thịt
như linh mục. Liệu xưng tội âm thầm với Chúa có hơn không? Ngay chính việc giải thích
của linh mục nhiều khi cũng làm cho hối nhân bối rối. Đôi khi linh mục này tỏ ra nghiêm
khắc về tội này, trong khi cùng một chuyện đó, vị khác thì coi như “không có gì mà ầm ĩ.”
Hiện tượng người ta bỏ đi xưng tội dần, hoặc thôi không quan tâm đến tội nữa cũng thuộc
vào những dấu hiệu của khủng hoảng.
xlix

Vì thế, chúng ta thấy việc giới trẻ nghi ngờ quyền tha tội của linh mục có liên quan
trực tiếp đến tầm mức hiểu biết về giáo lý của họ. Đa số các bạn trẻ chấm dứt việc học
giáo lý sau khi kết thúc các lớp giáo lý xưng tội, rước lễ và thêm sức.
l
Họ bước vào đời
với vốn kiến thức giáo lý quá khiêm tốn. Trình độ giáo lý non kém không tương thích với
đòi hỏi của một não trạng xã hội công nghiệp hiện đại. Thế nên, trước sự tấn công của các
hệ tư tưởng vô thần, người trẻ dễ bị lung lay và mất niềm tin vào những gì đã được dạy.
Nền tảng giáo lý yếu kém là lý do căn bản khiến các bạn trẻ nghi ngờ bản chất của bí tích:
quyền tha tội của linh mục.
Nếu một người quyết tâm xưng tội nhưng thay vì tìm đến với linh mục nơi tòa giải
tội, người đó lại vào nhà thờ và muốn thú tội trực tiếp với Chúa, thì Chúa sẽ rất buồn lòng.
Cho dù người có thực lòng ăn năn thống hối đi nữa thì điều Chúa muốn anh ta làm là hãy
tìm một linh mục. Vì bản chất của bí tích Hòa Giải ngoài việc xét mình, ăn năn, thống hối
là những hành vi bên trong, bạn còn phải biểu lộ ra bên ngoài bằng hành động “xưng”,
“nói” ra những tội của bạn trước vị đại diện của Thiên Chúa là linh mục. Việc “xưng” đó
thể hiện bạn thú nhận tội lỗi, nhận thức trách nhiệm trước tội lỗi để nài xin Thiên Chúa

thương xót. Chắc chắn Thiên Chúa qua môi miệng của linh mục sẽ hướng dẫn bạn cách để
chế ngự tội lỗi, và qua bàn tay của linh mục, Chúa sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của
bạn.
li

Chúa Giêsu khẳng định: “Không ai có quyền tha tội ngoại trừ một mình Thiên
Chúa.”
lii
Chính Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, đã công khai trao ban quyền tha tội đó
cho các tông đồ và cho Hội Thánh: “Điều gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng sẽ
cầm buộc, điều gì các con tháo cởi dưới đất, trên trời cũng sẽ tháo cởi.”
liii
Như vậy quyền
Trang 9

tha tội của các giám mục và linh mục nhân danh Đức Giêsu không phải do họ tự nghĩ ra,
nhưng là do chính Chúa Giêsu ban cho. Nói như thế không có nghĩa linh mục là chủ của
ơn tha tội. Ngược lại các vị đó như dấu chỉ và dụng cụ Thiên Chúa dùng để tỏ lộ tình yêu
và lòng từ bi của Ngài đối với tội nhân.
Việc các bạn trẻ không muốn xưng tội với linh mục không những vì họ nghi ngờ
quyền tha tội của linh mục, nhưng còn một nguyên nhân lớn khác đó là họ “e ngại,” “lo
lắng” đặc biệt khi họ xưng tội với linh mục quen.
1.2 E ngại, lo lắng khi xưng tội với linh mục
Lý do khác khiến các bạn trẻ ngày nay không muốn xưng tội với linh mục, đặc biệt
linh mục quen, là bởi vì họ “e ngại,” “lo lắng” hay “sợ.” Đặc biệt ở những khu vực thiếu
linh mục, người giáo dân không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải xưng tội với cùng vị
linh mục trong thời gian dài. Các bạn trẻ rơi vào lập luận: tại sao lại phải xưng tội rất riêng
tư, thầm kín của mình với một người bằng xương bằng thịt, hơn nữa vị đó lại biết rất rõ về
mình, vị linh mục đó có khinh khi mình không? Có kể tội của mình cho người khác
không?

Về phía thừa tác viên của bí tích Hòa Giải là các linh mục, các ngài là những người
lắng nghe và ban bí tích Hòa Giải cho hối nhân. Việc ngồi tòa lâu ngày dẫn đến hiện
tượng mỏi mệt, đơn điệu. Nhiều linh mục có thái độ nhàm chán với việc ngồi tòa, làm cho
qua loa vì phải nghe đi nghe lại một số tội đơn giản của những người mà các ngài không
biết mặt hoặc không có một tương quan nào với họ. Con số giáo dân xưng tội đông đảo
vào các ngày lễ trọng làm cho các vị mệt mỏi và không còn thực hiện hết vai trò mục tử
của mình. Hơn nữa, tuy rất hiếm nhưng không phải là không có một số linh mục quát
mắng to tiếng làm cho hối nhân lo lắng và sợ hãi thực sự, thậm chí họ còn bị đuổi ra khỏi
tòa cáo giải.
Không ít linh mục còn giữ thái độ nghiêm khắc quá mức với người đi xưng tội khi
nghe tội của họ, và nặng lời về những điều họ xưng thú mà không nghĩ gì đến hoàn cảnh
khó khăn của họ. Người viết có hỏi nhiều thanh niên và thấy họ thường tránh né những vị
này khi xưng tội, hoặc giấu không xưng thú điều mình (nghĩ là) phạm tội, vì không tin
tưởng các vị sẽ giúp gì được cho mình nếu kể ra.
Đã đến lúc chúng ta phải dừng lại để kiên trì nghiên cứu và suy nghĩ. Cần phải tìm
hiểu vấn đề trong tất cả các chiều kích lịch sử, tâm lý và thần học của nó. Đã đến lúc
thẳng thắn đối diện với các vấn đề về hối nhân và thừa tác viên của bí tích Hòa Giải. Mọi
người thiện chí đều mong mỏi tìm kiếm một giải pháp cho bí tích Hòa Giải hôm nay,
nhưng cũng cần phải sáng suốt trung thành với cả truyền thống.
liv
Vấn đề này không thể
được lý giải cặn kẽ và hợp tình hợp lý ở khía cạnh tâm lý, nhưng về phương diện bí tích,
có nhiều lý do để các bạn trẻ khi xưng tội, dù với linh mục quen, cũng sẽ không cảm thấy
e ngại và sợ sệt nữa. Vì ngại và sợ chẳng qua là chưa hiểu rõ bí tích Hòa Giải.
Đừng “ngại” cũng đừng “sợ ”vì tất cả những tội hối nhân xưng với linh mục, và
những gì linh mục giải tội nghe đã được Thiên Chúa đóng ấn được gọi là “ấn tích giải
tội.” “Ấn tích giải tội là điều bất khả vi phạm; do đó, tuyệt đối cấm chỉ cha giải tội không
được tiết lộ về hối nhân bằng lời nói hay bằng cách nào khác, và vì bất cứ lý do gì.”
lv
Ấn

tích này là một bí mật đòi buộc linh mục không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai, hay dùng
Trang 10

chúng để uy hiếp, làm phương hại đến hối nhân xưng tội. Nếu vi phạm sẽ bị những hình
phạt rất nặng nề và nghiêm khắc.
lvi

