TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Chủ biên: TS. NGUYỄN TRƯỜNG CẢNH
GIÁO TRÌNH
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
1
LỜI NĨI ĐẦU
Giáo trình pháp luật đại cương để giảng dạy và học tập môn pháp luật đại cương
tại trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên. Đây là học phần bắt buộc thuộc phần
kiến thức giáo dục đại cương theo chương trình khung trình độ cao đẳng và đại học
của Bộ giáo dục và Đào tạo. Giáo trình đặt mục tiêu trang bị cho sinh viên năm thứ
nhất những kiến thức cơ bản, cần thiết về nhà nước và pháp luật nói chung, chú trọng
đến Nhà nước và pháp luật Việt Nam, giúp sinh viên hiểu rõ tính chất pháp lý, cơ cấu
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và một số ngành luật, từ đó có ý thức thực
hiện pháp luật trong đời sống xã hội.
Chương đầu đề cập đến một số vấn đề cơ bản của lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, những vấn đề có tính chất cơ bản, khái qt nhất về hệ thống pháp luật của
Nhà nước ta. Năm chương sau là nội dung chủ yếu của Luật hình sự và luật tố tụng
hình sự; Luật dân sự và luật tố tụng dân sự; Luật lao động; Luật hôn nhân và gia đình;
Luật phịng chống tham nhũng.
Bộ luật Hình sự là ngành luật có vị trí, vai trị to lớn trong hệ thống pháp luật. Đó
là những quy định của pháp luật để xác định hành vi phạm tội và khung hình phạt se
được áp dụng với người thực hiện hành vi phạm tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan
hệ xã hội phát sinh trong việc điều tra, xét xử và kiểm sát việc điều tra, xét xử những
vụ án hình sự. Luật tố tụng hình sự cũng quy định những nguyên tắc, thủ tục và điều
kiện để tiến hành điều tra, kiểm sát và xét xử các vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng hình sự.
Bộ luật Dân sự gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
tài sản dưới hình thức hàng hóa - tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản.
Những chế định cơ bản của luật dân sự như chế định quyền sở hữu, chế định hợp đồng
dân sự, chế định quyền thừa kế, chế định quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế.
Bộ luật Tố tụng dân sự gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ giữa cơ quan xét xử, viện kiểm sát nhân dân các cấp, đương sự và những
người tham gia khác trong quá trình điều tra và xét xử những vụ án dân sự. Các quy
phạm của luật tố tụng dân sự quy định thẩm quyền xét xử, trình tự, thủ tục xét xử và
những vấn đề khác nhằm giải quyết đúng đắn các vụ tranh chấp dân sự.
Bộ luật Lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và của người
sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao
động, góp phần thúc đẩy sản xuất, bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác
của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động. Vì vậy, Bộ luật lao động có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và trong hệ
thống pháp luật của quốc gia.
Luật Hôn nhân và gia đình gồm những quy phạm pháp luật quy định về kết hôn,
ly hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, các quan hệ giữa các
2
thành viên khác trong gia đình, cấp dưỡng, con ni, quan hệ hơn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài.
Luật phòng chống tham nhũng quy định cụ thể về khái niệm tham nhũng, các
hành vi tham nhũng và trách nhiệm của cơng dân trong việc phịng chống tham nhũng.
Giáo trình pháp luật đại cương xuất bản đã quán triệt những quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo
đảm cập nhật những văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Giáo trình pháp luật đại cương được xuất bản lần đầu trên cơ sở tập bài giảng
chung của khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng n. Vì
vậy khơng tránh khỏi những thiếu sót, chúng tơi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của người sử dụng giáo trình pháp luật đại cương để có thể hồn thiện hơn
cho lần xuất bản sau.
Trân trọng cảm ơn!
Hưng Yên, tháng 7 năm 2021
Tập thể tác giả
3
CHỦ BIÊN
TS Nguyễn Trường Cảnh
TẬP THỂ TÁC GIẢ
Chương I: TS Nguyễn Trường Cảnh
Ths Lê Đình Dương
Chương II: TS Nguyễn Trường Cảnh
Ths Lê Thị Hòa
Chương III: TS Nguyễn Trường Cảnh
Ths Lê Thị Hòa
Chương IV: TS Nguyễn Trường Cảnh
Ths Lê Thị Nga
Chương V: TS Nguyễn Trường Cảnh
Ths Lê Thị Nga
Chương VI: TS Nguyễn Trường Cảnh
TS Tường Mạnh Dũng
4
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
A. MỤC TIÊU
Về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những lý luận cơ bản về nhà nước và pháp
luật; quy phạm pháp luật; văn bản quy phạm pháp luật; quan hệ pháp luật; vi phạm
pháp luật; trách nhiệm pháp lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng các kiến thức đã học để có thể tự tìm
hiểu pháp luật và biết vận dụng pháp luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp của bản thân.
Về Thái độ: Xây dựng được tình cảm, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
B. NỘI DUNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1.1. Nguồn gốc và sự ra đời của Nhà nước
1.1.1.1. Một số học thuyết phi Mác xít về nguồn gốc của Nhà Nước
Nhà nước là một hiện tượng xã hội phức tạp. Muốn hiểu rõ và đầy đủ, khái niệm,
bản chất của Nhà nước, cần phải làm sáng tỏ nguồn gốc, sự ra đời của Nhà nước. Có
nhiều quan điểm giải thích khác nhau về vấn đề này.
Các nhà tư tưởng theo thuyết thần học cho rằng, Thượng đế là người sắp đặt trật
tự xã hội. Nhà nước cũng do Thượng đế tạo ra để bảo vệ trật tự chung; Nhà nước là
lực lượng siêu nhiên, và đương nhiên quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và sự phục tùng
quyền lực ấy là tất yếu.
Những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại chứng minh rằng, Nhà nước là kết
quả của sự phát triển gia đình, là hình thức phát triển tự nhiên của con người. Nhà
nước tồn tại trong mọi xã hội, và quyền lực nhà nước, về bản chất, cũng giống như
quyền gia trưởng của người đứng đầu gia đình vậy.
Những nhà tư tưởng theo thuyết khế ước xã hội: Nhằm chống lại sự chuyên
quyền độc đoán của Nhà nước phong kiến, địi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản
trong việc tham gia nắm quyền lực nhà nước, đa số học giả tư sản đều tán thành quan
điểm Nhà nước là sản phẩm của “khế ước xã hội” được ký kết trước hết bởi những con
người sống trong trạng thái tự nhiên khơng có Nhà nước; vì vậy, Nhà nước phản ánh
lợi ích của các thành viên trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu Nhà
nước phục vụ và vì lợi ích của họ. Khi nhà nước trở nên chun quyền, độc đốn,
khơng bảo vệ được lợi ích của người dân thì khế ước hết hiệu lực và xã hội phải ký kết
một khế ước mới để thành lập ra nhà nước mới tiến bộ hơn.
Thuyết bạo lực: cho rằng Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực
của thị tộc này đối với thị tộc kia, mà kết quả là thị tộc chiến thắng đã nghĩ ra một hệ
thốn cơ quan đặc biệt nhằm cai trị kẻ chiến bại đó là nhà nước.
5
Thuyết tâm lý lại cho rằng: Nhà nước xuất hiện do nhu cầu tâm lý của con người
nguyên thủy luôn luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ, anh hùng… vì vậy
NN là một tổ chức của những siêu nhân có sứ mệnh lãnh đạo xã hội.
Như vậy, những quan điểm trên đều kết luận không đúng về nguồn gốc ra đời của
Nhà nước. Họ cho rằng Nhà nước là một thiết chế phải có của mọi hình thái xã hội,
một lực lượng cần thiết cho phép xã hội tồn tại, một trọng tài công minh từ bên ngoài
áp đặt vào xã hội, đứng trên xã hội để giải quyết các tranh chấp, duy trì xã hội trong
tình trạng ổn định và phồn vinh. Theo những quan điểm đó, Nhà nước nước khơng
thuộc một giai cấp nào, Nhà nước là của chung mọi người trong xã hội, là một phạm
trù vĩnh cửu và bất biến.
