MỤC LỤC
NGHIÊN CỨU
VĂN HÓA
ISSN - 0866 - 7667
Số 35, tháng 3 - 2021
DI SẢN VĂN HĨA
Tổng biên tập
PGS.TS. ĐẶNG HỒI THU
Phó Tổng biên tập
PGS.TS. PHẠM THỊ THU HƯƠNG
Hội đồng biên tập
PGS.TS. NGUYỄN VĂN CẦN
PGS.TS. NGÔ VĂN GIÁ
PGS.TS. TRẦN ĐỨC NGÔN
PGS.TS. TRẦN THỊ MINH NGUYỆT
PGS.TS. ĐỖ THỊ QUYÊN
PGS.TS. DƯƠNG VĂN SÁU
PGS.TS. PHAN VĂN TÚ
Thư ký tòa soạn - Trị sự
TS. Nguyễn Anh Thư
Phan Việt Hà
Dịch tiếng Anh
ThS. Trương Sỹ Tâm
Hiệu đính tiếng Anh
ThS. Nguyễn Thị Thanh Hương
Thiết kế bìa
Họa sĩ Nguyễn Trần Cường
Địa chỉ liên lạc:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
418 Đê La Thành, Đống Đa, Hà Nội
ĐT: 024.38511971
Email:
Website:
Giấy phép xuất bản số 1111/GP/BTTTT
do Bộ Thông tin và Truyền thơng
cấp ngày 22/6/2012.
Nguyễn Thị Phương Châm: Ơng Đám trong lễ hội đình
Trà Cổ: Vai trị, vị thế và những chiều kết nối
5
Trần Văn Hiếu: Quyền văn hóa và vai trị của cộng đồng
trong phục dựng lễ hội Minh Nơng, Phú Thọ
14
Vũ Diệu Trung, Triệu Thị Tình: Giải pháp bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc tỉnh Hà Giang
21
Đỗ Thị Hương Thảo: Thái úy Tơ Hiến Thành - Từ di tích,
truyền thuyết đến khơng gian văn hóa
31
TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
Lê Thị Thu Hiền: Tín ngưỡng cư dân ven biển Đà Nẵng
thời kỳ đơ thị hóa: Xu hướng biến đổi và những vấn đề
đặt ra
41
Lê Anh Tuấn: Nghi lễ hiến sinh đầu thế kỷ XX ở miền núi
Đông Dương qua tập san BAVH (Chuyên đề “Những kẻ săn
máu” - về dân tộc Katu ở vùng Trường Sơn, trong tập san
BAVH, số 4, tập 25, xuất bản năm 1938)
51
Lê Thị Khánh Ly, Dương Hà My: Ảnh hưởng của giá trị
văn hóa Phật giáo đến đạo đức và lối sống con người Việt
Nam hiện nay
58
VĂN HĨA CẬN - HIỆN ĐẠI
Đặng Hồi Thu: Vai trị của văn hóa, văn nghệ trong chiến
dịch Điện Biên Phủ
67
Ngơ Văn Phong: Nhận diện thể loại Emagazine trên báo
mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
73
Đỗ Trần Phương: Công tác quản lý hướng dẫn viên du
lịch ở Việt Nam
82
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
Trương Thúy Mai: Về phương pháp “truyện kể” trong
nghiên cứu văn hóa
88
Nguyễn Đình Lâm: Quan hệ logic giữa giả thuyết, luận
điểm, luận cứ và phương pháp luận chứng trong lập luận
khoa học
94
Nhất Xuân: Đọc “Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc”,
nghĩ về cách tiếp cận trong nghiên cứu lễ hội
101
JOURNAL OF
CULTURE RESEARCH
CONTENTS
No. 35, March - 2021
ISSN - 0866 - 7667
CULTURAL HERITAGE
General Editor
Assoc.Prof.,Ph.D. DANG HOAI THU
Deputy General Editor
Assoc.Prof.,Ph.D. PHAM THI THU HUONG
Editorial Board
Assoc.Prof.,Ph.D. NGUYEN VAN CAN
Assoc.Prof.,Ph.D. NGO VAN GIA
Assoc.Prof.,Ph.D. TRAN DUC NGON
Assoc.Prof.,Ph.D. TRAN THI MINH NGUYET
Assoc.Prof., Ph.D. DO THI QUYEN
Assoc.Prof., Ph.D. DUONG VAN SAU
Assoc.Prof.,Ph.D.PHAN VAN TU
Editorial Secretary
Ph.D. Nguyen Anh Thu
Phan Viet Ha
English Translator
MA. Truong Sy Tam
English Reviser
MA. Nguyen Thi Thanh Huong
Cover presentation
Nguyen Tran Cuong
Office Address:
HANOI UNIVERSITY OF CULTURE
No 418, La Thanh Road,
Dong Da Dist., Hanoi City
Tel: 024.38511971
Email:
Website:
Publish license No. 1111/GP/BTTTT
by Ministry of Information and
Communication dated 22nd June, 2012
Nguyen Thi Phuong Cham: Mr. Dam in the festival of
Tra Co communal house: Role, position, and connection
dimensions
5
Tran Van Hieu: Cultural rights and roles of community in
the restoration process of Minh Nong festival - Phu Tho
14
Vu Dieu Trung, Trieu Thi Tinh: Solutions to preservation
and promotion of intangible cultural heritage of ethnic
people in Ha Giang province
Do Thi Huong Thao: The high - ranking mandarin To Hien
Thanh, from legends and vestiges to culture space
21
31
RELIGIONS AND BELIEFS
Le Thi Thu Hien: Danang coastal residents’ belief in the
industrialization process: Movement trends and issues
41
Le Anh Tuan: Hecatomb rituals in the Indochina
moutainous region in the first half of 20th century through
the journal BAVH (The special subject “Blood Hunters” - of
the Katu ethnic minority in the Truong Son region written
In the BAVH Journal, No. 4, volume 25, published in 1938)
51
Le Khanh Ly, Duong Ha My: The influence of Buddhist
culture on the morality and lifestyle of the Vietnamese
people
58
MODERN AND CONTEMPORARY CULTURE
Dang Hoai Thu: The role of culture and arts in the Dien
Bien Phu campaign
67
Ngo Van Phong: The identification of E-magazine on
electronic newspapers network in Vietnam today
73
Do Tran Phuong: The management of tour guide in
Vietnam
82
CDISCUSSION - PROFESSIONAL
Truong Thuy Mai: The method of “narrative” in cultural
research
88
Nguyen Dinh Lam: Logic relationship between the
hypotheses, theoretical point, foundation and method of
theoretical factual foundation in scientific argument
94
Nhat Xuan: Reading the book “Giong festival in Phu Dong
and Soc temples”, thinking about approach method in
festival research
101
DI SẢN VĂN HĨA
THÁI ÚY TƠ HIẾN THÀNH TỪ DI TÍCH, TRUYỀN THUYẾT ĐẾN KHƠNG GIAN VĂN HĨA
ĐỖ THỊ HƯƠNG THẢO*
Tóm tắt
Tơ Hiến Thành là một nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Lý. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được ghi
chép trong sử sách, truyền thuyết và thần tích. Trên cơ sở tiếp cận tư liệu từ các di tích, truyền thuyết,
thần tích liên quan đến Tơ Hiến Thành và định vị di tích trên bản đồ, bài viết nhằm làm rõ hơn những
đóng góp của Tơ Hiến Thành đối với lịch sử dựng nước và giữ nước cũng như sự nhập thân văn hóa của
ơng trong đời sống tín ngưỡng văn hóa dân gian Việt Nam.