Hơn thế nữa, khi giải tội, linh mục thi hành tác vụ của một vị mục tử nhân lành
luôn đi tìm kiếm, chờ đón con chiên lạc, khi tìm được rồi thì băng bó, chữa lành các vết
thương, và đón nhận con chiên lạc đó vào gia đình Hội Thánh.
lvii
Tiếc rằng những gì thực
tế đang diễn ra chưa giải quyết được toàn diện các vấn đề. Vì thế, việc huấn luyện linh
mục còn cần phải thích ứng hơn cho kịp với nhu cầu hòa giải của giáo dân trong bối cảnh
Giáo Hội Việt Nam.
1.3 Xưng tội xong lại tái phạm nên thà không xưng tội
Nhìn chung, các bạn trẻ hôm nay cảm thấy nghi ngờ tính hiệu quả của bí tích Hòa
Giải khi phải xưng đi xưng lại một số tội quen thuộc mà không thấy sửa được những điều
ấy.
lviii
Một số người lại quan niệm: người Kitô hữu đã chịu Phép Rửa là được lên thiên
đàng rồi, không cần phải lo sợ hay cố gắng nữa vì Chúa đã từng hứa: “Ai tin và chịu Phép
Rửa thì sẽ được cứu độ”.
lix
Một số bạn còn mạnh dạn tuyên bố rằng tôi chẳng có tội gì để
mà xưng; hay nếu xưng tội xong, lại tiếp tục phạm tội thì thà đừng xưng tội.
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ.”
lx
Bí tích
Rửa Tội là điều kiện cần thiết và là cửa ngõ để chúng ta gia nhập vào gia đình Hội Thánh,

trở nên con cái Thiên Chúa và thành chi thể của Chúa Kitô. Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội,
chúng ta được Thiên Chúa đóng ấn vĩnh viễn không những trong thân xác mà cả mạng
sống. Khi lãnh nhận nước để rửa tội, chúng ta được dìm vào trong sự chết của Chúa Giêsu
và cùng được mai táng với Người. Qua đó, chính Chúa Giêsu phục sinh ban lại cho chúng
ta sự sống mới, sự sống thần linh trong Chúa Thánh Thần của Ngài, đồng thời Ngài còn
thánh hiến chúng ta trở nên tư tế, ngôn sứ và vương đế.
lxi

Tuy vậy, sự sống mới ấy lại được chúng ta mang trong thân xác hay chết này. Sự
sống ấy không loại bỏ bản tính yếu đuối, mỏng manh, cũng như không loại bỏ được
khuynh hướng xấu nơi con người. Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống mới, đồng thời
Ngài vẫn cho chúng ta có sự tự do để lựa chọn. Đôi khi chúng ta lại lạm dụng sự tự do đó
để phạm tội. Tội nhẹ làm cho mối tương quan Cha – Con với Thiên Chúa bị yếu đi, tội
trọng làm mất luôn mối tương quan đó. Thử hỏi một người đã chịu phép rửa, nhưng cứ
tiếp tục phạm tội và ở lì trong tội của mình thì người đó có được cứu độ không?
Chúa Giêsu đã nhắc nhở và cảnh giác chúng ta về sự sám hối: “Nếu các ngươi
không sám hối, thì các ngươi sẽ chết.”
lxii
Khi lãnh nhận bí tích Hòa Giải, chúng ta được
chính Chúa Giêsu Kitô, thầy thuốc của cả linh hồn lẫn thể xác tha thứ, chữa lành và phục
hồi sự sống, chính những yếu tố đó mới đảm bảo sự sống vĩnh cửu cho chúng ta.
Lại có những bạn trẻ lý luận rằng xưng xong rồi lại tiếp tục phạm tội, thà không
xưng thì hơn. Ẩn sâu bên trong lý luận ấy là sự thất vọng về bản thân. Mỗi ngày chúng ta
vẫn dùng đủ ba bữa: sáng, trưa, chiều đấy chứ nhưng sao ngày nào mà không ăn thì bụng
cồn cào. Hai đặc tính căn bản để phân biệt “sự sống” với “cái chết” là sự sống có tổ chức
và dinh dưỡng. Còn nếu chết rồi thì đâu còn cần dinh dưỡng nữa. Thân xác mà còn cần
của ăn nuôi dưỡng như vậy, huống chi linh hồn. Linh hồn còn cần những của ăn thiêng
liêng là chính Thánh Thể của Chúa Kitô và những ân sủng để nuôi dưỡng biết bao! Một
khi bạn phạm tội trọng, thì bạn không được rước Mình Chúa. Thế nên cách duy nhất là
bạn phải thống hối hết lòng và xưng tội. Sám hối, hoán cải là một hành trình dài của cả

