ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƯU TRỌNG NGHĨA
kiĨm s¸t hoạt động t- pháp
trong giai đoạn khởi tố vụ án h×nh sù
theo lt tè tơng h×nh sù viƯt nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2021
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƯU TRỌNG NGHĨA
kiĨm s¸t hoạt động t- pháp
trong giai đoạn khởi tố vụ án h×nh sù
theo lt tè tơng h×nh sù viƯt nam
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi dưới sự hướng dẫn của GS.TSKH Đào Trí Úc. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn
học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lưu Trọng Nghĩa
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI
TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIA
ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................... 8
1.1.
Khái niệm, bản chất, đặc điểm và ý nghĩa của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự ................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự .......................................... 8
1.1.2. Bản chất pháp lý ............................................................................... 10
1.1.3. Đặc điểm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ......................................... 10
1.1.4. Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ..................................... 11
1.2.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự ....... 12
1.2.1. Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân ............................................ 12
1.2.2. Định nghĩa chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự ................................................................ 21
1.2.3. Đặc điểm của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự ................................................................ 23
1.2.4. Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự..................................................................................... 23
1.2.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát hoạt động
tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ................................... 24
1.2.6. Ý nghĩa của việc kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự................................................................................. 24
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TIỄN KIỂM SÁT ............................................................... 26
2.1.
Công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố ..... 26
2.1.1. Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố ............................................................................... 26
2.1.2. Kiểm sát việc điều tra trong giai đoạn khởi tố ................................... 30
2.1.3. Kiểm sát tạm đình chỉ việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố .................................................................... 31
2.1.4. Kiểm sát quyết định khởi tố và quyết định khơng khởi tố vụ án
hình sự .............................................................................................. 33
2.1.5. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ .................. 37
2.2.
Thực tiễn và nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ......................................... 49
2.2.1. Thực tiễn và kết quả áp dụng ............................................................ 49
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn thành phố
Hà Nội .............................................................................................. 58
2.3.
Một số nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động kiểm
sát khởi tố vụ án hình sự................................................................. 62
2.3.1. Quy định của pháp luật ..................................................................... 62
2.3.2. Trình độ, năng lực nghiệp vụ trong áp dụng pháp luật của Kiểm
sát viên còn hạn chế .......................................................................... 67
2.3.3. Điều kiện cơ sở vật chất .................................................................... 68
2.3.4. Lực lượng cán bộ, kiểm sát viên ....................................................... 68
Chương 3: NHỮNG THÁCH THỨC, VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI
PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ..................................................................... 70
3.1.
Những thách thức, vướng mắc hiện nay trong công tác kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ....... 70
3.1.1. Những thách thức, vướng mắc về mặt xã hội trên địa bàn thành
phố Hà Nội ....................................................................................... 70
3.1.2. Những thách thức, vướng mắc về mặt con người .............................. 71
3.1.3. Yêu cầu của cải cách tư pháp ............................................................ 73
3.2.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật ......................................... 77
3.3.
Giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ................................... 80
3.4.
Một số giải pháp khác ..................................................................... 82
3.4.1. Giải pháp, kiến nghị để thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ .......... 82
3.4.2. Giải pháp, kiến nghị về công tác cán bộ của ngành kiểm sát ............. 84
3.4.3. Giải pháp, kiến nghị về cơ sở vật chất ............................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 94
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Bảng 2.1
Số liệu viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra khởi
Trang
tố và Cơ quan điều tra đã khởi tố theo yêu cầu của
viện kiểm sát
Bảng 2.2
Số liệu tổng thụ lý tin báo và số tin báo tạm đình chỉ
giải quyết
Bảng 2.3
53
54
Số liệu thống kê trường hợp Viện kiểm sát hai cấp
nhân dân thành phố Hà Nội hủy quyết định khởi tố của
Cơ quan điều tra; hủy quyết định không khởi tố của
Cơ quan điều tra từ năm 2018 - 2020
Bảng 2.4
Số liệu người bị tạm giữ và tỷ lệ khởi tố vụ án hình sự
của cả nước từ năm 2018 - 2020
Bảng 2.5
55
57
Số liệu về lệnh bắt khẩn cấp của Cơ quan điều tra
được Viện kiểm sát phê chuẩn và không phê chuẩn từ
năm 2018 - 2020
Bảng 2.6
60
Số liệu Viện kiểm sát đã hủy bỏ quyết định tạm giữ và
không phê chuẩn gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra
từ năm 2018 – 2020
62
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kể từ hiến pháp năm 1959, thiết chế Viện kiểm sát luôn được khẳng
định là hệ thống cơ quan độc lập, thực hiện hai chức năng quan trọng là thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc thực hiện quyền lực của nhà nước.