Từ khóa: Tơ Hiến Thành, di tích, truyền thuyết, khơng gian văn hóa
Abstract
To Hien Thanh was a famous historical figure in the Ly dynasty. His life and career was recorded in
history books, legends and myths. On the basic of approaching documents from historical vestiges,
legends and stories which were relevant to To Hien Thanh as well as locating vestiges location on map,
this article points out the contributions of To Hien Thanh to the history of building and defending the
country and his cultural incarnation in the life of Vietnamese beliefs and folklore culture.
Keywords: To Hien Thanh, vestiges, legend, cultural space
1. Thái úy Tô Hiến Thành và các di tích thờ
Khổng Mạnh, võ bị tinh thơng thao lược, hay
ơng
nghề cung tên và thích đọc binh thư [17].
1.1. Vài nét về Thái úy Tô Hiến Thành
Tô Hiến Thành được trọng dụng dưới thời
Tô Hiến Thành là một vị đại thần nổi tiếng
vua Lý Anh Tông. Với tư cách là Thái phó, ơng
dưới triều Lý, q ở làng Hạ Mỗ, nay là xã Hạ
đã cùng Thái úy Đỗ Anh Vũ dẹp loạn Thân Lợi
Mỗ, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội1.
năm 1141. Sau khi Thái úy Đỗ Anh Vũ mất năm
Theo Ngọc phả Thái sư phụ chính đại thần triều
1158, Tô Hiến Thành nhận nhiệm vụ giúp vua
Lý Cao Tông Tô Hiến Thành [17], ông là người có
chèo lái đất nước. Khác với sự lộng quyền của
diện mạo khôi ngô, 5 tuổi đã am hiểu âm luật,
Đỗ Anh Vũ, mà sử chép là “ở triều đình thì khốt
17 tuổi tìm thầy lập nghiệp, học tiên sinh Hoa
tay lớn tiếng, sai bảo quan lại thì hất hàm ra
Đường, được vài năm văn chương thông hiểu
hiệu, mọi người đều liếc nhau nhưng khơng ai
dám nói” [3, tr.318], Tơ Hiến Thành là người hết
* TS., Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQGHN
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
lòng trung thành với nhà vua, với triều đình và
rộng hơn là với quốc gia, dân tộc. Sử gia Phan
NGHIÊN CỨU
VĂN HÓA
31
NGHIÊN CỨU
VĂN HĨA
Huy Chú nhận xét, Tơ Hiến Thành “cầm chính
quyền, rèn binh kén tướng, giảng trận pháp, bắt
tập cưỡi ngựa bắn cung, việc quân đội, việc biên
phòng nhất nhất được chấn chỉnh” [2, tr.221].
Gần 20 năm cuối của triều Lý Anh Tông,
với tư cách là trụ cột trong triều đình, Tơ Hiến
Thành đã giúp nhà vua cai quản quốc gia,
trong đó có việc xây dựng, chấn chỉnh quân
đội. Năm 1159, khi Ngưu Hống và Ai Lao làm
phản, Tô Hiến Thành đi trấn dẹp thành công và
được phong Thái úy [3, tr.323]. Sau sự kiện Tô
Hiến Thành đem quân đi đánh Chiêm Thành
năm 1167, “Chiêm Thành giữ lễ phiên thần,
dâng cống không thiếu” [3, tr.324]. Theo Keith
W. Taylor, đến thế kỷ XII, vị trí Thái úy trong
triều đình nhà Lý quan trọng hơn vị trí Thái sư.
Thái úy mới là người thực sự nắm giữ quyền lực
trong triều đình [19, tr.612]. Không chỉ là một
vị tướng giỏi cầm quân, Tô Hiến Thành còn là
người trọng văn hiến. Sách Khâm định Việt sử
thông giám cương mục và tư liệu địa phương
cho biết, năm 1156, Tô Hiến Thành xin vua Lý
lập đền thờ Khổng Tử ở phía nam Hồng thành
Thăng Long [13, tr.409], đồng thời tâu xin bãi
bỏ khoa thi Minh kinh bác học, thay bằng khoa
thi văn hóa để tìm người tài [10, tr.117].
Tháng Giêng năm 1175, vua Lý Anh Tông
lập Thái tử Long Trát làm Hồng thái tử, Tơ
Hiến Thành được phong Nhập nội kiểm hiệu
Thái phó bình chương qn quốc trọng sự,
tước vương, giúp đỡ Thái tử. Đến tháng Tư, khi
thấy mình khơng khỏe, vua Lý Anh Tơng đã
giao cho Tơ Hiến Thành thay mình điều hành
đất nước với tư cách “quyền nhiếp chính sự”.
Lúc vua ốm nặng, Chiêu Linh thái hậu (vợ cả
vua Anh Tông) đã xin với vua lập con mình là
Long Xưởng làm Thái tử nhưng Lý Anh Tông
từ chối. Sau khi vua băng hà, Thái hậu muốn
tiếp tục việc lập Long Xưởng, nhưng sợ Tô Hiến
Thành không nghe nên đã đem vàng bạc đút
cho vợ Hiến Thành. Tơ Hiến Thành nói: “Ta là
đại thần nhận mệnh tiên đế dặn lại giúp rập
32
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
vua bé, nay lấy của đút mà làm việc phế lập
thì cịn mặt mũi nào trơng thấy tiên đế ở suối
vàng?”. Thái hậu lại gọi Hiến Thành đến dỗ
dành trăm cách. Hiến Thành trả lời: “Làm việc
bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần
nghĩa sĩ đâu có vui làm, huống chi lời của Tiên
đế còn ở bên tai, điện hạ lại khơng nghe việc
của Y Dỗn, Hoắc Quang hay sao? Thần không
dám vâng chiếu” [3, tr.325-326]. Thái hậu đành
phải thôi. Những thông tin trên đây, đặc biệt
là câu chuyện Tô Hiến Thành từ chối vàng bạc
của Thái hậu được dân gian truyền nhau qua
nhiều thế hệ.