1.1.1.2. Học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc Nhà nước
Khi nghiên cứu nguồn gốc, sự ra đời của Nhà nước, các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác có một quan điểm khác, rằng Nhà nước là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp và
đấu tranh giai cấp khơng thể điều hịa; Nhà nước khơng phải là một phạm trù vĩnh cửu,
bất biến mà là một phạm trù lịch sử, có phát sinh, phát triển và cũng se tiêu vong; Nhà
nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định và cũng se tiêu
vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó khơng cịn nữa. Nghiên
cứu nguồn gốc của Nhà nước, chủ nghĩa Mác xuất phát từ việc xem xét các cơ sở kinh
tế-xã hội, cách tổ chức xã hội, các quy tắc xử sự chung đã xuất hiện trong xã hội như
thế nào, bắt đầu từ hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản nguyên thủy.
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế - xã hội xuất hiện đầu tiên trong
lịch sử loài người. Trong xã hội này khơng có giai cấp, khơng có Nhà nước và cũng
khơng có Pháp luật, xã hội được tổ chức thành: Tổ chức thị tộc; Tổ chức bào tộc; Tổ
chức bộ lạc.
Cơ sở kinh tế đặc trưng cho xã hội Cộng sản nguyên thủy là chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất và năng suất lao động ở mức rất thấp. Tương ứng với chế độ kinh tế
ấy, xã hội được hình thành bằng các “bầy người nguyên thủy”. Trước tiên, họ xuất
hiện từng nhóm nhỏ, gồm những người du mục cùng nhau kiếm ăn và tự bảo vệ, do
một thủ lĩnh cầm đầu, dần dần xã hội lồi người tiến đến một hình thức bền vững hơn,
đó là Cơng xã Thị tộc. Việc sản xuất tập thể và phân phối tập thể yêu cầu phải thiết lập
một chế độ sở hữu công cộng của Công xã về đất đai, gia súc, v.v..
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy quyền lực đã tồn tại, có hiệu lực thực tế rất
cao, tính cưỡng chế mạnh, nhưng đó là quyền lực xã hội. Quyền lực ấy có đặc điểm:
Khơng tách rời khỏi xã hội, hịa nhập và thuộc về xã hội, do toàn thể thành viên xã hội
tổ chức ra; Phục vụ lợi ích cả cộng đồng; Khơng có bộ máy cưỡng chế riêng để thực
hiện sự cưỡng chế.
Xã hội Cộng sản nguyên thủy có tổ chức Thị tộc, Bào tộc hay Bộ lạc và đã xuất
hiện quyền lực xã hội, nhưng các tổ chức ấy chưa phải là Nhà nước, song đã có mầm
mống, tiền đề làm nẩy sinh những cơ sở vật chất cho sự ra đời của Nhà nước. Những
nguyên nhân làm cho chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã cũng đồng thời là nguyên
nhân làm xuất hiện Nhà nước.
6
Trong quá trình lao động, con người rút được kinh nghiệm cải tiến công cụ sản
xuất, đặc biệt sự xuất hiện các công cụ bằng kim loại, năng xuất lao động tăng nhanh
và lực lượng sản xuất có một bước tiến nhảy vọt, khiến cho hoạt động kinh tế ngày
càng đa dạng, phong phú, địi hỏi có sự phân cơng lao động theo chun mơn hóa. Ở
vào thời kỳ cuối của chế độ Cộng sản nguyên thủy đã lần lượt xảy ra ba lần phân công
lao động lớn: 1. Chăn nuôi tách khỏi ngành trồng trọt; 2. Thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp; 3. Thương nghiệp ra đời.
Sau mỗi lần phân cơng lao động, xã hội có những bước tiến mới, thúc đẩy quá
trình tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy. Sau lần phân công lao động đầu tiên,
chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội đã có sự phân chia thành kẻ giàu, người nghèo. Chế
độ tư hữu làm xuất hiện chế độ hôn nhân từ quần hôn đến chế độ một vợ một chồng, là
điều kiện để các gia đình nhỏ được hình thành và trở thành những đơn vị kinh tế độc
lập, tự quyết định sản xuất và định đoạt sản phẩm do kết quả sản xuất của mình tạo ra.
Gia đình xuất hiện đe dọa đời sống cộng đồng thị tộc. Trong quá trình lao động, nhờ
tích lũy được kinh nghiệm, có cơ hội, một số người trở lên giàu có, trong lúc một số
khác lại rất nghèo khó.
Cùng với hiện tượng phân hóa trên, các Tù trưởng, Thủ lĩnh quân sự lợi dụng
quyền lực của Thị tộc trước đây giao cho để phục vụ lợi ích riêng và trở thành giai cấp
bóc lột. Trong lúc đó một bộ phận khác là đa số dân cư khơng cịn tư liệu sản xuất, lâm
vào tình cảnh khốn khổ, cùng với tù binh chiến tranh hợp thành một giai cấp - giai cấp
nô lệ bị bóc lột. Quyền lợi hai bộ phận dân cư này, hai giai cấp, một giai cấp phải lao
động để phục dịch cho giai cấp kia, giai cấp những người không lao động, chỉ hưởng
thụ bằng lao động của người khác - giai cấp bóc lột. Xã hội xuất hiện giai cấp và mâu
thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa. Cuộc đấu tranh một mất một còn giữa hai giai cấp,
giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, là điều khơng tránh khỏi. Xã hội có nguy cơ diệt
vong.
Trước tình hình xã hội như vậy, quyền lực cơng cộng của Thị tộc và hệ thống
quản lý của nó chỉ phù hợp với một xã hội khơng có mâu thuẫn nội tại, nay khơng cịn
phù hợp nữa, địi hỏi phải có một tổ chức mới. Tổ chức đó phải dập tắt xung đột công
khai giữa các giai cấp, giữ cho công chúng ở trong vòng trật tự ổn định, bảo vệ quyền
lợi của giai cấp nắm kinh tế, giai cấp thống trị. Tổ chức đó là Nhà nước.
Như vậy, Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên
thủy. Nhà nước không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, cũng không phải là hiện
tượng tất yếu của mọi hình thái kinh tế-xã hội, mà là sự phát triển nội tại của xã hội.
Tiền đề kinh tế của sự ra đời của Nhà nước là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Tiền
đề kinh tế là cơ sở vật chất chủ yếu tạo ra tiền đề xã hội cho sự ra đời Nhà nước, đó là
sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự đối kháng giai cấp khơng thể điều hịa. Dĩ
nhiên, Nhà nước khơng xuất hiện ngay một lúc. Q trình đó diễn ra rất chậm chạp,
qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi vùng, mỗi dân tộc, do có sự khác nhau về lịch sử, địa lý,
hoàn cảnh, v.v.. sự xuất hiện Nhà nước khơng hồn tồn giống nhau.
7
1.1.2. Bản chất và đặc trưng của Nhà nước
Bản chất của Nhà nước là vấn đề mấu chốt, cơ bản trong mọi thời đại, trong tồn
bộ nền chính trị, vì nó đụng chạm đến lợi ích của giai cấp thống trị. Làm rõ bản chất
Nhà nước tức là xác định Nhà nước của ai, là công cụ của giai cấp nào, phục vụ chủ
yếu cho giai cấp nào trong xã hội.
Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trước hết là một bộ máy trấn áp đặc
biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác trong xã hội, là bộ máy để duy trì sự thống
trị của giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị của giai cấp này đối
với giai cấp khác thể hiện trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng... Muốn đạt
được thống trị, giai cấp thống trị phải sử dụng công cụ Nhà nước như là một cơng cụ
sắc bén có hiệu lực nhất, thơng qua Nhà nước, giai cấp thống trị thực hiện sự thống trị
giai cấp đối với tồn xã hội.
Nói bản chất của Nhà nước là tính giai cấp khơng có nghĩa là phủ định hoàn
toàn vai trò xã hội của Nhà nước, dù đó là Nhà nước của giai cấp bóc lột. Một Nhà
nước se khó tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích đơn thuần của giai cấp thống trị mà không
tính đến lợi ích, nguyện vọng tối thiểu của các giai tầng khác trong xã hội. Trong một
chừng mực nào đó, Nhà nước phải thực hiện đầy đủ mọi chức năng xã hội của mình
như vấn đề an tồn và an ninh quốc gia, vấn đề thiên tại, địch họa, v.v..