Trang 11

một đời người, chúng ta phải tuyệt đối cậy trông, phó thác vào tình thương tha thứ của
Chúa, tình thương của Người Cha hằng chờ đợi chúng ta quay về.
Tóm lại các nguyên nhân ngoại tại là cách nhìn phía bên ngoài của người muốn
xưng tội đối với bí tích Hòa Giải, đối với linh mục là thừa tác viên của bí tích. Thế nhưng
còn những nguyên nhân khác nữa, nguyên nhân nội tại là chính suy nghĩ, thái độ của các
bạn trẻ dẫn tới việc họ dửng dưng, thờ ơ đối với bí tích Hòa Giải.
2. Nguyên nhân nội tại
Trước hết, phải khẳng định ngay rằng không thể có một sự hòa giải đích thực nơi
bí tích Hòa Giải nếu hối nhân không có một cảm thức tự nhiên và thực tế về tội lỗi, cùng
với một nhu cầu hòa giải và hoán cải. Một phần của cảm thức này là vấn đề kinh nghiệm
và sự tự nhận thức, một phần là do hiểu biết tội là gì.
2.1 Mất ý thức về tội, quen ở lì trong tội
Các bạn trẻ hôm nay có những băn khoăn liên quan đến bản chất của tội và hiệu
quả cũng như sự cần thiết thực sự của bí tích Giải Tội. Ngày nay, dễ nghe thấy những lời
phân trần đại loại như: không cảm thấy có tội gì, những chuyện xưng thú lâu nay đâu còn
là tội nữa, có xưng tội mà không chừa được thì cũng vậy, lâu quá rồi không xưng tội nên
sợ bị la mắng. Họ nghi ngờ về tính chất tội lỗi của những điều lâu nay họ vẫn xưng thú.
Nhiều điều được xưng thú trong tòa giải tội nhiều lần mà không sửa đổi được dẫn đến sự
chán chường và nguội lạnh với bí tích này. Đa số người trẻ hôm nay chỉ còn giữ việc xưng
tội tối thiểu theo luật buộc, và cảm thấy bí tích Hòa Giải chẳng làm thay đổi đời mình gì
cả.
Hơn nữa, ngày nay các bạn trẻ còn thờ ơ với chính khái niệm tội. Họ tránh nói đến
tội, và có khuynh hướng dừng lại ở mức độ nhân bản. Một hành vi sai phạm có thể được
họ ăn năn thoáng chốc, quyết tâm sửa chữa, và thế là xong. Hoặc coi đó là chuyện thường
tình, một thói quen lệ thuộc vào tính khí, nhận thức và “văn hóa.” Những tâm hồn còn giữ
được ý thức về tội thì quan tâm đến chiều kích cộng đồng của con người, thay vì chỉ lo xét
bản thân về những bí mật riêng tư mà chỉ được thổ lộ trong tòa giải tội. Họ bắt đầu làm
quen với những khái niệm mới mẻ: tội cơ cấu, bất công xã hội, chủ nghĩa phân biệt chủng

tộc Những điều này có tầm mức ghê gớm hơn nhiều, và trách nhiệm của nó thì chưa
được minh định. Từ đó, người ta quay ra ít để ý đến tội như được quy định trong các bản
xét mình trong truyền thống. Đây là một điểm đáng mừng và cũng đáng băn khoăn, vì
nhận thức của người tín hữu đã bắt đầu đi vào một lĩnh vực mới nhưng chưa có sự thống
nhất về quan điểm mục vụ cùng giải pháp thích hợp cho việc hướng dẫn.
lxiii

Có những thay đổi nơi nhận thức của người trẻ về những hành vi bị ngăn cấm như
trong lĩnh vực công bình xã hội, tính dục cũng làm cho họ xao lãng bổn phận này, hoặc
đơn giản chỉ vì bận công việc đến độ không còn thời giờ đi xưng tội nữa. Chẳng những
thế, họ còn gặp phải nhiều khó khăn trong chính bản thân mình. Giữa một thế giới mà mọi
cơ hội phạm tội đều có sẵn, sự phòng vệ thiêng liêng trở nên yếu đuối và khi lặp đi lặp lại
một số tội nhiều lần, họ dễ hoài nghi về những điều mình muốn xưng thú: liệu đó có phải
là tội không? Nếu xưng thú những hành vi này có vẻ ấu trĩ quá. Việc huấn luyện lương
tâm các bạn trẻ gặp nhiều trở ngại do hoàn cảnh, nhưng cũng do việc dạy giáo lý còn thiếu
hụt, nhưng hậu quả là các bạn trẻ gặp nhiều lúng túng trong những chọn lựa luân lý của
mình, để quyết định hành vi nào là đúng theo tinh thần Tin Mừng, hành vi nào là không.
Trang 12

2.2 Thất vọng về sự bất lực trước tội lỗi
Một số bạn trẻ ngày nay lại có quan niệm rằng tôi chẳng có tội gì để mà xưng! Quả
thật trên thế giới này ngoài Chúa Giêsu và Mẹ Maria ra, nếu còn có người “không có tội
gì” thì người đó cao trọng biết bao? Chúng ta hãy tìm hiểu để xem cách nhìn về tội lỗi của
hai vị thánh tông đồ Gioan vào Phaolô.
Thánh Gioan tông đồ viết: “Nếu ai nói rằng mình không có tội, thì người đó tự lừa
dối mình.”
lxiv
Quả vậy, bao lâu còn tồn tại trong xác thịt là bấy lâu chúng ta còn sống
trong yếu đuối và tội lỗi. Như thánh Phaolô cả cuộc đời hết mình vì phần rỗi của dân
ngoại, làm biết bao dấu lạ cũng phải thú nhận: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc

khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ
của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.”
lxv

Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để giải thích “cái dằm” này có thể là gì. Có
thể đó là một căn bệnh mà những lần tái phát bất ngờ hay làm cho ngài (thánh
Phaolô) suy nhược? Hay là những cám dỗ về “xác thịt,” hậu quả của một
phương pháp đức dục đầu đời quá cứng rắn, không khác gì các điều răn trong
Luật? Điều chắc chắn là tất cả chúng ta đều ước mong được sống yên hàn
trong đó, chúng ta cảm thấy tự tin, nhưng Thiên Chúa thì tuy rất giàu ân sủng,
lại từ chối ban cho ta được như ý.
lxvi

Cả thánh Gioan lẫn thánh Phaolô đều không phủ định sự yếu đuối nơi con người,
các ngài không trốn tránh tội lỗi, trái lại nhìn thẳng vào thực tế bản chất của con người là
“mỏng dòn” để khiêm nhường nhận ra thiếu sót và yếu đuối của mình. Bắt chước các vị
đó, thay vì các bạn trẻ cứ khăng khăng cho mình là vô tội thì xin họ hãy thành tâm nhìn lại
chính mình qua các tương quan: đối với Thiên Chúa họ có yêu mến Ngài hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khôn chưa? Họ đã chu toàn giới răn và lề luật của Ngài chưa? Đối với Hội
Thánh, họ có lo xây dựng, cộng tác, giữ luật đặc biệt là luật xưng tội ít là một lần trong
năm không? Đối với tha nhân họ có hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng sự sống, của cải, nhân
phẩm của người khác không? Đối với bản thân, họ có yêu mến và tôn trọng bản thân, có
quý trọng sức khỏe, thì giờ, siêng năng học hỏi và chăm chỉ làm việc không? Với một
lòng thành và khiêm nhường xét mình, Chúa sẽ soi sáng để các bạn trẻ nhận ra những
khiếm khuyết, bất toàn và sẽ giúp bạn để bạn mỗi ngày mỗi hoàn thiện hơn.
2.3 Chưa cảm được tình yêu của Thiên Chúa tỏ lộ trong bí tích Hòa Giải
Nơi bí tích Hòa Giải, ngoài ý nghĩa chúng ta tìm đến việc Thiên Chúa tha thứ tội
lỗi, còn một ý nghĩa khác thậm chí còn quan trọng và trổi vượt hơn nữa đó là việc chúng
ta tìm đến với tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu và lòng thương xót
của Thiên Chúa vượt xa tội lỗi chúng ta, tình yêu đó dành cho chúng ta ngay cả khi chúng

ta là những tội nhân như thánh Phaolô đã viết trong thơ gửi tín hữu Rôma: “Thiên Chúa
chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo
kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.”
lxvii