Ngành kiểm sát nhân dân luôn tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khác với
nhiều các quốc gia khác trên thế giới, từ khi mới giành được độc lập đến nay,
nước ta chỉ có một Đảng duy nhất lãnh đạo nhân dân nên việc kiểm sát việc
thực hiện quyền lực nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân cũng có nhiều điều
đặc thù, khác biệt. Trong giai đoạn hiện nay, chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân cũng là một đặc thù, thể hiện sự ủy quyền
của Quốc hội về giám sát quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp.
Trong thực quá trình thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân có thể tách ra thành nhiều giai đoạn nhỏ. Trong
đó giai đoạn kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
là giai đoạn vô cùng quan trong, việc thực hiện tốt giai đoạn này sẽ góp phần
định hướng và giải quyết nhanh chóng các giai đoạn tiếp theo. Đây là giai
đoạn đầu tiền của quá trình tố tụng, việc thực hiện tốt kiểm sát giai đoạn khởi
tố vụ án giúp cho việc khởi tố vụ án đúng pháp luật, định hướng quá trình
điều tra nhanh chóng, chính xác. Kiểm sát hoạt động khởi tố vụ án có ý nghĩa
quan trọng trong cơng tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm mọi tội
phạm đã phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và
đúng pháp luật; tránh bỏ lọt tội phạm; không làm oan sai người vô tội.
Đáp ứng yêu cầu này ngành Kiểm sát đã không ngừng nâng cao chất
lượng trong việc kiểm sát thụ lý, giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố; kiểm sát chặt chẽ các căn cứ áp dụng bắt, tạm giữ, đảm bảo việc
1
phê chuẩn trường hợp bắt, tạm giữ khi đã đủ căn cứ; kiểm sát chặt chẽ căn cứ
của các quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin báo, quyết định khởi tố
vụ án hình sự và khơng khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền;
kịp thời phát hiện những sai phạm trong quyết định khởi tố vụ án hoặc khơng
khởi tố vụ án hình sự để có biện pháp khắc phục, mọi quyết định khởi tố vụ
án khơng có căn cứ đều phải được hủy bỏ.
Bên cạnh kết quả đạt được, trên thực tế kiểm sát hoạt động khởi tố vụ
án hình sự của Viện kiểm sát vẫn cịn có những hạn chế như có viện kiểm sát
vẫn chưa chú trọng cơng tác kiểm sát tin báo tố giác tội phạm hoặc kiến nghị
khởi tố; tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp xảy ra gây ảnh hưởng đến quyền lời
ích của cá nhân, cơ quan tổ chức; việc phát hiện các vi phạm của Cơ quan
điều tra trong quá trình khởi tố vụ án cịn hạn chế; tình trạng khởi tố khơng
đúng tội danh, oan, sai vẫn cịn xảy ra, tình trạng tạm đình chỉ giải quyết
nguồn tin tội phạm chiếm tỉ lệ lớn ... đã ảnh hưởng lớn đến quyền con người
được pháp luật bảo vệ.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên xuất phát từ một số nguyên
nhân như các quy định của pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng; công tác phối hợp
giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra chưa chặt chẽ; trình độ một số cán bộ,
Kiểm sát viên làm cơng tác kiểm sát cịn hạn chế, cơ sở vật chất, hạ tầng chưa
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm …
Để đáp ứng được u cầu của thực tế và khơng phụ lịng tin tưởng của
nhân dân, của đất nước, ngành kiểm sát nhân dân ln cố gắng khơng ngừng,
ngày càng hồn thiện hơn để đảm nhận những nhiệm vụ mà Đảng và nhà
nước giao phó. Trước yêu cầu của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp mà
Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra đã địi
hỏi ngành kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát hai cấp Hà Nội nói riêng
khơng chỉ tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra mà
2
còn tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp và phải nghiên cứu chuyên sâu
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ hoạt động khởi tố vụ án và
thực tiễn thực hiện chức năng này. Vì vậy, tơi lựa chọn đề tài “Kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
khơng chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn thể hiện rõ vai trò của Viện kiểm
sát trong quá trình kiểm sát giai đoạn khởi tố, giúp định hướng cho các giai
đoạn tố tụng tiếp theo, đảm bảo quá trình điều tra vụ án hình sự giải quyết
nhanh chóng.