Học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước chỉ rõ Nhà nước có những đặc điểm sau:
Một là, nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt, hầu như tách khỏi
xã hội không còn hòa nhập vào dân cư như trong chế độ Thị tộc;
Hai là, nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành đơn vị hành chính
khơng phụ thuộc chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính;
Ba là, nhà nước có chủ quyền quốc gia;
Bốn là, nhà nước nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối
với mọi tầng lớp dân cư;
Năm là, nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới hình thức bắt
buộc.
Từ sự phân tích nguồn gốc, bản chất và các dấu hiệu đặc trưng của nhà nước, có
thể nêu lên một khái niệm chung Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị, có một bộ máy chun làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản
lý, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
1.1.3. Chức năng của Nhà nước
Chức năng nhà nước là những phương diện hoạt động của Nhà nước nhằm thực
hiện những mục tiêu của nhà nước đề ra. Chức năng nhà nước được xác định xuất
phát từ bản chất nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định,
phản ánh tập trung và đầy đủ bản chất của Nhà nước. Chức năng nhà nước luôn gắn
liền với từng giai đoạn phát triển của chính bản thân Nhà nước, phụ thuộc vào mục
đích và yêu cầu hoạt động của Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển xã hội và chi
phối nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước.
8
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của Nhà nước, chức năng của Nhà nước được
phân biệt thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Hai chức năng này có mối
quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thống nhất với nhau, thể hiện bản chất nhà nước
và mục đích của mỗi nhà nước trong mỗi thời kỳ phát triển nhất định.
Chức năng đối nội của Nhà nước là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước
trong quan hệ với cá nhân, tổ chức trong nội bộ đất nước. Chức năng đối nội gồm:
chức năng kinh tế; chức năng chính trị; chức năng xã hội; chức năng bảo vệ trật tự
pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của Nhà nước là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà
nước trong phạm vi quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác. Chức năng đối ngoại
gồm: chức năng bảo vệ đất nước; chức năng quan hệ với các nước khác.
Để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của mình, Nhà nước sử dụng nhiều
hình thức hoạt động khác nhau, chủ yếu là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và
bảo vệ pháp luật. Nội dung của các hình thức đó tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước,
tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và tương quan lực lượng giai cấp trong
từng giai đoạn phát triển của Nhà nước.
Về phương pháp thực hiện các chức năng nhà nước, có sự khác nhau giữa các
kiểu nhà nước. Nhìn chung, có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế.
Đối với các Nhà nước của giai cấp bóc lột thì phương pháp cưỡng chế là chủ yếu, cịn
với Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì lại coi trọng cơng tác thuyết phục, động viên.
1.1.4. Hình thức của Nhà nước
1.1.4.1. Khái niệm hình thức nhà nước
Trong lịch sử xã hội loài người tồn tại bốn kiểu nhà nước, nhưng mỗi kiểu nhà
nước tồn tại ở những hình thức khác nhau, bởi kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ
quyền lực nhà nước do giai cấp nào nắm giữ, nó tồn tại trên cơ sở kinh tế và tương ứng
với hình thái kinh tế - xã hội nào. Hay nói cách khác, kiểu nhà nước trả lời cho câu hỏi
nhà nước đó thuộc về giai cấp nào và nói rõ về bản chất quyền lực nhà nước.
Hình thức nhà nước là cách tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, điều này
được thể hiện trên ba phương diện: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước
và chế độ chính trị.
Như vậy, kiểu nhà nước có phạm vi bao trùm hình thức nhà nước, vì một kiểu
nhà nước có thể có nhiều hình thức nhà nước khác nhau, thể hiện quyền lực nhà nước
ở những hình thức nhất định.
1.1.4.2. Yếu tố cấu thành hình thức nhà nước
Thứ nhất là hình thức chính thể đó là cách thức thức và trình tự thành lập cơ
quan cao nhất của quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa cơ quan đó với cơ
quan cấp cao khác và với nhân dân. Nhà nước tồn tại ở hình thức này có hai dạng cơ
bản là hình thức chính thể qn chủ và chính thể cộng hịa.
Chính thể quần chủ là hình thức nhà nước mà trong đó quyền lực tối cao của
nhà nước tập trung toàn bộ hoặc một phần vào tay một cá nhân (vua, quốc vương,
9
v.v..) theo phương thức cha truyền con nối. Chính thể quân chủ bao gồm nhiều dạng
với những đặc trưng khác nhau, trong đó có hai dạng cơ bản là quân chủ tuyệt đối và
qn chủ hạn chế.
Chính thể cộng hịa là hình thức quyền lực cao nhất của nhà nước thuộc về tập
thể - cơ quan đại diện của nhân dân (Nghị viện, Quốc hội). Trong chính thể cộng hịa,
nhân dân ít nhiều có quyền lực và được tham gia vào việc thực hiện quyền lực nhà
nước ở những phạm vi, mức độ nhất định. Cơ quan đại diện của nhân dân thường được
lập ra bằng con đường bầu cử và hoạt động trong một thời hạn nhất định gọi là nhiệm
kỳ. Chính thể cộng hịa được chia thành hai dạng là Cộng hòa quý tộc và Cộng hòa
dân chủ.
Thứ hai là hình thức cấu trúc nhà nước đó là cách thức tổ chức quyền lực nhà
nước theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền nhà nước với nhau. Hình thức cấu trúc nhà nước có thể là nhà nước đơn nhất
hoặc nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất (Việt Nam, Trung Quốc, Lào, v.v..) là nhà nước có chủ
quyền chung, có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ Trung ương đến
địa phương, có các đơn vị hành chính bao gồm cấp tỉnh, huyện, xã.
Nhà nước liên bang (một số nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây như: Liên Xô,
Tiệp Khắc, Nam Tư, v.v..) là nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp lại.
Nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý (một hệ thống chung
cho từng liên bang và một hệ thống trong mỗi nước thành viên); có chủ quyền quốc
gia chung của nhà nước liên bang và đồng thời mỗi nước thành viên cũng có chủ
quyền riêng.
Thư ba là chế độ chính trị đó là tổng thể các phương pháp mà nhà nước sử dụng
để thực hiện quyền lực nhà nước. Tùy từng điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, truyền thống, lịch sử của đất nước mà chế độ chính trị có những biểu hiện khác
nhau. Trên cơ sở đó, chế độ chính trị được phân chia thành hai loại: chế độ dân chủ và
chế độ phản dân chủ.
Chế độ dân chủ là hình thức mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức,
hoạt động của các cơ quan nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước. Ở chế độ này nhà nước sử dụng các phương pháp dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhà nước thừa nhận, bảo đảm, bảo
vệ các quyền tự do chính trị của nhân dân; hoạt động của nhà nước được thực hiện một
cách công khai, phương pháp giáo dục, thuyết phục được coi trọng.
Chế độ phản dân chủ là chế độ chính trị mà nhân dân khơng có quyền tham gia
vào việc tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước, khơng có quyền bàn bạc, thảo
luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong chế độ chính trị phản
dân chủ, nhà nước sử dụng các cách thức, thủ đoạn chuyên quyền, độc đoán trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; các quyền tự do chính trị của nhân dân
không được nhà nước thừa nhận hoặc bị hạn chế, bị chà đạp, phương pháp cưỡng chế
10
được chú trọng, v.v.. Chế độ phản dân chủ có những biến dạng cực đoan như chế độ
độc tài, chế độ phát xít, chế độ phân biệt chủng tộc, chế độ diệt chủng.