Trong cuộc thương khó, cả bốn Tin Mừng đều kể lại hình ảnh “chối Chúa” của
tông đồ Phêrô và của ông Giuđa. Xét về mức độ, chưa chắc tội của ông Phêrô nhẹ hơn tội
của ông Giuđa. Vì ông Phêrô là hình ảnh của một người có niềm tin mạnh mẽ, thế nhưng
người đầy tớ gái chỉ nói với ông Phêrô một câu mỉa mai, không hề đe dọa đến tính mạng
Trang 13

của ông, hay người khác chỉ nhạo cái giọng đặc chất Galilê của ông thôi cũng đủ làm ông
Phêrô mất hết tinh thần và xác tín của mình dẫn đến việc ông chối Chúa.
lxviii

Kết cục của ông Giuđa và tông đồ Phêrô hoàn toàn khác. Cho dù chúng ta thấy cả
hai vị đều hối hận như thánh sử Mátthêu đã viết: “Bấy giờ ông Giuđa, kẻ đã nộp Người,
thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và
kỳ mục mà nói: ‘Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan’.”
lxix
Còn
thánh sử Luca, sau khi trình thuật lại cách ông Phêrô chối Chúa cũng diễn tả lại cách thức
ông Phêrô ăn năn: “Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông:
‘Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.’ Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm
thiết.”
lxx
Qua đó chúng ta nhận thấy, sự hối hận của ông Giuđa nằm trong tuyệt vọng, mất
luôn sự tín thác vào sự tha thứ, tình yêu, lòng khoan dung nhân từ của Thiên Chúa, dẫn
đến việc “Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ.”
lxxi

Còn ông Phêrô, sau khi gặp
được “cái nhìn” của Chúa Giêsu, ông nhận ra con người thật yếu đuối của mình, ông chạy
đến xin sự tha thứ của Chúa, và kể từ lúc đó ông bước vào sự hoán cải toàn diện.
Qua tất cả những gì đã trình bày trong chương II, từ việc các bạn trẻ ngày nay lìa
xa bí tích Hòa giải với các nguyên nhân ngoại tại: do sợ ngay ngại xưng tội với linh mục,
nghi ngờ quyền tha tội của linh mục, đến những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân
họ: mất ý thức về tội, quen ở lỳ trong tội và bất lực trước tội, chúng ta thấy nguyên nhân
sâu xa nhất phải nói là các bạn trẻ chưa cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa tỏ lộ
trong bí tích Hòa Giải. Tình yêu đó làm cho bí tích này trở nên một vẻ đẹp, vẻ đẹp ấy rất
đáng để các bạn trẻ khám phá và học hỏi, ngõ hầu nhận ra tầm quan trọng của nó và thực
hành bí tích đó trong đời sống Kitô hữu của mình.

III. Tái khám phá vẻ đẹp của bí tích Hòa Giải
Chúng ta sắp bước vào chương thứ III của Tiểu luận này. Trong chương I, chúng ta
đã tìm hiểu một số nét của bí tích Hòa Giải và hiệu năng của nó. Trong chương II, chúng
ta đối diện với những vấn đề thực tế các bạn trẻ công giáo gặp phải với bí tích Hòa Giải
trong đời sống bình thường của họ, và cách thức để làm giảm các vấn nạn đó. Chương III
sẽ giúp chúng ta khám phá lại vẻ đẹp của nó qua việc tìm hiểu vai trò của thừa tác viên,
đặc biệt linh mục trong bí tích Hòa Giải, tìm hiểu tầm quan trọng của nó trong đời sống
đức tin, để đưa chúng ta đến việc tín thác vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên
Chúa.
1. Vai trò của linh mục trong Bí tích Hòa Giải
“Được trao trách nhiệm quản lý bí tích Hòa giải, mỗi linh mục phải học cách sống
khiêm hạ và tin tưởng, đồng thời được thúc giục mạnh mẽ phải ý thức về căn tính của
mình.”
lxxii
Căn tính của linh mục là bước theo bước chân của Thầy Giêsu, bước vào con
đường khổ giá, để mỗi ngày mỗi nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu, là Linh mục
tối cao và đời đời. Qua đó, linh mục mới có thể hành động nhân danh Chúa, và trong tư
cách một người đại diện của Chúa, ngõ hầu qua các ngài, Chúa Giêsu thực sự hiện diện,

ban ơn tha thứ, canh tân và biến đổi hối nhân, đồng thời biến đổi thế giới.
Thế nên “Linh mục được trao một nhiệm vụ độc đáo, riêng biệt, giống như một đài
thiên văn để hằng ngày đều được chiêm ngắm vẻ huy hoàng của lòng Chúa thương
xót…”
lxxiii
Nếu linh mục chỉ cậy dựa vào sức của riêng mình để hành động, thì họ sẽ
Trang 14

chẳng bao giờ nghe được những lời thú tội xuất phát từ chính nội tâm, từ lòng thống hối
của anh chị em mình. Vì thế, khi cử hành bí tích Hòa Giải, chính linh mục cũng được
Chúa dạy bảo về đức Tin, về sự thật và sự thiếu thốn của bản thân, bồi dưỡng ý thức về
căn tính bí tích của mình.
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nhắn nhủ các các linh mục như sau:
Các linh mục thân mến, anh em đừng quên sắp xếp cho việc ngồi tòa giải tội trong
các hoạt động mục vụ của mình một cách thích đáng. Biết đón nhận và lắng nghe
chính là dấu chỉ nhân văn về Thiên Chúa đang đón nhận và thương yêu con cái của
Ngài. Việc xưng hết các tội giúp hối nhân biết sống khiêm nhường, nhận ra mình yếu
đuối, đồng thời ý thức mình cần được Chúa tha thứ và tin rằng ơn Chúa sẽ giúp thay
đổi đời sống.
lxxiv