Vua Lý Cao Tông, tức Thái tử Long Trát, lên
ngôi lúc 3 tuổi, và vì vua cịn q nhỏ tuổi nên
Tơ Hiến Thành giúp rập vua công việc quốc gia,
tuy nhiên, khoảng thời gian khơng được dài, vì
năm 1179 ơng đã mất. Trước khi ơng mất, dân
gian cũng như chính sử vẫn cịn lưu truyền câu
chuyện nổi tiếng về việc trọng hiền tài của ông
khi đề xuất Thái hậu chọn Gián nghị đại phu
Trần Trung Tá thay vì chọn Tham tri chính sự
Vũ Tán Đường - người ngày đêm hầu cận trong
lúc Tô Hiến Thành nằm bệnh.
Đánh giá, ghi nhận công lao của ông qua hai
triều đại Lý Anh Tông và Lý Cao Tông, sử gia các
đời khen ngợi Tô Hiến Thành “cũng phảng phất
như trung ái của Y Dỗn, Chu Cơng” [3, tr.124]
và “thực không thẹn với phong thể bậc đại thần
xưa” [16, tr.498]. Cũng chính vì những đóng góp
đó, đến thời Trần Nghệ Tơng, năm 1394, triều
đình cho vẽ tranh “Tứ phụ” để ban cho Lê Quý
Ly về 4 viên đại thần giúp vua khi mới lên ngôi
là: Chu công giúp Thành Vương, Hoắc Quang
giúp Chiêu Đế, Khổng Minh giúp Hậu chúa và
Tô Hiến Thành giúp Cao Tông [14, tr.266].
Như vậy, theo ghi chép trong các tài liệu
lịch sử, Tô Hiến Thành là người có cơng lớn
trong việc tổ chức cơng việc triều chính, phị
vua giúp nước, tiến cử hiền tài, giữ yên biên
thùy, mở mang văn hiến.
DI SẢN VĂN HĨA
1.2. Các di tích thờ Tơ Hiến Thành trên cả
nước
Sau khi mất, Tô Hiến Thành được các triều
đại sắc phong và ông được nhiều làng thờ làm
phúc thần, thành hồng làng. Tương truyền,
cả nước có khoảng 200 đình, đền thờ Tơ Hiến
Thành [10, tr.120]. Có thể đây là con số mang
tính “ước lệ” nhiều hơn là con số chính xác, và
điều này cũng phản ánh một thực tế là các di
tích thờ Tơ Hiến Thành khá nhiều, bởi trong
tâm thức dân gian, ông là nhân vật lịch sử có
tầm cỡ. Những di tích thờ Tơ Hiến Thành trải
từ quê hương Hạ Mỗ của ông, qua nhiều tỉnh
thành ở châu thổ sông Hồng như Bắc Ninh, Hải
Dương, Hải Phịng, Ninh Bình, Thái Bình, Nam
Định và xuống đến vùng Thanh Hóa, Hà Tĩnh.
Thống kê từ Thư mục thần tích, thần sắc kết
hợp với các nguồn tài liệu khác như tài liệu địa
chí của các địa phương, các trang Cổng thơng
tin điện tử chính thức của các tỉnh, trang thơng
tin của dịng họ Tơ Việt Nam cũng như tư liệu
điền dã, chúng tôi tạm xác định các địa điểm
thờ Tô Hiến Thành như sau2:
Tại Hà Nội, ngoài quê hương Hạ Mỗ của
ơng, các di tích thờ Tơ Hiến Thành đều nằm
trên đất huyện Thanh Trì, gồm: làng Lạc Thị
nay là thơn Lạc Thị, xã Ngọc Hồi [32, tr.265];
làng Ích Vịnh và làng Quỳnh Đô thuộc xã Vĩnh
Quỳnh [31, tr.349,610].
Tại Bắc Ninh, các di tích thờ Tơ Hiến Thành
tập trung ở tổng Phá Lãng xưa, nay thuộc
huyện Lương Tài, gồm: thôn Giàng và thôn
Bùi, nay là làng Giàng và làng Bùi thuộc thị
trấn Thứa [30]; làng Trình Khê, nay thuộc xã
Trung Chính [31, tr.349,761]; làng Kim Đào, nay
thuộc thị trấn Thứa [32, tr.67]. Các làng gần
làng Trình Khê là Nhuế Đơng, An Khối, Phá
Lãng cũng thờ Tơ Hiến Thành [24]. Thần tích,
thần sắc làng Phá Lãng (Bắc Ninh) ghi có 72
làng thờ Tô Hiến Thành, nhưng tiếc là không
ghi địa điểm cụ thể [23].
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
Tại Hải Dương có thơn Trạm Du, tổng An
Trang, nay thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng
thờ Tô Hiến Thành [32, tr.438]. Tuy nhiên, do
đình làng Trạm Du bị mục nát nên hiện nay
Thành hồng Tơ Hiến Thành của làng Trạm Du
được chuyển về thờ tại Nghè Giám (nằm cạnh
chùa Giám), xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng [37].
Tại Thái Bình có miếu Ngọc thuộc xã Quỳnh
Hồng, huyện Quỳnh Phụ [4].
Tại Nam Định có xã Hà Cát, tổng Hà Cát,
huyện Giao Thủy [31, tr.283].
Tại Ninh Bình, các đình và đền thờ Tơ Hiến
Thành đều tập trung ở huyện Gia Viễn: đền thờ
Đức Thánh Nguyễn ở làng Điềm Xá, xã Điềm
Giang, tổng Đại Hữu, nay thuộc xã Gia Thắng
và Gia Tiến [32, tr.843]; đền thờ Đức Thánh Tô
Hiến Thành (thôn Xuân Lai, xã Gia Tiến); đình
Trùng Hạ, đình Trùng Thượng (thơn Tùy Hối,
xã Gia Tân) [31, tr.652-653]; đình Vân Thị (thơn
Vân Thị, xã Gia Tân) [32, tr.845]; đình núi Thiệu
(thơn Thần Thiệu, xã Gia Tân), đền Sào Long
(thôn Sào Long, xã Gia Lập) và đền Đồng Mỹ
(xã Gia Lập).
Tại Hải Phịng, có các làng Cổ Am, Tiên Am,
Đông Am, Lạng Am thuộc huyện Vĩnh Bảo
[9, tr.536].