Hiện nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học đề cập đến chức
năng kiểm sát khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát, đề cập đến khía cạnh
khác nhau, phạm vi nghiên cứu khác nhau.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, đã có các cơng trình nghiên cứu như sau:
Ở cấp độ đề tài khoa học cấp Nhà nước:
- Viện Nhà nước và pháp luật, Viện khoa học xã hội Việt Nam “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về quyền tư pháp của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011 -2020”. Chủ nhiệm đề tài:
PGS. TS. Nguyễn Đức Minh, năm 2011.
Một số cuốn sách tiêu biểu:
- Cuốn sách “Tư pháp trong nhà nước pháp quyền và những yêu cầu
đặt ra đối với cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, TSKH. Lê Cảm và TS.
Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2004.
- Cuốn sách “Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – Từ lý luận đến thực tiễn”, TS. Nguyễn Văn Quyền và
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2018.
3
Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có đề tài:
- Nguyễn Thành Trì “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn
khởi tố, điều tra án hình sự”, luận văn thạc sĩ thạc sĩ luật học năm 1996.
- Võ Phước Long “Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự”,
luận văn thạc sĩ luật học năm 2007.
- Vũ Thị Nhiên “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” luận văn thạc sĩ luật học năm 2017.
- Ngô Xuân Minh “Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắck”, luận văn thạc sĩ luật
học năm 2019.
Một số bài viết tiêu biểu:
- GS.TS. Võ Khánh Vinh “Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta”. Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 8/2003.
- TS. Phạm Mạnh Hùng “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc
khởi tố vụ án hình sự và việc kiểm sát việc khởi tố vụ án”. Tạp chí Kiểm sátViện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007.
- TS. Trần Thị Hiền “Những điểm mới về quyền lực và kiểm sốt quyền lực
Nhà nước”. Trang thơng tin điện tử Báo Nhân dân cuối tuần, ngày 27/12/2013.
- GS. TSKH. Lê Văn Cảm “Quyền tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền”. Tạp chí Tịa án nhân dân, số 19/2015.
- PGS. TS Nguyễn Đức Hạnh “Công tác kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn cải cách tư pháp”. Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, số 11/2020.
Kết quả các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đưa ra những quan điểm
cần thiết về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố của
Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên chưa có một cơng trình nghiên cứu nào về
4
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố của Viện kiểm sát nhân
dân tại thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.
Như vậy, có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài "chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội" là địi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa
có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố trên địa bàn thành phố Hà
Nội”; thực tiễn thực hiện chức năng này của Viện kiểm sát dựa trên kết quả
đạt được, những tồn tại hạn chế từ đó luận văn đưa ra giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng của việc thực hiện chức năng này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; hoạt động
kiểm sát khởi tố trong tố tụng hình sự.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân hai
cấp thành phố Hà Nội, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế và
những nguyên nhân hạn chế trong hoạt động kiểm sát khởi tố vụ án hình sự
- Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp kiến nghị để nâng cao hiệu quả kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong thực tiễn
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm
5
sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
kết hợp với thực tiễn thực hiện chức năng này, từ đó nghiên cứu giải pháp
kiến nghị để nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự trong thực tiễn.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong thời 3 năm (2018 2020) trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; về
vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng
VIII, IX, X, XIII và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 của Bộ Chính trị.
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là cơng trình nghiên cứu chun sâu ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó nêu ra một số giải pháp
nâng cao hiệu quả cho công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát. Trong quá trình nghiên cứu tác giả
6
cập nhật những điểm mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thể hiện Hiến pháp năm 2013, Luật tổ
chức Viện kiểm sát năm 2014 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực tiễn thực hiện kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; những tồn tại, hạn chế
cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất giải pháp kiến nghị để
nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự trong thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội.
Bên cạnh đó luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà
nghiên cứu lập pháp, các cán bộ giảng dạy pháp luật, nghiên cứu sinh, học
viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự. Kết quả
nghiên cứu của luận văn cịn trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán
bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố trong vụ án hình sự.
Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn kiểm sát.
Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIA ĐOẠN
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm và ý nghĩa của giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Quá trình nghiên cứu cho thấy hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm khởi tố vụ án hình sự như sau:
Theo Từ điển Luật học thì:
Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng
xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát hiện tội
phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở
đầu các hoạt động điều tra. Trong giai đoạn này cơ quan có thẩm
quyền khởi tố tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của
tội phạm [2, tr. 429].
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học
kiểm sát Hà Nội cho rằng:
Giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn của q trình tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về tội phạm, xác định có hay khơng có dấu hiệu của
tội phạm để quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự hay khởi tố vụ
án hình sự, là cơ sở để chấm dứt hoạt động tố tụng hình sự hay thực
hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án
hình sự [11, tr. 261-263].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí cho rằng:
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ
8
án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ sử dụng các
biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay khơng có dấu hiệu
tội phạm, trên cơ sở đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết
định đó là quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khơng
khởi tố vụ án hình sự [4, tr. 64].
Tác giả Lê Cảm khái niệm:
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng đầu tiên mà trong đó
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định việc có
(hay khơng) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về
việc khởi tố (hoặc khơng khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến
hành vi đó [3, tr. 24 -26].
Từ các quan điểm về giai đoạn khởi tố trên chúng ta có thể thấy chúng
đều có điểm chung:
Thứ nhất khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng.
Thứ hai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thời điểm bắt đầu và thời điểm
kết thúc.
Thứ ba trong giai đoạn này Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm phải xác
minh, kiểm tra xem có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi
tố vụ án hay quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự hay quyết định tạm đình
chỉ giải quyết tin báo tố giác tội phạm.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự: Là bước đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự trong đó,
các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật xác định có
hay khơng có dấu hiệu của tội phạm để đưa ra quyết định khởi tố vụ án hình
9
sự, hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các
bước tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.2. Bản chất pháp lý
Từ khái niệm trên chúng ta có thể nhận thấy, bản chất pháp lý của giai
đoạn này là ở chỗ:
Thứ nhất với tư cách là một giai đoạn trong tố tụng hình sự nên giai
đoạn khởi tố vụ án có thời điểm bắt đầu và kết thúc. Thời điểm của giai đoạn
này được bắt đầu từ khi khi cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát nhận được tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc vào thời điểm người phạm tội tự thú hoặc
khi tự mình trực tiếp phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Thời điểm kết thúc của
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là khi các cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm.
Thứ hai giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng xác định các tiền
đề pháp luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức (tố tụng) của
việc điều tra vụ án hình sự.
1.1.3. Đặc điểm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Với tính chất là một giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, có vai trò và
ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho các giai đoạn tiếp theo, nên giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự có những đặc điểm đặc trưng như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên,
được bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và kết thúc khi các cơ quan tiến
hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khơng khởi
tố vụ án hình hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn
10
khởi tố được quy định cụ thể trong bộ luật tố tụng hình sự bao gồm cơ quan
điều tra, viện kiểm sát và một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải quan, ... Những cơ quan
này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự hoặc
tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Thứ ba, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự cho nhiệm vụ xác định có hay
khơng có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc
quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự, trong trường hợp hết thời hạn kiểm
tra xác minh nhưng vẫn chưa đủ căn cứ để xác định có hay khơng có dấu hiệu
của tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
Thứ tư, trong quá trình kiểm tra xác minh nguồn tin báo, trên cơ sở của
pháp luật cơ quan có thẩm quyền được sử dụng một số biện pháp điều tra
như: yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài
liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; yêu cầu cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội hoặc cơng dân có liên quan giải thích làm rõ sự việc; khám
nghiệm hiện trường và tiến hành các biện pháp khác theo quy định của pháp
luật để xác định dấu hiệu của tội phạm; nếu bắt người trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang thì lấy lời khai của người bị bắt....
1.1.4. Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Về mặt pháp lý
Giai đoạn khởi tố là sự phản ứng nhanh chóng từ phía các cơ quan tiến
hành tố tụng đối với những hành vi phạm tội, nhằm phát hiện, điều tra và xử
lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm tội.
Chính vì vậy, giai đoạn khởi tố là giai đoạn mở đầu có tính chất định hướng
cho các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo để giải quyết vụ án hình sự.
11
Khi cơ quan điều tra hay cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự khơng chính xác, điều đó sẽ dẫn đến
các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử tiếp theo cũng khơng chính xác, bởi các
giai đoạn tố tụng hình sự tuy độc lập nhưng có mỗi quan hệ biện chứng, gắn
kết chặt chẽ với nhau nhằm chung một mục đích là tìm ra sự thật của vụ án.