Tóm lại, mỗi kiểu nhà nước có thể có nhiều hình thức nhà nước khác nhau. Một
kiểu nhà nước tồn tại dưới hình thức nào là tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa trong và ngoài nước, tùy thuộc vào tương quan so sánh lực lượng
của các giai cấp trong xã hội. Ngoài ra truyền thống và đặc điểm của mỗi dân tộc cũng
có ảnh hưởng đến hình thức của nhà nước. Hình thức nhà nước có ảnh hưởng đến việc
củng cố, bảo vệ và thực thi quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước khác nhau có ảnh
hưởng đến việc thực thi quyền lực nhà nước nhưng không làm thay đổi bản chất quyền
lực nhà nước (quyền lực nhà nước vẫn thuộc về một giai cấp nhất định). Chính vì vậy,
các giai cấp cầm quyền rất quan tâm đến việc tìm kiếm hình thức nhà nước cho phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, cũng như sự thống trị chính trị của mình.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
1.2.1. Nguồn gốc của Pháp luật
Nhà nước và Pháp luật là hai hiện tượng xã hội gắn liền với nhau. Những nguyên
nhân làm xuất hiện Nhà nước cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của
Pháp luật. Để xã hội được ổn định, không bị rối loạn, trong bất cứ xã hội nào, con
người cũng cần phải tuân theo những quy tắc xử sự thống nhất, khơng một ai được có
những xử sự theo ý riêng của mình. Xã hội cộng sản ngun thủy chưa có giai cấp và
Nhà nước nhưng đã tồn tại quy tắc xử sự chung thống nhất như: Tập qn; Tín điều
tơn giáo
Trong xã hội có giai cấp, có nhà nước thì nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà nước
là quản lý xã hội trong vòng trật tự để thực hiện mục đích và phục vụ lợi ích của giai
cấp cầm quyền - giai cấp thống trị xã hội. Quy tắc xử sử do nhà nước đặt ra để quản lý
xã hội là pháp luật. Pháp luật là quy tắc xử sự chung cho mọi người, do nhà nước xác
lập và đảm bảo thực hiện, nhằm bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Các hình
thức của pháp luật gồm: Tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
Tập qn pháp là thói quen hình thành từ đời sống hay từ truyền thống văn hóa –
xã hội trong một thời gian dài. Thói quen này được thiết lập bởi cộng đồng và trở
thành khuôn mẫu của hành vi mà trong đó, quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
cộng đồng được chấp nhận và tuân thủ một cách tự giác. Nói cách khác, tập quán pháp
theo khái niệm này chỉ xuất hiện khi mà hành vi thơng thường trở thành một hành vi
mang tính cưỡng chế được chấp nhận và tuân thủ bởi các chủ thể của cộng đồng. Tập
quán pháp thường được sử dụng như là một nguồn hỗ trợ cho pháp luật nhà nước, góp
phần điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một địa phương. Tuy nhiên, tập quán pháp
lại mang đặc trưng của từng địa phương cụ thể nên khó áp dụng chung cho các địa
phương khác. Ngoài ra, nhiều tập qn pháp khơng cịn phù hợp với sự thay đổi của xã
hội hiện tại nên việc áp dụng tập quán pháp cần phải cân nhắc cẩn thận.
Tiền lệ pháp là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành
chính hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng với các vụ việc tương tự.
11
Tiền lệ pháp xét về nguồn gốc được hình thành từ quyết định có trước mang tính cá
biệt của cơ quan xét xử cấp trên hoặc cơ quan hành chính cấp trên, cho nên nó dễ dẫn
đến sự tùy tiện khi áp dụng trong các cơ quan cấp dưới.
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện dưới dạng các văn bản do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, trong đó quy định những quy tắc xử sự
chung, được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội.
Như vậy, nhà nước ban hành pháp luật để quản lý xã hội, song không phải nhà
nước đứng trên pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội xuất hiện khi
xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, có mối quan hệ mật thiết với nhau, đều
là sản phẩm của đấu tranh giai cấp và mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa. Đây là
luận điểm quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật.
1.2.2. Bản chất và đặc trưng của Pháp luật
1.2.2.1. Bản chất của Pháp luật
Khi phân tích bản chất và cơ sở kinh tế-xã hội làm xuất hiện pháp luật, Mác và
Ăngghen đã chứng minh rằng, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội
có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Pháp luật là một bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc
của xã hội có giai cấp. Pháp luật ln biểu hiện ý chí của giai cấp thống trị, ý chí đó
phản ánh lợi ích chung của tồn bộ giai cấp. Bản chất của pháp luật là tính giai cấp của
nó, khơng có pháp luật siêu giai cấp như quan niệm của các học giả tư sản. Trong
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ: pháp luật luật tư sản là ý chí
của giai cấp tư sản được đề lên thành luật; nội dung ý chí đó do điều kiện sinh hoạt vật
chất của tồn bộ giai cấp tư sản quy định. Pháp luật mang bản chất sau:
Một là, pháp luật mang tính giai cấp: C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh
rằng, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp và đấu tranh
giai cấp ln là thuộc tính của bất kỳ kiểu pháp luật nào, nhưng mỗi kiểu pháp luật lại
có biểu hiện riêng. Pháp luật chủ nô và phong kiến biểu hiện bản chất giai cấp bóc lột
một cách rõ ràng, pháp luật cơng khai quyền hành vơ hạn của chủ nơ, tình trạng vơ
quyền của nô lệ, những đặc quyền đặc lợi của địa chủ và quý tộc. Quyền đó được pháp
luật của nhà nước chủ nô và phong kiến ghi nhận và bảo đảm một cách trọn vẹn. Đối
với pháp luật tư sản, giai cấp tư sản khi nắm được quyền thống trị, chúng đã tìm cách
che dấu bản chất giai cấp bóc lột trong pháp luật tư sản dưới chiêu bài “tự do, bình
đẳng, bác ái. Chỉ có pháp luật xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế-xã hội để thể hiện ý
chí và đảm bảo lợi ích của giai cấp cơng nhân và đại bộ phận nhân dân trong xã hội.
Hai là, pháp luật mang tính xã hội: Bên cạnh bản chất giai cấp, pháp luật cịn thể
hiện tính xã hội, xuất phát từ vai trò xã hội của nhà nước. Khơng có kiểu pháp luật nào
chỉ thể hiện duy nhất bản chất giai cấp và ngược lại cũng khơng có kiểu pháp luật nào
chỉ thể hiện riêng tính xã hội. Bản chất giai cấp và tính xã hội ln có quan hệ mật
thiết với nhau, gắn bó với nhau thành một chỉnh thể và mang lại sự bền vững cho pháp
luật. Chẳng hạn, pháp luật xã hội chủ nghĩa cùng với việc thể hiện ý chí của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trong mỗi hoàn
12
cảnh cụ thể, mỗi giai đoạn phát triển không thể khơng tính đến lợi ích của các tầng lớp
khác trong xã hội.
Ba là pháp luật mang tính dân tộc: nó được xây dựng trên cơ sở nền tảng dân
tộc, nó phản ánh phong tục tập quán, đặc điểm lịch sử, điều kiện địa lý và trình độ văn
minh văn hóa của dân tộc
Bốn là pháp luật mang tính mở: sẵn sàng tiếp nhận những thành tựu của nền văn
minh văn hóa, pháp lý của nhân loại để làm giàu cho mình.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm sau: Pháp luật là hệ
thống những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, và được bảo đảm bằng sự
cưỡng chế của nhà nước, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2.2.2. Những đặc trưng cơ bản của Pháp luật
Một là, pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, cùng với nhà nước, pháp luật ra
đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, thể hiện ý chí của giai cấp đó. Ý
chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật thể hiện ở mục đích xây dựng pháp
luật, nội dung xây dựng pháp luật và dự kiến hiệu ứng thực tế của pháp luật khi triển
khai vào đời sống thực tế của xã hội.
Hai là pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung. Quy
tắc xử sự được hiểu là khuôn mẫu (thước đo, chuẩn mực), là cách xử sự của con người.
Khi có quan hệ với nhau, con người phải dựa vào quy tắc đó để xem xét hành vi của
mình, được làm gì, phải làm gì và khơng được làm gì. Pháp luật chỉ ra các giới hạn cần
thiết mà nhà nước quy định để mọi cá nhân, tổ chức có thể xử sự một cách tự do trong
khn khổ cho phép, vượt q giới hạn đó là trái pháp luật.
Ba là pháp luật mang tính cưỡng chế nhà nước. Tính cưỡng chế nhà nước là một
đặc điểm chỉ riêng pháp luật mới có. Nhà nước khơng những đặt ra pháp luật làm quy
tắc xử sự của hành vi, mà cịn có một hệ thống cơ quan nhà nước đảm bảo cho những
quy tắc ấy được thực hiện trong thực tế.Với quy tắc xử sự của pháp luật do nhà nước
đặt ra hoặc thừa nhận, nếu một thành viên xã hội khơng chấp hành, tn thủ thì nhà
nước sử dụng cả bộ máy quyền lực như nhà tòa án, cảnh sát, nhà tù... để thực hiện sự
cưỡng chế.