Tại Thanh Hóa, tương truyền có 72 cơ sở
thờ tự Tơ Hiến Thành [34]. Theo Đại Nam nhất
thống chí, riêng “các huyện thuộc ba phủ Hà
Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia có 57 xã thơn
phụng thờ” [14, tr.338]. Tại thị trấn Sầm Sơn
có đền Đệ Nhị, hay cịn gọi là đền Trung thờ
Tô Hiến Thành, nằm trên dãy đồi cao của núi
Trường Lệ. Riêng huyện Hà Trung “có 25 xã thì
đã có tới 20 xã thờ Tơ Hiến Thành” [29], trong
đó, đền Đệ Nhất chính từ thuộc làng Cẩm
Đới, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà
Trung, nay thuộc làng Chánh Lộc, xã Hà Giang
được xem là nơi thờ tự chính. Ngồi ra, cịn có
đình Trung ở xã Hà n, đình Động Bồng ở xã
NGHIÊN CỨU
VĂN HĨA
33
NGHIÊN CỨU
VĂN HĨA
Hà Tiến… Huyện Hoằng Hóa có nghè Hà Lộ ở
thôn Tiền, xã Hà Lộ, nay là xã Hoằng Tiến; nghè
Vĩnh Gia ở làng Vĩnh Gia, xã Hoằng Phượng.
Huyện Tĩnh Gia có làng Vích, Lạch Trường, Đa
Văn [33] và đền Lạch Bạng thuộc xã Hải Thanh
[6] thờ Tô Hiến Thành.
Tại Hà Tĩnh, các di tích thờ Tơ Hiến Thành
bao gồm: huyện Nghi Xn có đình và đền
Hội Thống (cịn gọi là đình Kiên Nghĩa) ở xã
Xuân Hội [5, tr.400]; đền Am xã Xuân Liên; đền
Thượng làng Vân Hải, xã Cổ Đạm. Huyện Thạch
Hà có: đền Tam Tịa đại vương thuộc xóm Phúc
Tiến, thơn Chi Phan, phủ Thạch Hà, nay là xã
Thạch Tiến; miếu Đôi ở xã Thạch Quý; đền Kinh
Thượng ở xã Thạch Hưng [20]. Huyện Cẩm
Xuyên có đền Hữu Quyền thuộc xã Cẩm Huy
[20]. Huyện Thạch Vĩnh có miếu Mây thuộc
thôn Vĩnh Trung, xã Thạch Vĩnh.
Chúng tôi đã tiến hành đánh dấu các di
tích thờ Tơ Hiến Thành trên bản đồ hiện nay
(bản đồ Google Maps)3 giúp nhận diện rõ hơn
về sự phân bố các điểm thờ tự Tơ Hiến Thành
đã nhắc đến ở phần trên (Hình 1). Bản đồ này
cũng giúp chúng tơi phân tích và trả lời các
câu hỏi vì sao Tơ Hiến Thành được dân ở các
tỉnh thờ nhiều như vậy và tại sao lại tập trung
vào một số huyện, tỉnh nhất định mà chúng tơi
sẽ nói rõ hơn ở phần sau.
2. Khơng gian văn hóa Tơ Hiến Thành
Là một Thái phó, Thái úy trong triều đình,
nhưng trong tâm thức dân gian của cư dân
đồng bằng châu thổ sông Hồng trải đến vùng
Bắc Trung Bộ, từ quan đầu triều,
Tô Hiến Thành đã trở thành phúc
tướng, phúc thần bảo vệ đời sống
cư dân ở các xóm làng.
2.1. Địa bàn phân bố các di tích
thờ Tơ Hiến Thành
Thử lý giải về lý do thờ tự và địa
bàn phân bố của những di tích thờ
Tơ Hiến Thành ở các vùng, chúng
tơi nhận thấy:
Hình 1. Các di tích thờ Tơ Hiến Thành trong cả nước
(điểm trịn đậm) (Nguồn: Google Maps)
34
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
Trước hết, tại Hạ Mỗ (Hà Nội) có
di tích Văn Hiến đường thờ Tơ Hiến
Thành vì đó là q gốc của ơng
theo như đa phần nhận thức của
lịch sử và của người dân hiện nay.
Ngoài ra, ở Hà Nội có đền thờ vợ
chồng ơng ở thơn Lạc Thị, xã Ngọc
Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội vì đó là
q vợ của ơng. Lúc sinh thời, ơng
cùng vợ hay qua lại Kẻ Giả: Giả Chợ
(Lạc Thị), Giả Viềng (Ích Vịnh) và Giả
Cầu (Quỳnh Đơ) làm việc tâm đức,
nên ơng được nhân dân nơi đây
kính trọng và thờ cúng [11, tr.52].
DI SẢN VĂN HĨA
Các di tích này đều gần với sơng Tơ Lịch, nối ra
với sơng Hồng.
Tại Ninh Bình, những di tích thờ Tơ Hiến
Thành đều tập trung ở huyện Gia Viễn, bờ tả
ngạn của con sơng Hồng Long, nơi tiếp giáp
giữa sơng Hồng Long và sơng Đáy. Việc nhân
dân Ninh Bình thờ ơng, có lẽ khơng chỉ do
việc cha mẹ ông đến cầu tự ông ở đền Đức
Thánh Nguyễn Minh Khơng mà cịn có thêm
những ngun do khác. Theo Ngọc phả, sau
khi làm quan được 2 năm dưới triều vua Lý
Anh Tông, ông xin về phụng dưỡng cha mẹ,
được vua ban cho vàng bạc, gấm vóc hơn 100
cân. Ngồi số tiền dùng để phụng dưỡng cha
mẹ, số thừa ông chia cho nhân dân xã Đàm Xá,
huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Sau khi cha mẹ mất,
ơng trở lại triều đình nhậm chức Đơ chiêu sứ
chiêu mộ binh sĩ, phịng ngự biên cảnh, ông
đã chọn 140 người xã Đàm Xá làm gia thân
[17]. Do vậy, người dân Đàm Xá nói riêng và
Gia Viễn nói chung có liên quan mật thiết tới
Tơ Hiến Thành. Ngoài ra, tại các địa điểm khác
ở Ninh Bình như đền Vân Thị, đình Trùng, đình
Thượng, xã Gia Tân, huyện Gia Viễn, Tơ Hiến
Thành được dân thờ có thể do đây là những
vùng thuộc thực ấp của ông, vì Ngọc phả có
viết: “vua Anh Tơng phong cho ơng thực ấp Ái
Châu, phủ Trường An”.
Tại Bắc Ninh và Hải Dương, các di tích thờ
Tơ Hiến Thành nằm ở gần sông Thứa và sông
Cẩm Giàng, các sông này đều đổ ra sơng Thái
Bình. Rất có thể là các di tích thờ Tơ Hiến Thành
ở Bắc Ninh, Hải Dương có ít nhiều liên quan
đến việc ông được triều Lý phong cho ruộng
đất. Thời Lý - Trần, Hải Phịng gắn bó hữu cơ
với Hải Dương [36, tr.206]. Thần tích làng Viên
Lang và Cổ Am (Vĩnh Bảo, Hải Phịng) đều ghi
Tơ Hiến Thành đánh giặc có cơng được phong
thực ấp, dân được nhờ nhiều ân trạch nên thờ
ơng [25]. Thực ấp chính là “ruộng đất và những
hộ nông dân sống trên ruộng đất đó” [1, tr.729]
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
được nhà Lý phân phong cho Tô Hiến Thành
trên cơ sở những công trạng của ơng. Tại di
tích đền Thánh Tơ và núi Kiếm Lĩnh (Ninh Bình)
vẫn cịn đơi câu đối ghi rõ: “Thời nhà Lý phù
giúp đất nước, cịn lưu kỳ tích huy hoàng/ Trải
qua các triều được phong tặng, đất thang mộc
dân được hồng ân”4.