Vậy thì điều gì đòi hỏi nơi vị linh mục hôm nay? Linh mục của thời đại mới phải là
con người cầu nguyện: ngài cầu nguyện để nghe tiếng Thiên Chúa muốn nói gì với hối
nhân mình đang gặp gỡ, và cùng cầu nguyện với hối nhân để xin ơn của Thiên Chúa. Ngài
phải là người lắng nghe hối nhân với lòng thông cảm sâu xa, để hiểu được những khó
khăn hối nhân đang mắc phải. Ngài phải có khả năng nhận định tình trạng thiêng liêng của
hối nhân qua những gì người ấy đã tự ý trình bày, để nếu cần thì nhẹ nhàng hướng dẫn
lương tâm họ. Ngài phải chuyển cho hối nhân ơn tha thứ của Thiên Chúa một cách nồng
ấm, dễ cảm, để cho người ấy hiểu rằng mình vừa thực sự được biến đổi khỏi tình trạng
nghiệt ngã trước đó và được Thiên Chúa đón nhận trở lại trong tình yêu, ơn vừa lãnh nhận

thực sự chạm đến cuộc đời mình. Và cuối cùng, vị linh mục phải làm cho hối nhân cảm
thấy sự thúc bách của lời mời gọi hoán cải của Thiên Chúa. Những điều này xem ra quá
nặng nề với một mục tử phải coi sóc đoàn chiên đông đảo, nhưng đó cũng chính là trách
nhiệm Đức Giêsu đã ân cần trao gởi cho Giáo Hội, và Ngài thực sự muốn mỗi người trong
cương vị mục tử, sẵn sàng đổ máu mình vì đoàn chiên của Ngài.
2. Tầm quan trọng của bí tích Hòa Giải trong đời sống đức tin
Trước tiên, phải xác tín rằng nơi Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ và hòa giải thế
gian với Thiên Chúa Cha.
lxxv
Bằng đời sống và cái chết của mình, Đức Giêsu đã chiến
thắng tội lỗi và đem cả nhân loại vào thời đại của ân sủng. Tội lỗi tuy là một thế lực mạnh
mẽ, nhưng đã không còn tiếng nói quyết định trên thế gian này.
Tội làm con người chạy trốn Thiên Chúa, xa lìa Hội Thánh, xung khắc với đồng
loại và vũ trụ vạn vật, mâu thuẫn với chính bản thân và bất an. Khi chúng ta chạy đến với
Chúa nơi tòa cáo giải mỗi lần phạm tội, chính nơi đó, Chúa đang chờ đón chúng ta, Ngài
sẽ băng bó vết thương, chữa lành chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài sẽ ban cho chúng ta sự bình
an thực sự trong tâm hồn ngay khi còn ở đời này. Một khi trở về với Chúa Giêsu Kitô nhờ
bí tích Hòa Giải và nhờ đức tin, chúng ta lại được dìm vào trong cái chết của Chúa và lại
được Ngài ban cho sự sống mới, được hòa giải với Hội Thánh, với anh em và với chính
mình.
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói: “Bài học lớn lao đầu tiên được dạy ở trường bí
tích Hòa Giải là biết sống với các Điều răn, các mối Phúc thật và Lệnh truyền yêu
thương.”
lxxvi
Thật vậy, bí tích Hòa Giải thể hiện thái độ và sự tự do của hối nhân thành tâm
sám hối, ăn năn những tội lỗi đã trót phạm trong quá khứ và quyết tâm trở về với Thiên
Chúa, quyết tâm sống theo đường lối của Ngài.
Trang 15

Đức Thánh Cha nhắc nhớ chúng ta: “Việc xét mình xưng tội mang giá trị giáo dục

rất lớn, dạy chúng ta biết chân thành nhìn nhận cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý
Tin Mừng, thẩm định cuộc sống không chỉ bằng những thông số nhân loại mà do ơn Chúa
soi sáng.”
lxxvii
Nơi bí tích Hòa Giải, không những chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa mà
còn giúp chúng ta thêm lòng yêu thương tha thứ cho nhau. Thánh Gioan viết: “Anh em
thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu
thương nhau.”
lxxviii
Hơn nữa Chúa Giêsu còn bảo chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi anh em.”
lxxix
Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta “Đừng lấy ác báo
ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt.”
lxxx
Yêu thương tha thứ thật lòng là
cách tốt nhất để xây dựng hòa bình trong gia đình (giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái)
và xây dựng hòa bình trên thế giới; vì “dĩ đức báo oán” (lấy đức báo oán) là cách tốt nhất
để xóa bỏ hận thù và xây dựng hoà bình.
Cuối cùng, sứ mạng của Giáo Hội là tiếp tục sứ vụ hòa giải của Đức Kitô trên trần
thế. Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội quyền bính và sứ mạng để tiếp tục công việc của
Ngài cho đến ngày tận thế. Đó là sứ mạng hòa giải con người với Thiên Chúa, mang đến
cho họ sự chữa lành và ơn bình an. Hội Thánh hiện diện giữa trần gian như bí tích cứu độ
của Đức Giêsu. Hội Thánh phải thể hiện được vai trò hòa giải của mình để đem lại sự
phục hồi cho con người và xã hội.
3. Tín thác vào lòng xót thương của Thiên Chúa
Lòng Thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta đã được biểu lộ qua việc tạo
dựng và cứu chuộc. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh Chúa
và cho làm chủ mọi loài trong vũ trụ.
lxxxi

Cũng vì tình yêu mà khi con người sa ngã phạm
tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, Ngài đã sai chính Con Một xuống trần để cứu chuộc
chúng ta. Chúa Giêsu Kitô khi xuống trần, Ngài đã sống cuộc đời lao động, khó nghèo để
chia sẻ thân phận con người chúng ta, rao giảng Tin Mừng tình thương tha thứ, chịu mọi
đau khổ và chịu chết đau đớn trên thánh giá. Lưỡi đòng đâm thấu qua trái tim Chúa, nước
và máu chảy ra hết, đã tỏ lộ rõ ràng tình yêu vô tận của Ngài đối với nhân loại tội
lỗi. Thánh Gioan còn nêu lên một điểm đặc biệt khác của tình yêu Thiên Chúa đối với
chúng ta đó là “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi
là Con Thiên Chúa…”
lxxxii

Suy ngắm về tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại, chúng ta mới hiểu
được định nghĩa của thánh Gioan “Thiên Chúa là Tình Yêu,”
lxxxiii
và thánh Gioan còn viết
một cách cụ thể hơn: “Tình yêu của Thiên Chúa cốt yếu ở điều này là: không phải chúng
ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, và sai Con
của Người đến để làm của lễ đền tội chúng ta.”
lxxxiv
Thánh Phaolô cũng viết trong thơ gửi
tín hữu Rôma: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, là trong lúc
chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.”
lxxxv

Tình yêu Chúa còn đặc biệt biểu lộ qua việc Ngài thương xót những kẻ tội lỗi “Ta
đến không phải để tìm người công chính, nhưng để tìm kiếm người tội lỗi biết ăn năn hối
cải.”
lxxxvi
Chúa Giêsu đã nói đến tình yêu đó qua nhiều dụ ngôn: “Đồng tiền bị mất,”
“Người cha nhân hậu,” “Con chiên lạc.” Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Thiên Chúa vui mừng

vì một kẻ tội lỗi ăn năn hối cải hơn chín mươi chín người công chính không cần hối
cải.”
lxxxvii