Cùng với đó nếu việc đưa ra quyết định khơng khởi tố vụ án khơng chính xác
sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, gây bất bình trong dư luận.
Về mặt chính trị - xã hội:
Giai đoạn khởi tố là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan
trọng, khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt giai đoạn này sẽ góp
phần bảo vệ pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân, góp phần to
lớn vào cơng cuộc đấu tranh phịng và chống tội phạm trong toàn xã hội. Việc
các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra quyết định khởi tố vụ án hình sự chính
xác, khách quan, cơng bằng sẽ tạo niềm tin cho nhân dân vào sự nghiêm minh
của pháp luật, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật.
1.2. Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
1.2.1. Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân
Chức năng của cơ quan, tổ chức là phương diện hoạt động chính, chủ
yếu, đặc thù, mang tính ổn định lâu dài của cơ quan, tổ chức đó.
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những chức năng khác
nhau. Cơ quan điều tra có chức năng điều tra vụ án, vụ việc hình sự. Tịa án
có chức năng xét xử, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền cơng tố
(chức năng buộc tội) và kiểm sát hoạt động tư pháp. Ngoài những nhiệm vụ,
quyền hạn thực hiện phương diện hoạt động chính, chủ yếu, đặc thù của cơ
quan mình, mỗi cơ quan vẫn có thể thực hiện những nhiệm vụ khác được
giao. Ví dụ, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện thêm cả nhiệm vụ thống kê tội
phạm; Tòa án nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, có
quyền khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm... Những
12
hoạt động trên khơng phải là những hoạt động chính, chủ yếu của Viện kiểm
sát và Tòa án, do vậy, không phải là hoạt động thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát hoặc Tòa án.
Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
ghi nhận Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy
định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân như sau:
Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là phương diện hoạt động chính,
chủ yếu, đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, được quy định trong Hiến pháp, có
nội dung là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
1.2.1.1. Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
Quyền công tố là quyền buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự coi là tội phạm. Cơ sở phát sinh
quyền công tố là khi tội phạm xảy ra. Từ khi có thơng tin về tội phạm, Nhà
nước có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định tội phạm, tiến
hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, buộc người phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự. Quá trình áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định tội
phạm, người phạm tội, tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội
bằng các biện pháp khởi tố, điều tra, truy tố và thực hiện việc buộc tội của
Nhà nước tại phiên tòa là q trình thực hiện quyền cơng tố. Việc thực hiện
quyền công tố trên thực tế để giải quyết vụ án hình sự được gọi là thực hành
quyền cơng tố.
13
Như vậy, thực hành quyền công tố là thực hiện quyền buộc tội của Nhà
nước đối với người thực hiện tội phạm.
Quyền công tố là quyền của Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước giao cho
cơ quan nào thực hành quyền công tố và phạm vi thực hành quyền công tố
đến đâu thì ở pháp luật của các nước quy định không giống nhau. Điều này
xuất phát từ truyền thống pháp luật và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước ở mỗi quốc gia là khác nhau. Ở nước ta, Nhà nước giao cho (phân
công) Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố.
Thực hành quyền công tố là chức năng của Viện kiểm sát được ghi
nhận trong Hiến pháp. Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, phạm
vi thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát nhân dân diễn ra trong suốt quá
trình tìm kiếm, phát hiện tội phạm và quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử vụ án hình sự. Ở đâu mà Viện kiểm sát thực hiện việc xác minh để phát
hiện tội phạm, tiến hành buộc tội (truy cứu trách nhiệm hình sự) đối với người
thực hiện hành vi phạm tội, và bảo vệ quan điểm buộc tội, thì ở đó có việc
thực hành quyền cơng tố của Viện kiểm sát.
Thời điểm bắt đầu của việc thực hành quyền công tố là từ khi thụ lý
giải quyết thông tin về tội phạm (giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc
kiến nghị khởi tố) và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án (giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự) và kết thúc khi thuộc một
trong các trường hợp sau: Tòa án đã xét xử xong mà khơng có kháng cáo,
kháng nghị; Tịa án đã xét xử xong nhưng có kháng cáo, kháng nghị và Tịa
án đã xét xử vụ án theo thủ tục tố tụng khác và sau đó khơng cịn kháng nghị;
hoặc vụ án đã được đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án (do bị can không
phạm tội, hết thời hạn mà không chứng minh được bị can phạm tội, do người
yêu cầu khởi tố đã rút yêu cầu khởi tố, do Viện kiểm sát rút tồn bộ quyết
định truy tố, do có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo...).