Bốn là pháp luật mang tính ổn định tương đối, là một nhân tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội cũng như góp phần tạo lập các quan hệ xã hội mới, pháp luật phải ổn
định trong một thời gian nhất định. Tính ổn định của hạ tầng cơ sở quyết định tính ổn
định của pháp luật. Chỉ khi nào lợi ích của giai cấp thống trị thực sự bị đụng chạm, hết
sức cần thiết, nhà nước mới thay đổi pháp luật để duy trì một sự ổn định mới.
1.2.3. Vai trò của pháp luật.
Một là, pháp luật là cơ sở để thiết lập củng cố và tăng quyền lực nhà nước.
Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ
quan). Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả địi hỏi phải xác định đúng chức năng,
thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ
13
đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để
tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Tất
cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những
nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật.
Hai là, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Để quản lý xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng
pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp
luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách
nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên qui mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp
luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân.
Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trị lớn. Bởi vì, chức
năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm
nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ nhà nước cần xác lập như: Hoạch định chính sách
kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá… Do
tính chất phức tạp và phạm vi rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước không thể
trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm
vĩ mơ và mang tính chất hành chính- kinh tế. Q trình quản lý kinh tế khơng thể thực
hiện được nếu như không dựa vào pháp luật.
Ba là pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới.
Bên cạnh chức năng phản ánh, pháp luật cịn có tính tiên phong, định hướng cho
sự phát triển của các quan hệ xã hội. Vì cuộc sống vốn sống động và thực tiễn thường
diễn ra với những thay đổi thường xuyên. Tuy nhiên về căn bản những thay đổi đó vẫn
diễn ra theo những quy luật nhất định mà con người có thể nhận thức được. Từ đó
pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể thiết kế
những mơ hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thử nghiêm. Vì vậy
có thể nói, pháp luật có vai trị quan trọng trong việc tạo lập ra những quan hệ mới.
Bốn là pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ
bang giao giữa các quốc gia.
Sự ổn định của mỗi quốc gia luôn là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ
sở để mở rộng các mối quan hệ bang giao với các nước khác. Trong thời đại ngày nay
phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính chất
của các quan hệ đó ngày càng đa diện. Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các mối
quan hệ bang giao đó là pháp luật: Pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi nước. Xuất
phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển mới: bên
cạnh những văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan
đến các chủ thể pháp luật trong nước còn cần có đầy đủ các văn bản pháp luật quy
định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến các chủ thể là người (tổ chức) nước
ngồi có quan hệ hợp tác với các chủ thể trong nước. Ví dụ: Luật Đầu tư; Luật về
Khoa học và Công nghệ, v.v..
14
1.3. QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.3.1. Khái niệm quy phạm pháp luật
Trong đời sống xã hội, giữa con người với nhau có mối quan hệ qua lại vơ cùng
phức tạp, rất đa dạng. Để xã hội ổn định trong vòng trật tự và phát triển, tránh sự diệt
vong, đòi hỏi mỗi thành viên xã hội phải tự kiềm chế mình để tiến hành các hành vi
phù hợp với những quy tắc xã hội. Những quy tắc xã hội này được gọi là các quy
phạm xã hội. Quy phạm xã hội có nhiều loại, quy phạm đạo đức, quy phạm phong tục
tập quán, quy phạm tôn giáo, quy phạm của các tổ chức xã hội, v.v.. và quy phạm pháp
luật.
Trong tất cả các loại quy phạm thì quy phạm pháp luật được đảm bảo bằng sự
cưỡng chế nhà nước, có vai trị quan trọng và có hiệu lực nhất trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội, duy trì ổn định, trật tự xã hội, trong việc tổ chức thực hiện quyền
lực nhà nước, cải tạo xã hội cũ, và xây dựng xã hội mới. Quy phạm pháp luật có một
số đặc điểm sau:
Một là, quy phạm pháp luật trước hết là một loại của quy phạm xã hội. Giống
như các quy phạm đạo đức, quy phạm của các tổ chức xã hội..., quy phạm pháp luật là
các chuẩn mực quy tắc xử sự mang tính chất chung điều chỉnh hành vi của con người
và được sử dụng nhiều lần trong cuộc sống, là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con
người trong các quan hệ xã hội. Điểm khác của quy phạm pháp luật là thông qua quy
phạm pháp luật chúng ta biết được hoạt động nào, hành vi nào của con người mang
tính chất pháp lý, hành vi nào hợp pháp, hành vi nào vi phạm pháp luật.
Hai là, quy phạm pháp luật luôn gắn liền với Nhà nước và chỉ do nhà nước đặt
ra hoặc phê chuẩn, hoặc do một tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền ban hành, và
được đam bảo thi hành bằng cưỡng chế nhà nước. Nhà nước thiết lập ra một hệ thống
các cơ quan chuyên môn (bộ máy nhà nước) để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh và triệt để. Bất kỳ một chủ thể nào vi phạm các quy định của quy phạm
pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác, xâm phạm đến lợi ích,
trật tự pháp lý của nhà nước đều phải chịu các hậu quả pháp lý bất lợi. Nội dung của
quy phạm pháp luật thể hiện ở sự cho phép, cấm đốn; hoặc bắt buộc. Đó là các quy
tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ
pháp luật mà nó điều chỉnh.
Ba là, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung vì nó
khơng phải đặt ra cho một chủ thể mà cho mọi chủ thể không xác định mà là bắt buộc
đối với tất cả mọi người trong xã hội khi nằm trong hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm
pháp luật đó quy định.
Bốn là quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống cho tất cả
các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của nó, cho tới khi nó bị hủy bỏ hoặc
thay thế bằng một quy phạm pháp luật khác.
Quy phạm pháp luật được thể hiện dưới những hình thức xác định, đó là thuộc
tính vốn có bắt buộc của pháp luật. Các quy phạm xã hội khác có thể được thể hiện
15
dưới những hình thức tồn tại cụ thể hoặc khơng. Nhưng đối với quy phạm pháp luật thì
bao giờ cũng được thể hiện dưới những hình thức nhất định. Đặc điểm này là cơ sở để
xác định nguồn của quy phạm pháp luật, thứ bậc hiệu lực của quy phạm pháp luật
trong hệ thống pháp luật nói chung. Đồng thời đó là yếu tố có vai trị quan trọng đối
với việc hiểu, giải thích và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật.
Quy phạm pháp luật của nhà nước ta luôn là các quy phạm pháp luật thành văn,
được thể hiện trong văn bản quy phạm pháp luật. Yêu cầu của các quy phạm pháp luật
nói chung là phải chính xác, chặt che, rõ ràng và phải ln được hiểu và áp dụng thống
nhất.
Như vậy, Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do
Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
1.3.2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
Cơ cấu của quy phạm pháp luật là các bộ phận hợp thành quy phạm pháp luật.
Quy phạm pháp luật là đơn vị cơ bản của pháp luật, nhưng trong nó cịn có những bộ
phận nhỏ hợp thành. Trong các tác phẩm pháp lý cịn có những ý kiến khác nhau về cơ
cấu của quy phạm pháp luật. Đa số ý kiến cho rằng quy phạm pháp luật được tạo thành
bởi ba bộ phận: Giả định, Quy định, Chế tài.