Tại Thái Bình, địa điểm thờ Tơ Hiến Thành
nằm gần sơng Luộc, từ đó đổ ra sơng Thái Bình.
Tại Nam Định, di tích thờ Tơ Hiến Thành nằm
gần sơng Hồng, từ đó đổ xi ra cửa Ba Lạt.
Tại Hải Phịng, các di tích thờ Tơ Hiến Thành
thuộc các làng Am nằm gần sơng Hóa, từ đó nối
với sơng Thái Bình, rồi đổ ra cửa biển Thái Bình.
Tại Thanh Hóa, các địa điểm thờ Tơ Hiến
Thành nằm gần sơng Hoạt, nối với sơng Chính
Đại đổ ra sơng Càn hoặc gần sông Mã và nằm
sát đường bờ biển (Hải Tiến, Sầm Sơn). Theo
Ngọc phả, Tô Hiến Thành được phong thực ấp
ở châu Ái, tức Thanh Hóa.
Tại Hà Tĩnh, các di tích thờ Tơ Hiến Thành
gần với sơng Rào Cái và sông Lạc Giang, các
con sông này nối với Cửa Sót và Cửa Nhượng
(Thiên Cầm).
Từ điểm chung của các di tích thờ Tơ Hiến
Thành đều rất gần các con sơng, các con sơng
này sau đó sẽ đổ ra hệ thống các sơng chính
và đổ ra biển, theo hướng từ tây sang đơng
(Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Hải
Phịng) rồi dọc theo đường biển đi xuống phía
nam (Thanh Hóa, Hà Tĩnh) khiến chúng ta có
thể suy đốn: có lẽ những di tích thờ Tơ Hiến
Thành ghi dấu những địa điểm nằm trên con
đường mà ông đã từng đi qua dưới thời Lý để
bình Chiêm.
Trở lại chính sử, năm 1161, Tơ Hiến Thành
dẫn hai vạn binh lính đi tuần miền Tây Nam và
các nơi ven biển để giữ yên, trấn áp các vùng
biên giới và ven biển. Sử sách không chép rõ
các tỉnh ven biển mà ông đã từng đi qua là
NGHIÊN CỨU
VĂN HÓA
35
NGHIÊN CỨU
VĂN HĨA
những tỉnh nào, tuy nhiên, nhìn vào địa bàn
phân bố các di tích thờ Tơ Hiến Thành được
định vị trên bản đồ, chúng ta tạm hình dung
được các địa điểm ven biển hay con đường mà
ơng có thể đã đi qua khi đi đánh Chiêm Thành,
đó là dọc theo các con sơng chính rồi ra tới các
nơi ven biển (biển Hải Tiến, Sầm Sơn - Thanh
Hóa, biển Hà Tĩnh) để quản lý đường biên giới
trên biển. Mặc dù chúng ta đều biết rằng, địa
hình và vị trí địa lý của các cửa biển thời Lý Trần khác rất nhiều so với ngày nay5, nhưng
những di tích này cũng cho chúng ta những ý
niệm nhất định về dấu ấn của những nơi mà Tô
Hiến Thành đã đi qua.
Không chỉ là người có cơng bình Chiêm,
với các địa phương mà ông đã đi qua, trong
quá trình dẫn quân đi tuần ven biển, Tơ Hiến
Thành cịn có cơng mở mang đất đai, dạy dân
các vùng ven biển thuộc các tỉnh Hải Phịng,
Thanh Hóa, Hà Tĩnh ngày nay cách khai hoang
lấn biển.
Truyền thuyết dân gian, sắc phong thành
hoàng của làng Cổ Am coi Tơ Hiến Thành là
người có cơng trị thủy đắp đê ngăn mặn, mở
mang vùng đất Cổ Am (Hải Phòng), được vua
Lý phong thái ấp [9, tr.535-536]. Tương truyền,
tại vùng đất của các làng Am, người dân tổ
chức quai đê lấn biển nhưng không thành.
Khi Thái úy Tô Hiến Thành được triều đình cử
ra Ngải Mơn quan giúp dân trị thủy, khai khẩn
đất hoang mở rộng sản xuất, củng cố đồn trú
canh phịng bờ biển, ơng đã huy động qn
và dân các vùng Hải Dương, Thái Bình và Hải
Phịng đắp đê biển Ngải Am. Trải qua nhiều
khó khăn, cùng với sự giúp đỡ của thần linh,
những nỗ lực của Tô Hiến Thành cùng với
người dân đã gặt hái được thành tựu với con
đê kè bằng đá dài 5 - 6km, chặn đứng mọi cơn
sóng biển hung dữ. Dân làng Cổ Am cảm ơn
công đức mà lập miếu thờ ông và suy tơn ơng
là Thành hồng làng [35, tr.320].
36
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
Đối với cư dân Thanh Hóa, tương truyền,
trên đường đi dẹp Chiêm Thành, quan đại
thần Tô Hiến Thành đã có cơng giúp nhân dân
vùng biển nói chung và nhân dân Sầm Sơn nói
riêng cách lấn biển, lập làng, khai hoang, xây
dựng cuộc sống. Đối với người dân Hà Tĩnh, Tô
Hiến Thành coi dân như con, mấy năm liền hai
huyện Nga Sơn và Tống Sơn mất mùa, ông tâu
lên vua xin cho dân nơi đây được miễn thuế,
khỏi phải phiêu tán. Vì vậy, người dân ở những
vùng đất này rất coi trọng và nhớ ơn, lập đền
thờ ông.
Như vậy, có thể tạm hình dung sự phân bố
các di tích thờ Tơ Hiến Thành có liên quan đến
cuộc đời và sự nghiệp của ơng. Đó có thể là
vùng liên quan đến q hương ơng, có thể là
nơi ơng được triều đình phong thực ấp, hoặc
có thể là vùng mà ơng đã giúp dân khai hoang
lấn biển, mở rộng sản xuất…
2.2. Sự nhập thân văn hóa của Thái úy Tơ
Hiến Thành trong tín ngưỡng dân gian
Ngồi những di tích mà Tơ Hiến Thành được
thờ độc lập như một thành hoàng làng (Lã Thị,
Ích Vịnh, Quỳnh Đơ, Cổ Am…), ở khá nhiều di
tích, ơng được phối thờ hoặc hóa thân vào các
thần thánh và các nhân vật lịch sử khác. Trong
tâm thức dân gian, những nơi thờ Tô Hiến
Thành đều rất linh thiêng, “dân gian có điều gì
đến mật cầu đều được linh nghiệm” [26].