Trang 16

4. Tương quan giữa bí tích Hòa Giải với các bí tích khác
Bảy bí tích đều phát sinh từ cùng một căn bản chung là biến cố Vượt Qua của
Chúa Kitô. Mỗi bí tích tạo ra cách thế để con người cách nào đó có thể gặp gỡ Thiên
Chúa. Khi bàn về bí tích Hòa Giải, chúng ta cũng phải trình bày mối liên hệ của nó với bí
tích Thánh Thể; bí tích Rửa Tội và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân là những Bí Tích đem lại
ơn tha thứ các tội.
4.1 Bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể
Bí tích Hòa Giải là một bước chuẩn bị cần thiết để tín hữu có thể tham dự trọn vẹn
vào trong việc cử hành Bí Tích Thánh Thể. Tính cách cần thiết này tùy thuộc vào ý thức
của cá nhân về tình trạng tội phạm đã làm cắt đứt sự hiệp thông tới mức độ nào với Hội
Thánh. Bởi vì trong Thánh Thể người ta nhận ra biểu thị Hội Thánh, và như vậy Thánh
Thể làm cho tín hữu hiệp thông với Thiên Chúa và Hội Thánh một cách trọn vẹn hơn. Vì
thế, bí tích Hòa Giải là một hình thức hòa giải được thể hiện trong bí tích Thánh Thể mà
tín hữu sẽ nhận lãnh. Khi cử hành bí tích Hòa Giải tín hữu được tha các tội, được giải
thoát khỏi tội vì tội làm cản trở việc hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em khác.
Vì thế người ta phải nói rằng Bí Tích Thánh Thể là nguồn tuyệt hảo của ơn tha thứ các tội
của cuộc vinh thắng Chúa Kitô trên tội lỗi nhờ cuộc Vượt Qua của Người và bây giờ được
thể hiện một cách riêng biệt qua bí tích Hòa Giải.
Tóm lại, cả hai bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội đều là bí tích của việc trở lại
và hòa giải cho người tín hữu có tội, mỗi bí tích ban ơn theo cách riêng của mình.
4.2 Bí tích Hòa Giải và bí tích Rửa Tội
Trong bí tích Hòa Giải, hối nhân thể hiện chức tư tế đã lãnh nhận trong bí tích Rửa
Tội, vì các hành động thống hối Kitô hữu làm là do ấn tín Rửa Tội nên các hành động này
được coi như là việc thi hành chức tư tế chung, và như vậy Kitô hữu tham dự cách tích

cực vào việc cử hành bí tích Hòa Giải. Bí tích Rửa Tội không thể cử hành hai lần cho một
người, bởi vì nó sinh hiệu quả thường trực nơi người lãnh nhận dẫn đưa họ vào Hội Thánh
và là cửa ngõ mở ra nguồn ơn thánh cho người Kitô hữu. Bí tích Hòa Giải được cử hành
nhiều lần mỗi khi người tín hữu đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trở về con đường công
chính mà họ đã khởi sự từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Có thể nói rằng bí tích Hòa Giải là một hành vi để phục hồi lại hiệu năng của bí
tích Rửa Tội, vì là một hành vi bí tích ban cho hối nhân một ân sủng mới, một ơn tha tội
mới khác với việc tha tội đã có trong bí tích Rửa Tội. Trong bí tích Hòa Giải, chúng ta có
một lời tha tội mới, hữu hiệu thực sự được đọc lên cho hối nhân thành thực ăn năn thống
hối tội của mình. Lời này làm cho sống động lại và làm cho nên sâu đậm hơn nữa tính
cách hữu hiệu và sứ mệnh của người đã lãnh nhận Phép Rửa. Khi Kitô hữu phạm tội chối
bỏ tác động của Chúa Thánh Thần, chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa thì tính cách hữu hiệu
cứu rỗi của việc sáp nhập vào trong Hội Thánh do ấn tín của bí tích Rửa Tội trở nên chết
và bất động nơi người tín hữu; nhưng khi hối nhân ăn năn thống hối chạy đến hòa giải với
Hội Thánh trong bí tích Hòa Giải thì ấn tín Rửa Tội bấy giờ trở nên hoạt động.
Ý nghĩa của việc cử hành bí tích Hòa Giải thật rõ ràng và làm cho việc xưng tội có
ý nghĩa đòi hỏi chúng ta phải cố gắng để cử hành và dấn thân trong việc trở về thực sự với
Trang 17

Thiên Chúa, với Hội Thánh, đòi hỏi chúng ta cùng Hội Thánh chiến đấu chống lại tội lỗi
và làm cho sự thánh thiện của Hội Thánh được sáng ngời hơn.
4.3 Bí tích Hòa Giải và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
Cả bí tích Hòa Giải và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cùng tha tội nhưng trong cách
thế khác nhau và quy hướng về nhau. Bí tích Hòa Giải là dấu hiệu đặc biệt để Chúa Kitô
ban ơn tha tội cho hối nhân qua dấu hiệu của việc hoán cải, ăn năn trở lại và qua việc hối
nhân hòa giải trong Hội Thánh. Còn bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân là dấu hiệu nói lên chiến
thắng trên bệnh tật và sự chiến thắng tội lỗi trong thời cánh chung. Như vậy, bí tích Xức
Dầu vẫn giả thiết hướng về bí tích Hòa Giải nhất là trong trường hợp các tội trọng.
Dầu có liên hệ như chúng ta vừa trình bày trên đây thì bí tích Hòa Giải vẫn là dấu
hiệu đầy đủ và đặc biệt của việc hoán cải và hòa giải của hối nhân, do đó trong trường hợp

tội trọng, bí tích Hòa Giải cùng với việc xưng thú từng tội như luật đòi buộc vẫn cần thiết
và được coi như để chuẩn bị cho việc lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Và khi bệnh
nhân không thể xưng thú các tội trọng như luật buộc, thì trong trường hợp này bí tích Xức
Dầu Bệnh Nhân ban ơn tha thứ các tội trọng và tội nhẹ miễn là có sự ăn năn cách trọn với
tình yêu mến hoàn toàn. Trong trường hợp này đòi hỏi nơi bệnh nhân có lòng ao ước lãnh
nhận bí tích Hòa Giải khi có thể hoặc việc lãnh nhận bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân quy
hướng về bí tích Hòa Giải tự trong chính việc cử hành nó vào lúc nguy kịch này, và bệnh
nhân buộc phải đi xưng tội riêng và rõ ràng từng tội một nếu được khỏi bệnh.