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khi thực hành quyền cơng
14
tố, Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện các hoạt động sau đây: Yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người
phạm tội; giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành
một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với
người phạm tội; quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các
biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra,
truy tố; hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra; yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án,
phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; trực tiếp khởi tố vụ án,
khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; yêu cầu khởi tố, hủy
bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, phê chuẩn, không phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu
điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thực hiện; điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư
pháp theo quy định của luật; quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên
tòa; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội.
Thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, viện
kiểm sát nhân dân bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm
và người phạm tội; không người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị
15
hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật. Như vậy, chức năng thực
hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm mọi hành vi
phạm tội, người phạm tội đều phải được xử lý trước pháp luật, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật hình sự bảo vệ.
Như vậy, căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản pháp
luật khác có liên quan, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố như
sau: Thực hành quyền cơng tố là một trong các hình thức thực hiện quyền lực
của Nhà nước được giao cho Viện kiểm sát để thực hiện quyền buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội, bắt đầu từ khi thụ lý giải quyết thông tin về
tội phạm và diễn ra trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội và pháp nhân thương
mại phạm tội đều phải được xử lý hình sự theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
Bên cạnh chức năng thực hành quyền cơng tố. Viện kiểm sát cịn gánh
trên vai một chức năng khác là chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
Quyền tư pháp là một dạng quyền lực của nhà nước, nó được thể hiện:
Thứ nhất, là quyền phán quyết về các vi phạm pháp luật, xử lý người vi
phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, các biện pháp cưỡng chế được tổ chức
thi hành bằng bộ máy cưỡng chế nhà nước hoặc do nhà nước ủy quyền. Khi tổ
chức thi hành pháp luật (quyền hành pháp) mà phát hiện việc vi phạm pháp
luật thì khởi kiện người vi phạm ra trước cơ quan tư pháp xử lý [10].
Thứ hai là quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy
ra trong xã hội. Đó có thể là các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân; tranh
chấp giữa cá nhân với cơ quan tổ chức; tranh chấp giữa các cơ quan tổ chức
với nhau. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp khơng thể đứng ngồi các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Khi các bên có
tranh chấp và giữa các bên khơng có sự thỏa thuận, hịa giải và có một bên
16
khởi kiện, thì tịa án khơng thể khơng can thiệp bằng quyền lực của mình. Tịa
án khơng thể nại ra việc khơng có luật điều chỉnh để từ chối giải quyết các
tranh chấp đó [9, tr. 261].
Như vậy, hoạt động tư pháp có thể được hiểu là hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp nhận và giải quyết thông tin về tội
phạm (giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố), trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự); trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án hình sự, thi hành
án dân sự, thi hành án hành chính, thi hành tạm giữ, tạm giam; việc xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án; việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác
theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong các hình thức kiểm soát quyền
lực trong hoạt động tư pháp của Nhà nước, được Nhà nước giao cho Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện và được ghi nhận trong Hiến pháp. Nội dung của
kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Theo quy định của pháp luật, viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp thông qua các hoạt sau đây: Yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật;
tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo
kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động
tư pháp; trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; yêu cầu, kiến nghị
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi
17
phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; kháng nghị
bản án, quyết định của Tịa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết
định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi
phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư
pháp; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Như vậy, để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp Viện kiểm
sát có thể trực tiếp tiến hành cuộc kiểm sát tại một số cơ quan, tổ chức theo
luật định; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo
liên quan đến hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền.
Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát có thể tác động đến hoạt động tư
pháp của các cơ quan có liên quan dưới hình thức u cầu, kiến nghị (kiến
nghị khắc phục, xử lý vi phạm) hoặc kháng nghị (kháng nghị bản án, quyết
định của Tòa án hoặc kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật
của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp).
Việc viện kiểm sát nhân dân thức hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp là nhằm bảo đảm các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp được thực hiện đúng quy định của pháp luật; quyền
con người, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân được tơn
trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành nghiêm chỉnh; mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp
đều được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Từ các phân tích trên đây chúng ta có thể rút ra khái niệm kiểm sát hoạt
động tư pháp như sau:
18