Tại các di tích ở Ninh Bình, Tơ Hiến Thành
được thờ cùng với vua Đinh Tiên Hoàng và
Thiền sư - Quốc sư Nguyễn Minh Không. Nếu
Nguyễn Minh Không được dân phong là Đức
Thánh Cả thì Tơ Hiến Thành là Đức Thánh Hai.
Hiện nay, người dân Ninh Bình vẫn còn lưu
truyền câu tục ngữ: “Điềm Giang Thánh Cả,
Điềm Xá Thánh Nhị” ngụ ý đền Điềm Giang
(xã Gia Thắng) thờ Đức Thánh Nguyễn Minh
Không, gọi là Đức Thánh Cả và đền Điềm Xá
(xã Gia Tiến) ở chân núi Kiếm Lĩnh, thờ Thái
DI SẢN VĂN HĨA
sư Tơ Hiến Thành thời Lý, gọi là Đức Thánh
Nhị. Tại Đàm Xá và những vùng xung quanh,
để tỏ lịng kính trọng Thiền sư Nguyễn Minh
Khơng (tức Nguyễn Chí Thành) và Tơ Hiến
Thành, người ta kiêng húy chữ “Thành”. Mọi từ
có âm “Thành” đều được đọc chệch thành âm
“Thiềng”. Tại làng Lạc Thị (Thanh Trì, Hà Nội),
thần tích cũng ghi rõ, người dân nơi đây khi
đọc, khi nói phải kiêng chữ “Thành” thành chữ
“Thiềng” [22] giống như ở Ninh Bình.
Tại Sầm Sơn, Thanh Hóa, đền thờ Tơ Hiến
Thành được gọi là đền Trung, bởi ông chỉ đứng
sau có thần Độc Cước được thờ trong đền
Thượng. Đền Lạch Bạng (Thanh Hóa) là nơi
Tơ Hiến Thành được thờ cùng với Tứ vị Thánh
nương, Lý Thường Kiệt và Hoàng Minh Tự.
Tại một số nơi, như Văn Hiến đường (Hạ Mỗ,
Hà Nội) và miếu Tràng (Cổ Am, Hải Phịng), Tơ
Hiến Thành được thờ chung với Khổng Tử, có
lẽ vì ơng là người xin vua Lý lập miếu Khổng
Tử ở phía nam thành Thăng Long như đã nói
ở trên.
Càng đi xuống phía nam, sự nhập thân văn
hóa của Tơ Hiến Thành càng mở rộng và đa
dạng. Tại Nghè Hà Lộ (Hoằng Tiến, Thanh Hóa),
đền thờ Tơ Hiến Thành cịn được gọi là đền thờ
Sát Hải Đại vương, và nơi đây, ông lại được coi
là Đức Thánh Cả [12]. Tại làng Viên Lang (Hải
Phịng), theo thần tích, làng thờ “Nam Hải Tơ
Thái úy đại vương, húy Tô Hiến Thành” [25]. Tại
miếu Tràng, làng Cổ Am (Hải Phịng), Tơ Hiến
Thành được coi là Nam Hải Đại Vương, ngày
trước đi tuần đến ban ơn cho dân thơn [21].
Tại làng Lạng Am (Hải Phịng), Tơ Hiến Thành
được thờ chung với Nam Hải tơn thần [26].
Cịn tại đền chính từ Cẩm Đới và một số nơi ở
Thanh Hóa, Tơ Hiến Thành được phối thờ cùng
Tống Cơng Liêu - một thần y, một nhà địa lý
phong thủy kiểu đạo sĩ, từ Trung Quốc sang
Việt Nam lánh nạn, làm nhiều việc giúp đạo,
giúp đời.
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
Như vậy, ở đây chúng ta thấy, đã có sự hỗn
dung tín ngưỡng trong việc thờ tự Tơ Hiến
Thành. Ơng đã hội nhập cả với Nho giáo (được
thờ cùng với Khổng Tử), với Đạo giáo (được
thờ cùng với Tống Công Liêu hay Tống quốc
sư), với tín ngưỡng dân gian của cư dân vùng
đồng bằng (được thờ cùng với các nhân thần
Lý Thường Kiệt, Nguyễn Minh Khơng…) và với
tín ngưỡng dân gian của cư dân vùng ven biển
(được thờ cùng hoặc hóa thân thành Nam Hải
Đại vương).
Gắn với hệ thống các di tích thờ Tơ Hiến
Thành là hệ thống các sắc phong, thần tích
và lễ hội của các làng xã có thờ ông. Với tư
cách là thành hoàng làng hoặc phúc thần, Tô
Hiến Thành đều được các triều đại sắc phong.
Tùy từng địa phương mà Tô Hiến Thành được
phong là Trung đẳng thần hoặc Thượng đẳng
thần. Đa phần tại các nơi thờ tự, ông được
phong là Thượng đẳng thần, với nhiều phong
tặng như: Trung nghĩa đại vương, Thông minh
cảm ứng đại vương.... Trong nhiều sắc phong,
ông được gọi là Tô Đại Liêu. Dân gian gọi ông
là Đức Thánh Tô.
Riêng làng Lạc Thị (Thanh Trì, Hà Nội), nơi
Tơ Hiến Thành được thờ làm Thành Hồng
làng, có 16 đạo sắc phong từ thời Cảnh Hưng
năm thứ nhất (1740) cho đến Cảnh Thịnh,
Quang Trung, Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị,
Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân và
Khải Định năm thứ 9 (1924) [22]. Làng Trình
Khê (Bắc Ninh) có 15 đạo sắc phong cho Thành
hồng làng Tô Hiến Thành từ thời Cảnh Hưng
thứ 28 (1767) cho đến đời Khải Định năm thứ
9. Đền Nhị ở phường Trường Sơn, thị xã Sầm
Sơn, Thanh Hóa có các sắc phong từ năm Tự
Đức thứ 6 (1853) cho đến năm Khải Định thứ
9 phong cho thôn Núi, xã Lương Niệm, huyện
Quảng Xương thờ Tô Đại Liêu [7, tr.134]. Đền
thờ Tơ Hiến Thành ở làng Trạm Du, Hải Dương
có 8 đạo sắc phong [32, tr.438]; đình Vân Thị,
NGHIÊN CỨU
VĂN HĨA
37
NGHIÊN CỨU
VĂN HĨA
huyện Gia Viễn, Ninh Bình có 5 đạo sắc phong
từ Minh Mệnh năm thứ 6 (1825) đến Khải Định
năm thứ 9 [27]; miếu Tràng làng Cổ Am, Hải
Phòng có 6 đạo sắc phong từ thời Cảnh Hưng
năm thứ 44 (1783) đến Khải Định năm thứ 9
[21]. Gần đây, tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh, trong quá trình khảo sát, sưu tầm, số hóa
tư liệu Hán Nơm, có phát hiện tại đền Thượng,
xã Cổ Đạm hiện đang lưu giữ 8 đạo sắc phong
thời Nguyễn từ thời vua Thiệu Trị đến thời vua
Khải Định liên quan đến Thái úy Tô Hiến Thành
[8]. Ngoài ra, tại đền Am xã Xuân Liên cũng
phát hiện thêm sắc phong có niên đại Đồng
Khánh thứ 2 (1887) với nội dung giao cho xã
Cương Đoán, nay là xã Cương Gián, huyện
Nghi Xuân thờ phụng Tô Hiến Thành [8].