IV. Nhận định
Qua toàn bộ những gì đã trình bày, xin được mạn phép đưa ra một số nhận định để
tóm kết bài Tiểu luận này:
1. Quyền tha tội của linh mục được chính Đức Giêsu trao ban
Bí tích Hòa Giải chính là sáng kiến của Thiên Chúa, được Đức Giêsu thiết lập và
trao cho Hội Thánh thi hành. Chúng ta phải xác tín rằng linh mục giải tội là một con người
với tất cả sự nghèo khó và yếu đuối của kiếp người, để qua sự yếu đuối đó, Thiên Chúa tỏ
lộ quyền năng yêu thương của Ngài cho hối nhân.
2. Thiếu kiến thức Giáo lý nơi giới trẻ
Nhận diện sự khủng hoảng nơi giới trẻ đối với bí tích Hòa Giải có liên quan trực
tiếp với việc thiếu kiến thức Giáo lý. Hiện tượng các bạn trẻ bỏ học Giáo lý ngay sau khi
được xưng tội, rước lễ, thêm sức ngày càng trở nên phổ biến và mặc nhiên được chấp
nhận. Rõ ràng kiến thức ở trên trường lớp ngoài đời được ưu tiên hơn kiến thức Giáo lý.
Hơn nữa trình độ giáo lý viên tại các xứ đạo còn hạn chế dẫn đến việc không đủ kiến thức
dạy các bạn trẻ và làm cho lớp Giáo lý trở nên buồn tẻ. Đó là mối nguy thực sự đòi hỏi tất
cả mọi người phải cùng suy nghĩ và tìm giải pháp.
3. Mất phương hướng trong việc đưa ra chọn lựa chính
Quá nhiều cạm bẫy trong cuộc đời của các bạn trẻ ngày nay. Trước đây, việc các
bạn trẻ đến tham dự thánh lễ hằng ngày tại Nhà thờ là điều rất bình thường. Sau bữa ăn
tối, các thành viên trong gia đình quây quần lại trước Bàn thờ để đọc kinh, cầu nguyện.
Những chuyện đó dần trở thành các câu chuyện cổ tích. Trung tâm thu hút sự chú ý của

Trang 18

gia đình giờ đây không phải là Bàn thờ Thiên Chúa nữa, nhưng là cái tivi. Thậm chí các
máy vi tính, laptop còn cô lập các bạn trẻ trong phòng riêng và dần tách biệt họ khỏi môi
trường chung quanh. Trước các nguy cơ đó, các bạn trẻ rất dễ dàng mất phương hướng,
không biết đâu là chọn lựa đúng và thích hợp với mình.
4. Tìm lại ý nghĩa đích thực đời sống Kitô hữu
Vì lòng nhân từ, Thiên Chúa dựng nên chúng ta để sống với Ngài trong hạnh phúc.
Kiếm tìm hạnh phúc là mục đích duy nhất của đời người. Và hạnh phúc thật chỉ có nơi
Thiên Chúa và do Thiên Chúa. Thế nhưng tội lỗi ngăn cản chúng ta kết hợp với Thiên
Chúa, vì thế bí tích Hòa Giải là phương thế để nối lại sự kết hợp đó. Nơi bí tích đó, Thiên
Chúa tha thứ và thông ban ân sủng cho mỗi người để con người đủ sức chống lại các cám
dỗ và sống đời sống mới. Sống hiệu quả của bí tích Hòa Giải cũng là biết sống với các
Điều răn, các mối Phúc thật và Lệnh truyền yêu thương.

KẾT LUẬN
Nhân loại đã bước sang ngàn năm thứ III, trải qua gần 2000 năm lãnh nhận Sứ điệp
Tin Mừng của Chúa Kitô, thế nhưng đời sống của một số Kitô hữu vẫn giậm chân tại chỗ
hay có khi còn thụt lùi lại phía sau. Giáo dân đặc biệt tại các nước phát triển dần rời xa
Nhà thờ, và xa dần các bí tích. Đâu là lý giải cho tình trạng này. Hay phải chăng chính
chúng ta, những người xưng mình là Kitô hữu lại không sống đúng với men của Tin
Mừng, không trở nên ánh sáng cho trần gian, muối cho đời?
lxxxviii

Theo xu hướng của thế giới, các bạn trẻ Việt Nam bắt đầu có khuynh hướng giữ
đạo theo luật: chỉ đi lễ vào Chúa Nhật, xưng tội một lần trong năm để khỏi áy náy với
lương tâm. Họ dần rời xa Nhà thờ, xa các bí tích, kể cả bí tích Hòa Giải.
Vào cuối năm 1999, sắp sửa bước qua năm 2000, có rất nhiều lời đồn đại về ngày
tận thế chung của nhân loại. Người ta rủ nhau mua nào là nến, vải, nước rồi mang tới các
linh mục nhờ làm phép. Ai cũng lo sợ! Thế rồi năm 2000 cũng qua đi và ngày tận thế đó

chưa xảy ra vì không một ai được biết trước. Ở đây, xin nhấn mạnh rằng sẽ có một ngày
“tận thế” riêng của mỗi người: đó chính là lúc Thiên Chúa gọi chúng ta ra khỏi thế gian
này. Ngày đó sẽ đến bất ngờ như trong Tin Mừng của thánh sử Luca đã viết: “chính giờ
phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
lxxxix

Ngày đó sẽ đến và chúng ta sẽ phải ra trước tòa án của Thiên Chúa. Lúc đó, cho dù
tội nặng hay tội nhẹ, cho dù tội phạm công khai hay bí mật, tất cả đều tỏ tường trước mặt
Chúa. Đứng trước tòa án đó, bạn không còn quyền chọn lựa sống hay chết nữa, tất cả phụ
thuộc vào phán xét công minh của Thiên Chúa. Thử hỏi bạn có sợ cái ngày đó không?
Ngay bây giờ và ngay ở đời này, đang khi chúng ta còn quyền được chọn giữa sự
sống và cái chết nhờ ân sủng của bí tích Hòa Giải, để được trở lại mối hiệp thông Cha-
Con với Chúa Cha và hội nhập vào gia đình Hội Thánh, nơi những kẻ mắc tội trọng bị loại
ra, tại sao chúng ta không quý trọng và năng lãnh nhận bí tích đó? Đó là câu hỏi rất thiết
thực mong muốn gởi đến các bạn trẻ ngày hôm nay.


Trang 19

Tài liệu tham khảo
Bản dịch của Ban Giáo Lý Tgp. Tp. HCM. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo. Tp. HCM,
1997.
Bản dịch của Nhóm CGKPV. Kinh thánh cựu ước và tân ước: Lời Chúa cho mọi
người. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2009.
Báo cáo của anh Phi, Đại diện Ban Giáo Lý xứ Thủ Đức nhân dịp khai giảng Năm
Học Giáo Lý 2010-2011, Chúa Nhật 05.09.2010.
Đỗ, Xuân Quế. Thần học Bí Tích. Đức tin văn hóa, 2005.
Gioan Phaolô II, Tông huấn Hòa giải và Thống hối.
HĐGMVN-Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin. Bản toát yếu sách Giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo. Hà Nội: NXBTG, 2007.