Thứ nhất giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên quan hệ xã hội
mà quy phạm điều chỉnh, xác định rõ tình huống, trường hợp, điều kiện, hồn cảnh có
thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân, hay tổ chức nào vào hoàn cảnh, điều kiện đó
phải chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Giả định thường quy định về thời
gian, địa điểm, các chủ thể, các hoàn cảnh cụ thể mà quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Để áp dụng các quy phạm pháp luật một cách chính xác, nhất quán, phần giả định
phải được mơ tả một cách rõ ràng. Những hồn cảnh, điều kiện nêu ra phải sát với
thực tế cuộc sống. Tính xác định là tiêu chuẩn hàng đầu của một giả định. Điều kiện,
hồn cảnh được dự liệu có thể giản đơn hoặc có thể phức tạp. Chẳng hạn, Điều 23 Hiến pháp (2013) quy định: “Cơng dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có
quyền ra nước ngồi và từ nước ngồi về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định” thì phần giả định là Cơng dân và chỉ ra chủ thể chịu sự điều chỉnh của
quy phạm là tất cả mọi cá nhân công dân Việt Nam. Khác với Điều 23 - Hiến pháp
(2013) nêu trên, Khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự (2015) quy định: “Người nào thấy
người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà
khơng cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm” lại có phần giả định
rất phức tạp, đó là “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng, tuy có điều kiện mà khơng cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết”.
Thứ hai quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu rõ cách xử sự của chủ
thể pháp luật (cá nhân hay tổ chức) ở vào hoàn cảnh điều kiện đã nêu trong phần giả
16
định, gồm sự cho phép hay bắt buộc phải thực hiện. Bộ phận quy định trả lời câu hỏi
Phải làm gì? Khơng được làm gì? Làm như thế nào?
Trong quy định, ý chí và lợi ích của nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
được xác định rõ ràng để mọi người khi có quan hệ với nhau phải dựa vào đó xem xét
hành vi của mình, được làm gì, phải làm gì và khơng được làm gì. Bởi vậy, bộ phận
quy định phải được thể hiện một cách chính xác, trực tiếp yêu cầu của quy phạm, thể
hiện bản chất, chức năng và vai trò xã hội của quy phạm pháp luật. Nắm vững bộ phận
quy định là điều kiện quan trọng để thực hiện đúng yêu cầu của quy phạm pháp luật.
Căn cứ vào tính chất, phương thức tác động lên các quan hệ xã hội, quy phạm
pháp luật có các cách quy định khác nhau. Phần quy định của quy phạm pháp luật
được phân biệt thành các loại:
Quy định mệnh lệnh, Nhà nước quy định một cách dứt khốt những điều cấm
đốn, khơng được làm hoặc bắt buộc phải làm. Ví dụ: Điều 44 – Hiến pháp (2013)
Quy định: Cơng dân “có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội
nặng nhất”. Hoặc quy định của Khoản 1, điều 56 Bộ luật Hơn nhân và Gia đình
(2014) quy định: Khi vợ hoặc chồng u cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng
thành thì “Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo
lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của
hơn nhân khơng đạt được”.
Quy định tùy nghi, trong quy định này nhà nước không nêu lên một cách dứt
khoát một cách xử sự nhất định nào mà nêu lên một số cách xử sự để hướng các chủ
thể pháp luật lựa chọn hoặc thỏa thuận với nhau. Nếu họ không thỏa thuận hoặc thỏa
thuận trái với sự hướng dẫn, thì cơ quan có thẩm quyền se quyết định. Loại quy định
này thường thấy trong luật dân sự, kinh tế, thương mại, v.v.. Chẳng hạn “Việc kết hôn
phải do Ủy ban nhân dân cơ sở nơi thường trú của bên nam hoặc bên nữ công nhận
và ghi vào sổ đăng ký kết hôn theo thủ tục do Nhà nước quy định. Mọi nghi thức kết
hôn khác đều khơng có giá trị pháp lý”, v.v..
Thứ ba chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác
động mà nhà nước dự kiến se áp dụng đối với chủ thể pháp luật đã không thực hiện
theo đúng quy tắc xử sự nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật. Chế tài là
hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật là một trong những phương tiện để
đảm bảo thực hiện của quy phạm pháp luật trên thực tế. Tùy theo tiêu chí phân loại,
chế tài được phân chia thành nhiều loại.
Căn cứ vào tính chất của những biện pháp mà nhà nước tác động tới các chủ thể
vi phạm pháp luật, có thể phân biệt chế tài thành các loại: Chế tài hình sự là loại chế
tài nghiêm khắc nhất, nhằm trừng trị những người có hành vi vi phạm quy định của
quy phạm luật hình sự, bị coi là tội phạm; Chế tài hành chính, áp dụng đối với các chủ
thể có hành vi vi phạm quy định của quy phạm luật hành chính; Chế tài kỷ luật, áp
dụng đối với những người có hành vi vi phạm nội quy, quy chế của cơ quan, trường
17
học hay tập thể lao động, v.v..; Chế tài dân sự, áp dụng đối với các hành vi vi phạm
các quy định của quy phạm pháp luật dân sự.
Căn cứ theo mức độ xác định của chế tài, phân biệt chế tài thành các loại: Chế
tài xác định, là những biện pháp cố định của sự tác động. Loại chế tài này rất phổ biến,
nó se hạn chế được sự tùy tiện trong việc áp dụng chế tài của cơ quan bảo vệ pháp
luật; Chế tài xác định tương đối, là biện pháp tác động được hạn chế bởi các giới hạn
trên và dưới. Loại chế tài này cho phép cơ quan bảo vệ pháp luật khi áp dụng được
tính toán cho phù hợp với mức độ vi phạm để xác định một mức cụ thể; Chế tài lựa
chọn là loại chế tài cho phép cơ quan bảo vệ pháp luật được lựa chọn một trong số
biện pháp tác động được quy định trong nội dung của chế tài.
1.4. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.4.1. Khái niệm, đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
1.4.1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Lịch sử pháp luật có ghi nhận ba hình thức pháp luật chủ yếu là Tập quán pháp;
Tiền lệ pháp và Văn bản quy phạm pháp luật. Mỗi hình thức pháp luật có thể là hình
thức pháp luật chủ yếu của quốc gia này nhưng không phải là hình thức pháp luật chủ
yếu của quốc gia khác. Có những quốc gia, ở những thời kỳ lịch sử nhất định, cả ba
hình thức pháp luật trên đều được áp dụng, ở các lĩnh vực khác nhau. Thực tế, văn bản
quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ nhất và là hình thức cơ bản của pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Về nguyên tắc, Nhà nước xã hội chủ nghĩa khơng thừa nhận
hình thức pháp luật tập quán pháp, tiền lệ pháp mà chỉ thừa nhận hình thức Văn bản
quy phạm pháp luật. Nghĩa là, mọi quy tắc xử sự của pháp luật xã hội chủ nghĩa đều
phải được ghi nhận, thể hiện dưới hình thức văn bản và do cơ quan có thẩm quyền ban
hành. Điều 2 - Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2015) quy định: Văn bản
quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo
đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có
chứa quy phạm, pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức,
trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì khơng phải là văn bản quy phạm pháp
luật.
Văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo tiền đề để thiết lập,
củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, một nguyên tắc hoạt động cơ bản
của Bộ máy nhà nước và các Tổ chức chính trị - xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng một hệ thống văn bản thống nhất, đồng bộ, kịp thời với kỹ thuật cao, quy
định rõ ràng, cụ thể, chính xác quyền hạn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân là điều kiện quan trọng để thiết lập
một trật tự pháp luật trong xã hội.
1.4.1.2. Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
Một là, văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành. Ngồi ra các Tổ chức xã hội được ủy quyền cũng có thể ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật. Theo pháp luật Việt Nam, các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm
18
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật gồm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tưởng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởngViện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân các
cấp, Ủy ban nhân dân các cấp.
Hai là, văn bản quy phạm pháp luật có nội dung là những quy phạm pháp luật.
Đặc điểm này để phân biệt với những văn bản cũng do cơ quan nhà nước ban hành
nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật, vì trong đó khơng có nội dung là
những quy phạm pháp luật, chẳng hạn lời hiệu triệu, lời khuyến cáo của Chính phủ,
báo cáo tổng kết của các cơ quan nhà nước, v.v.. Đặc biệt, cần phân biệt văn bản quy
phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật được ban
hành bởi cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật, áp dụng một lần trong cuộc sống
cho một vụ việc cụ thể như bản án của tòa án, quyết định xử phạt vi phạm hành chính
của cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Cịn văn bản quy phạm pháp luật được áp
dụng nhiều lần trong thực tiễn cuộc sống, được áp dụng trong mọi trường hợp khi có
sự kiện pháp lý xảy ra và phù hợp với các quy phạm pháp luật trong văn bản đó.