Tại một số nơi, việc thờ tự Tô Hiến Thành
còn gắn với lễ hội của dân làng. Lễ hội của làng
Ích Vịnh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà
Nội tổ chức vào ngày sinh 22 tháng Giêng và
ngày mất 12 tháng Sáu âm lịch để tưởng nhớ
Tô Hiến Thành. Lễ hội làng Quỳnh Đô tổ chức
từ ngày 5 đến ngày 7 tháng Hai âm lịch để
tưởng nhớ vị Thành hồng làng Tơ Hiến Thành
với đồn rước gồm đi đầu là màn múa sư tử,
tiếp đến là đội cờ, rồi đến kiệu Ơng, kiệu Bà.
Đa phần các di tích thờ Tơ Hiến Thành ở Ninh
Bình đều tổ chức lễ hội vào ngày sinh và ngày
hóa của ơng.
Hệ thống các đền thờ, sắc phong, thần
tích và lễ hội liên quan đến Tơ Hiến Thành là
những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
quan trọng trong đời sống tinh thần của người
Việt. Điều này cho thấy, trên thực tế, ngoài sức
ảnh hưởng của một nhân vật lịch sử, với sự
kính trọng và sùng bái của người dân, thông
qua các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, Tơ
Hiến Thành đã tạo ra một khơng gian văn hóa
trải dài từ Thăng Long - Hà Nội (nơi ơng sinh
ra, tham gia triều chính), mở rộng ra các tỉnh
châu thổ sông Hồng, theo hệ thống các sông
38
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
đổ ra cửa biển theo hướng đơng, và tiếp tục
đi xuống phía nam của Đại Việt tới miền Bắc
Trung Bộ (nơi ông được phong thực ấp và giúp
dân khai hoang, lấn biển, lập nghiệp).
Thay lời kết
Với những đóng góp to lớn trong triều đình
cũng như trong lịch sử phát triển của quốc gia
dân tộc, từ con người thực là một vị Thái phó,
Thái úy của triều Lý, Tô Hiến Thành đã nhập
thân vào đời sống văn hóa tín ngưỡng dân
gian rộng khắp và đa chiều. Chính nhờ cơng
lao dẹp giặc, phù giúp hai triều vua Lý vượt
qua những khó khăn, đem lại thái bình cho đất
nước, cùng với việc giỏi chính sự, trọng người
hiền,… nên sau khi ông mất, nhiều địa phương
trong cả nước như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải
Dương, Hải Phịng, Thái Bình, Ninh Bình, Nam
Định, Thanh Hóa, Hà Tĩnh,… đều lập đền thờ
ơng. Thậm chí người đời sau cịn sánh ơng với
Gia Cát Lượng [28, tr.1277]. Ông được rất nhiều
làng, xã ở đồng bằng châu thổ sông Hồng và
Bắc Trung Bộ thờ cúng bởi sự trung thành của
ông đối với vua Lý Anh Tơng và Lý Cao Tơng, sự
liêm chính và cơng minh, sự khảng khái cương
nghị trong việc lựa chọn nhân tài, khơng gì
mua chuộc được. Ơng là một danh nhân văn
hóa, chính trị, qn sự của triều Lý nói riêng và
của đất nước nói chung.
Có thể có những dị bản khác nhau về quê
hương của ông và một số câu chuyện liên
quan đến ông, nhưng đối với dân gian, ông
là nơi người dân gửi gắm niềm tin như một vị
thành hồng làng, một vị phúc thần. Lược đồ
hóa những di tích thờ Tơ Hiến Thành phản ánh
rõ nét khơng gian văn hóa mà Tơ Hiến Thành
tạo nên bởi tài năng và đức độ của ơng trong
q trình rời Thăng Long đi giữ yên đường
biên giới bờ biển của quốc gia. Khơng gian văn
hóa ấy, một lần nữa trở lại giúp củng cố nhận
thức lịch sử về sức mạnh của Đại Việt, về ý thức
chủ quyền quốc gia, về không gian sống của
DI SẢN VĂN HÓA
người Việt thời Lý. Cho đến ngày nay, khơng
gian văn hóa Tơ Hiến Thành vẫn tiếp tục được
duy trì, bảo lưu và chuyển tiếp tới các thế hệ
sau thơng qua các hoạt động thờ cúng, tín
ngưỡng; các câu chuyện kể, truyền thuyết và
huyền tích…
Mặc dù đã cách ngày nay hơn 800 năm lịch
sử, nhưng những gì mà Tơ Hiến Thành đóng
góp cho lịch sử quốc gia và quan trọng hơn bài
học nhân cách về làm người, làm tơi trung với
nước của ơng vẫn cịn ngun giá trị. Các di
tích, truyền thuyết, lễ hội về ơng vẫn sống mãi
trong đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt, và quan trọng hơn, việc nhận diện khơng
gian văn hóa có liên quan đến Thái úy Tô Hiến
Thành càng chứng minh sức mạnh, sức lan tỏa
của ông trong lịch sử quốc gia, dân tộc.
Đ.T.H.T
Chú thích
Tuy nhiên, Ngọc phả Thái sư phụ chính đại
thần triều Lý Cao Tơng Tơ Hiến Thành lưu giữ tại
đền Thánh Tô ở núi Kiếm Lĩnh, xã Gia Tiến, huyện
Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình thì ghi ơng là người quê
ở huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, châu Ái nay
thuộc tỉnh Thanh Hóa.
1
Theo chúng tơi, có thể các di tích thờ Tơ Hiến
Thành trên địa bàn cả nước cịn nhiều hơn những
thống kê trong bài viết này, nhưng do điều kiện
có hạn nên chúng tơi tạm nêu ra đây theo những
tư liệu mà chúng tơi có thể tiếp cận.
2
Có một số di tích như đền thờ Tơ Hiến
Thành ở Nhuế Đơng, An Khối (Bắc Ninh) chúng
tơi chưa xác định được địa điểm chính xác trên
Google Maps.