(truy cập ngày 27.03.2011, lúc 16:00).

(truy cập ngày 03.05.2011, lúc 22:34).
Nguyễn, Trung Kỳ. Luận văn: Khủng hoảng của bí tích Hòa Giải ngày nay. HVĐM,?.
Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện & Mai Đức Vinh dịch. Bộ Giáo
Luật 1983.
Phạm, Quốc Văn. Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu. HVĐM, 2010.
Phan, Tấn Thành, Bí tích Hòa Giải. VN,1989.


i
Ga 3:5 (Trong bài Tiểu luận này, tất cả các trích dẫn lấy từ Kinh Thánh đều được trích trong cuốn: Kinh
Thánh Tân Ước & Cựu Ước – Lời Chúa Cho Mọi Người, Bản dịch của Nhóm CGKPV (Hà Nội: NXB Tôn Giáo,
2009).
ii
(truy cập ngày
27.03.2011, lúc 16:00).
iii
St 3:12.
iv
Sđd., 3:13.
v
x. Sđd., 3:23.
vi
Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (TPHCM, 1997), số 403.
vii
x. Cđ Trentô: DS 1512. Nhờ đọc GLHTCG, số 403.
viii
x. ST: Ia IIae; Q.81-85.

ix
x. Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (TPHCM, 1997), số 311.
x
St 3:9.
xi
x. St 3:21.
xii
Tv 103:12.
xiii
Lv 5:5-6.
xiv
x. Ds 21:4-5.
xv
x. Ds 21:8.
xvi
Ds 21:9.
xvii
Gioan Phaolô II, Tông huấn Hòa giải và Thống hối, số 7.
xviii
Mc 1:15.
xix
Lc 13:3.
xx
(truy cập ngày
03.05.2011, lúc 22:34).
xxi
x. Mc 3:28; Mt 12:31 (tt) & Lc 12:10.
xxii
Mt 5:23-24.
xxiii

Mt 18:12-14.
xxiv
Lc 15:18.
Trang 20


xxv
Lịch sử cứu độ cũng là lịch sử hòa giải: Thiên Chúa là Cha, đã hòa giải thế giới với mình trong Đức
Giêsu, Con Một của Người, nhờ đó nhân loại trở thành một gia đình được hòa giải (Gioan Phaolô II, Tông huấn
Hòa giải và Thống hối, số 4). Trích lại theo Phạm Quốc Văn, Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu, tr. 319.
xxvi
Phạm Quốc Văn, Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu (HVĐM, 2010), tr. 319-320.
xxvii
x. Ga 20:19-21.
xxviii
Ga 20:22-23.
xxix
x. HĐGMVN-Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Bản toát yếu sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (Hà
Nội: NXBTG, 2007), số 298, tr. 139.
xxx
Đỗ Xuân Quế, Thần học Bí Tích (Đức tin văn hóa, 2005), tr. 262.
xxxi
Phạm Quốc Văn, Sđd., tr. 317.
xxxii
Đỗ Xuân Quế, Sđd., tr. 288.
xxxiii
Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (TPHCM, 1997), số 1424.
xxxiv
x. Đỗ Xuân Quế, Sđd.,tr. 288.
xxxv

Đỗ Xuân Quế, Sđd., tr. 287.
xxxvi
Sđd., tr. 289.
xxxvii
Sđd.
xxxviii
Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (TPHCM, 1997), số 1468.
xxxix
Đỗ Xuân Quế, Sđd., tr. 283.
xl
x. Giáo lý Rô-ma 2,5,18.
xli
x. Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Sđd., số 1468.
xlii
Phạm Quốc Văn, Sđd., tr. 324.
xliii
Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Sđd., số 1469.
xliv
x. 1Cr 12:26.
xlv
Gioan Phaolô II, Tông huấn Hòa giải và sám hối, số 31.
xlvi
x. Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Sđd., số 1470.
xlvii
x. Phạm Quốc Văn, Sđd., tr. 324-326.
xlviii
(truy cập ngày
27.03.2011, lúc 16:00).
xlix
x. Phan Tấn Thành, Bí tích Hòa Giải (VN, 1989), tr. 1-2.

l
x. Báo cáo của anh Phi, Đại diện Ban Giáo Lý xứ Thủ Đức nhân dịp khai giảng Năm Học Giáo Lý 2010-
2011, Chúa Nhật 05.09.2010.
li
x. Đỗ Xuân Quế, Sđd., tr. 284-289.
lii
Mc 2:7.
liii
Mt 16:19.
liv
x. Nguyễn Trung Kỳ, Luận văn: Khủng hoảng của bí tích Hòa Giải ngày nay (HVĐM, ?), tr. 11.
lv
Bộ Giáo Luật 1983, Điều 983, triệt 1.
lvi
x. Sđd., Điều 983-984.
lvii
x. Sđd., Điều 978.
lviii
x. Phan Tấn Thành, Sđd., tr. 1-2.
lix
Ga 3:5.
lx
Ga 3:5.
lxi
x. Bản dịch của Ban Giáo Lý GP. TPHCM, Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (TPHCM, 1997), số 1227.
lxii
Mt 13:5.
lxiii
x. Nguyễn Trung Kỳ, Sđd., tr. 28-30.
lxiv

1Ga 1:8.
lxv
2Cr 12:7.
lxvi
Nhóm phiên dịch CGKPV, Kinh Thánh Tân Ước & Cựu Ước – Lời Chúa Cho Mọi Người (Hà Nội:
NXB Tôn Giáo, 2009), phần chú thích, tr. 2012.
lxvii
Rm 5:8.
lxviii
Nhóm phiên dịch CGKPV, Sđd., phần chú thích, tr.1667.
lxix
Mt 27:3-4.
lxx
Lc 22:61-62.
lxxi
Mt 27:5.
lxxii
(truy cập ngày
27.03.2011, lúc 16:00).
lxxiii
Sđd.
lxxiv
Sđd.
lxxv
x. 1Pr 2:24.
lxxvi
(truy cập ngày
27.03.2011, lúc 16:00).
lxxvii
Sđd.

lxxviii
1Ga 4:11.
lxxix
Mt 5:44.
Trang 21


lxxx
Rm 12:17.
lxxxi
St 1:26-30.
lxxxii
1Ga 3:1.
lxxxiii
1Ga 4:8.
lxxxiv
1Ga 4:10.
lxxxv
Rm 5:8.
lxxxvi
Lc 5:32.
lxxxvii
x. Lc 15:8-10; Lc 15:11-32.
lxxxviii
x. Mt 5:13-16.
lxxxix
Lc 12:40.

×