Ba là, tên gọi, nội dung, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy
định cụ thể trong pháp luật của nhà nước. Việc ban hành các văn bản pháp luật phải
tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, thủ tục, nội dung và hình thức.
1.4.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta
1.4.2.1. Văn bản luật
Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội cơ quan cao nhất của
quyền lực nhà nước ban hành theo trình tự thủ tục và hình thức được quy định trong
hiến pháp. Quốc hội có thẩm quyền ban hành các văn bản luật sau:
Thứ nhất, Hiến pháp là hình thức văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban
hành, có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quy định các vấn
đề cơ bản nhất của Nhà nước như: hình thức và bản chất nhà nước, chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hiến pháp là cơ sở để xây dựng các ngành luật
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được cụ thể hóa, chi tiết hóa bằng các văn bản
pháp quy. Mọi văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của Việt Nam đều phải
phù hợp với Hiến pháp.
Thứ hai, Bộ luật, Luật (gọi chung là luật) là đơn vị cấu trúc bên trong của hệ
thống pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội
có cùng tính chất, nội dung thuộc một lĩnh vực đời sống xã hội nhất định, như: lĩnh
vực kinh tế, xã hội, quốc phịng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc,
tơn giáo, văn hố, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và
nghĩa vụ của công dân. Nói cách khác, bộ luật, luật dùng để điều chỉnh các quan hệ xã
hội cơ bản thuộc các lĩnh vực về đối nội và đối ngoại của quốc gia. Bộ luật, luật có
19
tính chất cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp theo những ngành luật hoặc các lĩnh
vực pháp luật chun biệt, ví dụ: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hơn nhân và
gia đình, v.v.. Trong khoa học pháp lý, bộ luật và luật đều được gọi là đạo luật; sự khác
nhau giữa bộ luật và luật thường không nhiều. Tuy nhiên, bộ luật thường điều chỉnh
các nhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát; bộ luật là “xương sống” của
một ngành luật. Ngồi ra, các bộ luật lớn cịn chứa đựng những nguyên tắc chi phối
các ngành luật lân cận. Ví dụ: các quy định của Bộ luật Dân sự có thể được viện dẫn
trong khi giải quyết các quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật
thương mại, v.v..
Thứ ba, Nghị quyết của Quốc hội được sử dụng để điều chỉnh các nhóm quan hệ
xã hội có tầm quan trọng quốc gia và trong nhiều trường hợp mang tính nhất thời, cụ
thể. Có thể tạm chia nghị quyết theo các nhóm sau: Nghị quyết được ban hành để
quyết định nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phân
bổ ngân sách trung ương, điều chỉnh ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân
sách nhà nước; Nghị quyết dùng để ổn định chế độ công tác của Quốc hội và các cơ
quan trực thuộc Quốc hội, ví dụ: quy định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Nghị quyết dùng để phê chuẩn các điều ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia. Ngồi ra nghị quyết cịn dùng để quyết định các vấn đề khác thuộc
thẩm quyền của Quốc hội.
1.4.2.2. Văn bản dưới luật
Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà
nước ban hành theo trình tự thủ tục và hình thức được pháp luật quy định. Cụ thể:
Một là, Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên
tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam.
Hai là, Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
Ba là, Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đồn
Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Bốn là, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Năm là, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Sáu là, Thơng tư của Chánh án Tịa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.
Bảy là, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh).
Tám là, Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
20
Chín là, Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt.
Mười là, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
huyện).
Mười một là, Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Mười hai là, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã).
Mười ba là, Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.
1.5. QUAN HỆ PHÁP LUẬT
1.5.1. Khái niệm, đặc điểm quan hệ pháp luật
Quan hệ giữa người và người - quan hệ xã hội - rất đa dạng và phong phú, phát
sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng tồn tại giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với tổ chức, tập thể và nhà nước; giữa tổ chức với nhau hoặc với nhà
nước... Các quan hệ này được điều chỉnh bởi tổng thể những quy phạm xã hội khác
nhau: quy phạm đạo đức, quy phạm tơn giáo, quy phạm phong tục, quy tắc đồn thể,
quy phạm pháp luật... Trong xã hội có nhà nước, các quan hệ xã hội quan trọng nhất
được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật.
Quan hệ pháp luật là hình thức biến thể của một quan hệ xã hội do một quy
phạm pháp luật điều chỉnh, trong đó quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy định và
bảo đảm thực hiện. Quan hệ pháp luật có những đặc điểm sau:
Một là, quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí, quan hệ pháp luật phát
sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật, mà quy phạm pháp luật phản ánh ý chí của nhà
nước. Nhiều trường hợp, trong khuôn khổ pháp luật, quan hệ pháp luật phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt do ý chí của các bên chủ thể tham gia, ví dụ hợp đồng, di chúc...
Hai là, quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật, khơng có quy
phạm pháp luật thì khơng có quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là hình thức biến
thể của một quan hệ xã hội, một quan hệ xã hội chỉ trở thành một quan hệ pháp luật
khi có một quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh quan hệ xã hội đó. Mặt
khác quan hệ pháp luật là phương tiện để thực hiện quy phạm pháp luật. Quy phạm
pháp luật chỉ được thực hiện trong đời sống khi có các quan hệ pháp luật phát sinh.
Ba là, quan hệ pháp luật thuộc thượng tầng kiến trúc, Pháp luật là một hiện
tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, quan hệ pháp luật lại xuất hiện trên cơ sở các quy
phạm pháp luật, do vậy quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội thuộc thượng tầng kiến
trúc.
Bốn là, quan hệ pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước,
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật luôn được bảo đảm bằng
sự cưỡng chế của nhà nước. Quyền được nhà nước bảo đảm và bảo vệ, nghĩa vụ nhà
nước buộc phải thực hiện.
21
1.5.2. Thành phần của quan hệ pháp luật
1.5.2.1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể pháp luật có đặc trưng đặc biệt là nhà nước trao cho họ năng lực chủ thể,
tức là khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật và để trở thành chủ thể quan hệ
pháp luật, mà khả năng đó được nhà nước thừa nhận và bảo đảm. Năng lực chủ thể
gồm hai yếu tố: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được tham gia quan hệ pháp luật để
hưởng quyền và gánh chịu nghĩa vụ pháp lý. Như vậy, chủ thể pháp luật, dù là cá nhân
hay tổ chức, bắt buộc phải có năng lực pháp luật.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể bằng hành vi (hành động hoặc không
hành động) của bản thân tham gia một quan hệ pháp luật để tạo ra quyền và nghĩa vụ
và chịu trách nhiệm pháp lý trước hành vi đó.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi không phải là thuộc tính tự nhiên của chủ
thể pháp luật mà xuất hiện trên cơ sở pháp luật, phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính pháp lý có mối quan hệ
với nhau. Chủ thể pháp luật chỉ có năng lực pháp luật mà khơng có năng lực hành vi
thì khơng thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật trực tiếp, chủ động được. Ngược lại,
một người có năng lực hành vi nói chung nhưng khơng năng lực pháp luật ở lĩnh vực
nào đó thì khơng thể tham gia quan hệ pháp luật ở những lĩnh vực đó. Một cá nhân
hoặc tổ chức muốn trở thành chủ thể pháp luật: điều kiện cần là năng lực pháp luật;
điều kiện đủ là năng lực hành vi.
1.5.2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật là bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể
Quyền của chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành
là: Khả năng được hành động trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định trước;
Khả năng yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ của họ; Khả năng yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền thực hiện sự cưỡng chế đối với bên kia
Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà chủ thể bắt buộc phải tiến hành nhằm
đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác là sự bắt buộc phải có những xử sự
nhất định do quy phạm pháp luật xác định trước; Cách xử sự này nhằm thực hiện
quyền của chủ thể bên kia; Trong trường hợp cần thiết se được đảm bảo bằng sự cưỡng
chế của Nhà nước.