3
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Phương Chi (2010), “Tình hình
ruộng đất và đời sống kinh tế nông nghiệp thời
Lý”, in trong Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên),
Vương triều Lý (1009 - 1226), Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
2. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương
loại chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Đại Việt sử ký toàn thư (1993), Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
4. Đức Dũng (2019), “Cây Sanh cổ huyền
thoại”, Báo Thái Bình, .
vn/tin-tuc/19/9270/cay-sanh-co-huyen-thoai
5. Mai Thanh Hải (2004), Địa chí tơn giáo - lễ
hội Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
6. “Hải Thanh một khơng gian văn hóa đặc
sắc” (2019), />7. Vũ Duy Hinh (1987), “Đền thờ Tô Hiến Thành
ở Sầm Sơn (Thanh Hóa)”, in trong Những phát
hiện mới về Khảo cổ học năm 1987, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
8. HK (2014), “Tìm thấy 8 đạo sắc phong
liên quan đến Thái úy Tô Hiến Thành”, http://
baochinhphu.vn/Van-hoa/Tim-thay-8-daosac-phong-lien-quan-den-Thai-uy-To-HienThanh/203463.vgp
9. Nguyễn Hải Kế (2014), “Lại bàn về những
làng Am ở Vĩnh Bảo”, in trong Nguyễn Hải Kế với
lịch sử và văn hóa Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
10. Vũ Khiêu (chủ biên) (2004), Danh nhân Hà
Nội, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Liên (2012), Tô Hiến Thành và
dấu ấn của ông trên quê hương Hạ Mỗ, Khóa luận
tốt nghiệp, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Khoa
Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, ĐHQGHN.
Câu đối treo ở phía trong nhà Tiền bái di tích
đền Thánh Tơ và núi Kiếm Lĩnh [18].
12. “Những địa danh không thể bỏ qua khi
đến Hoằng Hóa” (2017), .
vn/web/trang-chu/van-hoa-the-thao/di-tichle-hoi/nhung-dia-danh-khong-the-bo-qua-khiden-hoang-hoa.html
Cửa Đại An thời Lý - Trần nay chỉ để lại dấu
vết trên bờ sông Đáy, cách biển khoảng 10km
[15, tr.42].
13. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm
định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
4
5
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
NGHIÊN CỨU
VĂN HÓA
39
NGHIÊN CỨU
VĂN HÓA
14. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại
Nam nhất thống chí, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
lưu tại Viện Thơng tin Khoa học xã hội, ký hiệu
TTTS 15819.
15. Trương Hữu Quýnh (2009), Chế độ ruộng
đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam, Nxb. Thế
giới, Hà Nội.
28. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (2006),
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. Tổng hợp
Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
16. Ngơ Thì Sĩ (1997), Đại Việt sử ký tiền biên,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Tất Thành (2018), “Đình làng Đình Trung
- Di tích lịch sử cấp Quốc gia”, https://hatrung.
thanhhoa.gov.vn/portal/Pages/2018-11-8/
Dinh-lang-Dinh-Trung-Di-tich-lich-su-cap-quocGiaq4l5kv.aspx
17. Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
(2003), “Lý Cao Tơng phụ chính đại thần Tơ Hiến
Thành thái sư ngọc phả”, in trong Tư liệu Hán
Nôm di tích đền Thánh Tơ và núi Kiếm Lĩnh, Tài liệu
khơng xuất bản, Ninh Bình.
18. Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
(2003), Tư liệu Hán Nơm di tích đền Thánh Tô và
núi Kiếm Lĩnh, Tài liệu không xuất bản, Ninh Bình.
19. Taylor Keith W. (2010), “Quyền uy và tính
chân chính ở Việt Nam thế kỷ thứ XI”, in trong
Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Vương triều Lý
(1009 - 1226), Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
20. Tơ Thặm, “Tìm dấu tích xưa về Thái úy Tơ
Hiến Thành”, />21. Thần tích - Thần sắc làng Cổ Am, tổng Đông
Am, phủ Vĩnh Bảo, Hải Dương, lưu tại Viện Thông
tin Khoa học xã hội, ký hiệu TTTS 10562.
22. Thần tích - Thần sắc làng Lạc Thị, tổng Cổ
Điển, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đơng, lưu tại Viện
Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu TTTS 1207.
23. Thần tích - Thần sắc làng Phá Lãng, tổng
Phá Lãng, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh, Tài liệu
lưu trữ tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, Ký hiệu
TTTS 2713.
24. Thần tích - Thần sắc làng Trình Khê, tổng
Phá Lãng, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh, Tài liệu
lưu trữ tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, Ký hiệu
TTTS 2717.
25. Thần tích - Thần sắc làng Viên Lang, tổng
Viên Lang, phủ Vĩnh Bảo, Hải Dương, lưu tại Viện
Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu TTTS 10611.
26. Thần tích - Thần sắc thơn Lạng Am, làng
Thượng Am, tổng Thượng Am, phủ Vĩnh Bảo, Hải
Dương, lưu tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký
hiệu TTTS 10787.
27. Thần tích - Thần sắc thôn Vân Thị, làng Tri
Hối, tổng Tri Hối, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình,
40
Số 35 (Tháng 3 - 2021)
30. Khánh Tồn (2017), “Lễ hội và di tích
đình làng Giàng thị trấn Thứa”, http://luongtai.
bacninh.gov.vn/news/-/details/22371/le-hoi-vadi-tich-inh-lang-giang-thi-tran-thua
31. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia, Viện Nghiên cứu Hán Nơm (1996), Bảng
tra thần tích theo địa danh làng xã, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
32. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia, Viện Thông tin Khoa học xã hội Việt
Nam (1996), Thư mục thần tích, thần sắc, Hà Nội.
33. Đào Tố Uyên, “Cung cấp thêm tư liệu về
một số nơi thờ Thái úy Tô Hiến Thành”, http://
hotovietnam.org/Tin-tuc-va-Su-kien/Khoa-hocLich-su/198-Cung-cap-them-tu-lieu-ve-mot-sonoi-tho-Thai-Uy-To-Hien-Thanh
34. Tuyết Vân (2013), “Đệ nhất chính Cẩm
Đới”,
/>Pages/2013-08-22/De-Nhat-Chinh-Cam-Doi33e7a1c1f29e267a.aspx
35. Lê Tất Vinh, Trần Phương (1997), “Thái úy
Tô Hiến Thành với sự nghiệp đắp đê ngăn biển
Ngải Am (Hải Phòng)”, in trong Những phát hiện
mới về Khảo cổ học năm 1997, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
36. Trần Quốc Vượng (1998), “Hải Phịng nhìn
từ Thủ đơ Hà Nội”, in trong Việt Nam cái nhìn địa
văn hóa, Nxb. Văn hóa dân tộc và Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, Hà Nội.
37.http://w w w.haiduong.gov.vn/
thongtintongquan/dtdt/Pages/L%E1%BB%85h
%E1%BB%99ich%C3%B9aGi%C3%A1m.aspx
Ngày nhận bài: 03 - 11 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 2 - 2021
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2021