1.5.2.3. Khách thể của quan hệ pháp luật
Cá nhân, tổ chức khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó đều nhằm thỏa
mãn những nhu cầu nhất định về vật chất, tinh thần, về chính trị, văn hóa... Tuy nhiên,
khơng phải mọi nhu cầu đó đều được pháp luật cho phép thực hiện do lợi ích, an tồn
quốc gia, an toàn xã hội, chẳng hạn như sự trả thù bằng cách giết người, hoặc tìm kiếm
lợi ích kinh tế bằng việc mua bán, vận chuyển các chất ma túy... Lợi ích mà các chủ
thể muốn đạt được là yếu tố không thể thiếu của quan hệ pháp luật và cũng chính điều
đó mà pháp luật xác định những quan hệ xã hội nào pháp luật cần điều chỉnh. Những
22
lợi ích mà các chủ thể hướng tới hoặc mong muốn đạt được chính là khách thể của
quan hệ pháp luật. Đặc điểm của khách thể quy định tính chất của quan hệ pháp luật là
quan trọng hay ít quan trọng và từ đó, Nhà nước cịn xác định các phương pháp điều
chỉnh khác nhau đối với các quan hệ xã hội khác nhau.
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà vì chúng các chủ thể tham
gia vào các quan hệ pháp luật, là đối tượng mà trên đó xuất hiện quyền và nghĩa vụ
chủ thể.
1.5.2.4. Sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý là những sự việc, tình huống, hồn cảnh thực tế xảy ra phù hợp
với những quy phạm pháp luật, làm phát sinh, thay đổi chấm dứt một quan hệ pháp
luật. Sự kiện pháp lý được chia thành sự biến và hành vi.
Sự biến pháp lý là các hiện tượng (sự cố) tự nhiên, xảy ra ngồi ý chí, dự định
và khả năng kiểm soát của con người; pháp luật gắn các các sự kiện đó với việc hình
thành, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý
Hành vi pháp lý là những xử sự có ý thức của con người mà gắn với nó là sự
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý. Hành vi là xử sự có ý thức
bao gồm hành động và khơng hành động. Những hành động vô thức không được gọi là
hành vi và khơng mang tính chất pháp lý. Căn cứ vào mức độ phù hợp với các quy
định của pháp luật chúng ta có thể xác định được những hành vi hợp pháp và những
hành vi không hợp pháp. Những hành vi không hợp pháp là những hành vi vi phạm,
khơng tn thủ pháp luật một cách đầy đủ, chính xác, tuyệt đối. Ngồi hành vi khơng
hợp pháp, những hành vi pháp lý khác được coi là hợp pháp.
1.6. VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.6.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động), trái pháp luật,
có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã
hội được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ.
1.6.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật
Có thể nói,tất cả mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật, nhưng
trái lại, không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật nếu
khơng có đủ 4 dấu hiệu cơ bản sau:
Một là, mặt khách quan của pháp luật (những biểu hiện bên ngoài của vi phạm
pháp luật), gồm: Hành vi trái pháp luật; Hậu quả là sự thiệt hại của xã hội là những tổn
thất về vật chất hoặc tinh thần mà xã hội phải gánh chịu; Mối quan hệ giữa hành vi trái
pháp luật và sự thiệt hại của xã hội.
Hai là, Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật, gồm: lỗi, động cơ, mục đích của
chủ thể hành vi trái pháp luật.
Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi của mình cũng như đối với
hậu quả của nó. Lỗi gồm có:
Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
do hành vi của mình gây ra, song muốn điều đó xẩy ra
23
Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
do hành vi của minh gây ra tuy không mong muốn nhưng để mặc nó xẩy ra
Lỗi vơ ý vì q tự tin: chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã
hội do hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng tin tưởng điều đó khơng xẩy ra hoặc
xẩy ra thì có thể ngăn chặn được.
Lỗi vơ ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm đã không nhìn thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mặc dù có thể hoặc cần phải nhìn
thấy trước.
Động cơ là cái gì thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật.
Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình chủ thể mong muốn
đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật.
Ba là, chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
pháp lý
Bốn là, khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ nhưng lại bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới.
1.6.3. Các loại vi phạm pháp luật
Một là, vi phạm hình sự (tội phạm) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong bộ luật hình sự của nhà nước, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. (chủ thể vi phạm là cá nhân hoặc
pháp nhân thương mại)
Hai là, vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình
sự mà theo quy định của pháp luật phải xử phạt hành chính. (chủ thể là cá nhân hoặc
tổ chức)
Ba là, vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại tới những
quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài sản. (chủ
thể là cá nhân hoặc tổ chức)
Bốn là, vi phạm kỷ luật nhà nước là những hành vi có lỗi trái với những quy chế,
quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học…khơng thực
hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, nội quy, quy chế của cơ quan xí nghiệp va các tổ
chức đồn thể. (chủ thể là cán bộ, công nhân, viên chức, học sinh...)
1.7. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
1.7.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước (thơng
qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật. Trong đó bên vi phạm
pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế của nhà
nước được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật
Trách nhiệm pháp lý có một số đặc điểm sau:
Một là, cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật là những hành vi trái với yêu cầu của pháp luật do những chủ
thể có năng lực hành vi thực hiện. Điều đó có nghĩa là trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng
24
đối với các chủ thể có lý trí và tự do ý chí, là các chủ thể nhận thức được hành động
của mình, có khả năng và điều kiện tự lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp với
những cách xử sự mà pháp luật quy định nhưng vẫn làm trái với điều đó. Nói cách
khác, chủ thể trách nhiệm pháp lý chỉ có thể là những cá nhân hoặc tổ chức và có lỗi
trong việc vi phạm các yêu cầu của luật pháp.
Hai là, trách nhiệm pháp lý chứa đựng yếu tố lên án của nhà nước và xã hội với
chủ thể vi phạm pháp luật, là sự phản ứng của nhà nước đối với vi phạm pháp luật.
Ba là, trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết với cưỡng chế nhà nước.
Khi vi phạm pháp luật xảy ra thì lúc đó giữa chủ thể vi phạm và cơ quan nhà
nước se xuất hiện một loạt các quan hệ, trong đó có việc cơ quan nhà nước xác định
biện pháp cưỡng chế và áp dụng các biện pháp đó. Nhưng khơng phải biện pháp tác
động nào cũng có tính chất cưỡng chế trong trường hợp này đều là biện pháp trách
nhiệm pháp lý. Biện pháp trách nhiệm pháp lý chỉ là những biện pháp trừng phạt, tức
là tước đoạt, làm thiệt hại ở một phạm vi nào đó các quyền, tự do, lợi ích hợp pháp mà
chủ thể vi phạm pháp luật đáng ra được hưởng. Như vậy, cưỡng chế nhà nước làm một
khái niệm rộng hơn, bao hàm các biện pháp trách nhiệm và các biện pháp cưỡng chế
(các biện pháp áp dụng ngay cả khi chưa có vi phạm pháp luật xảy ra với mục đích
phịng ngừa vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích nhà nước và lợi ích cơng dân).
Bốn là, cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định có hiệu
lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đặc điểm này xuất phát từ quan hệ không tách rời giữa trách nhiệm pháp lý và
nhà nước. Điều đó có nghĩa là nhà nước (thơng qua cơ quan, người có thẩm quyền)
mới có thẩm quyền xác định một cách chính thức hành vi nào là vi phạm pháp luật và
áp dụng biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể gây ra vi phạm đó.
1.7.2. Các loại trách nhiệm
Trách nhiệm pháp lý mà nhà nước xã hội chủ nghĩa áp dụng có nhiều loại.
Thơng thường được chia thành các loại trách nhiệm pháp lý sau:
Một là, trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất được
toà án nhân danh Nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội được
quy định trong Bộ luật hình sự.
Hai là, trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý được toà án nhân danh
Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể vi phạm dân sự (cá nhân hoặc tổ chức pháp
nhân)
Ba là, trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng cơ quan,
giám đốc xí nghiệp, v.v.. áp dụng đối với cán bộ, nhân viên, người lao động nói chung
khi họ vi phạm kỷ luật lao động, kỷ luật nhà nước
Bốn là trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lý chủ yếu được các cơ
quan quản lý nhà nước áp dụng đối với các cá nhân hoặc tổ chức thực hiện vi phạm
hành chính
Năm là trách nhiệm công vụ (trách nhiệm vật chất) được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm quy định công vụ, quy chế công chức
25