Tải bản đầy đủ (.pdf) (445 trang)

TONG HOP BAN AN LY HON VE NGOAI TINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.87 MB, 445 trang )

CÔNG TY LUẬT CÔNG KHÁNH
𝐖𝐞𝐛𝐬𝐢𝐭𝐞: />𝐅𝐚𝐧𝐩𝐚𝐠𝐞: />𝐄𝐦𝐚𝐢𝐥:



𝐇𝐨𝐭𝐥𝐢𝐧𝐞: 0898.200.234
𝐀𝐝𝐝𝐫𝐞𝐬𝐬: 33 Trường Chinh, Thành phố Huế

TỔNG HỢP TÀI LIỆU NGHIỆP VỤ
80 BẢN ÁN LY HƠN VỀ NGOẠI TÌNH


TOÀ ÁN NHÂN DÂN
QUẬN HAI BÀ TRƢNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Đốc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 06/2020/HNGĐ-ST
Ngày 13 và 14/5/2020
V/v : Tranh chấp ly hơn

NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÕA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm :
Thẩm phán- Chủ toạ phiên tồ : Ơng Hồng Liên Sơn
Hội thẩm nhân dân:


1/ Bà Nguyễn Thị Huyền Nga
2/ Ơng Đồn Xn Miễn
1 Thư ký phiên tịa: Bà Phạm Thị Thanh Thủy– Thư ký Tòa án
2 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng tham gia phiên Toà:
Bà Lê Thị Huyền - Kiểm sát viên.
Ngày 13 và 14 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình, thụ lý số
59/2020/TLST – HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2020, về việc: “Tranh chấp ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐXX-ST ngày 23/4/2020; Giữa
các đương sự:
[4]Nguyên đơn: chị Thái Thị Kim T- Sinh năm 1971( Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Thành: Luật sư Mai Bích Ngân;
Luật sư Nguyễn Ngọc Đạt- Luật sư Công ty Luật TNHH Đơng Hà Nội( Có mặt)
- Bị đơn: Anh Trần Việt H- Sinh năm 1962( Có mặt)
Cùng trú tại: số 61- 63 phố H, phường N( Nay là phường P), quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 09/10/2019, cùng các lời trình bày khác tại Tòa án;
nguyên đơn là chị Thái Thị Kim T trình bày:
Chị và anh Trần Việt H kết hơn tự nguyện, có đăng ký kết hơn ngày
09/9/1997 tại UBND phường N, Hà Nội.
Sau khi kÕt h«n vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh
mâu thuẫn. Nguyên nhân là do quan điểm, lối sống của anh H không phù hợp với
1


chị. Tại phiên tòa, chị T xác định nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là : từ năm 2014,
chị phát hiện anh H có quan hệ đồng tính với người đàn ông tên M. Anh H và
người tên M thường xuyên liên lạc, thuê khách sạn sống với nhau. Từ khi có quan
hệ đồng tính, anh H khơng quan tâm gì đến gia đình, khơng có trách nhiệm với vợ

con, anh H thường chuyển tiền chu cấp cho người tên M. Vợ chồng khơng nói
chuyện, bàn bạc với nhau mọi vấn đề trong cuộc sống từ năm 2014 cho đến nay.
Cũng từ năm 2014, vợ chồng mặc dù sống chung một nhà nhưng không quan tâm
đến nhau, việc ai người đó làm, khơng sinh hoạt vợ chồng, sống ly thân.
Năm 2019, năm 2020 chị đã lập vi bằng về các chứng cứ anh H quan hệ
đồng tính với người tên M ( chị nộp vi bằng tại phiên tòa). Chị được biết anh H
hiện nay đã có con riêng do thụ tinh nhân tạo và giao cho người tên M nuôi.
Chị xác định cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh H khơng tồn tại, chị khơng
cịn tình cảm với anh M, anh M cũng khơng có tình cảm gì với chị, Chị đề nghị Tịa
án cho ly hơn để ổn định cuộc sống.
Quá trình giải quyết vụ án, anh H xác nhận đã nhận được các thông báo thụ lý,
thơng báo đến Tịa án giao nộp tài liệu trình bày ý kiến, thông báo phiên họp giao
nộp chứng cứ và hịa giải của Tịa án, nhưng anh khơng đến tịa theo thơng báo vì
anh khơng muốn ly hơn.
Tại phiên tịa ngày 13/5/2020, anh Trần Việt H trình bày: Về thời gian và điều
kiện kết hơn như chị T trình bày là đúng, anh khơng bổ sung gì thêm. Anh xác nhận
đã được biết các tài liệu vi bằng do chị T nộp tại phiên tòa. Anh cho rằng từ khi kết
hơn, vợ chồng anh khơng có mâu thuẫn gì. Chỉ từ khoảng năm 2014, chị T trở
thành Phật tử, theo đạo Phật, nên thường xuyên đi theo các sư chùa để học tập,
nghe giảng kinh. Có những thời điểm chị T đi vài ngày mới về, không quan tâm gì
đến anh. Về phần anh, do anh dành nhiều thời gian cho công việc, nên cũng không
quan tâm tới chị T. Thời gian này cả hai con anh đều đã đi học ở nước ngồi chỉ có
hai vợ chồng sống với nhau. Anh công nhận từ năm 2014 đến nay, vợ chồng anh
khơng có tiếng nói chung, khơng nói chuyện với nhau, không bàn bạc mọi vấn đề
trong cuộc sống, việc ai người đó làm, khơng để ý quan tâm lẫn nhau. Anh cũng
công nhận các tài liệu vi bằng chị T nộp là đúng, anh cũng xác nhận đã có con riêng
bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo và giao con riêng cho người đàn ông tên M
nuôi. Quan điểm của anh về mối quan hệ với người tên M như sau: anh cho rằng
những bức ảnh anh ôm, hôn người tên M là đúng sự thực, nhưng việc này xã hội
cũng không lên án, không trái đạo đức. Anh và anh M hợp nhau về nhiều quan

điểm, có thể chia sẻ với nhau mọi vấn đề. Việc anh có con riêng bằng phương pháp
2


thụ tinh nhân tạo là do anh và anh M thỏa thuận. Cho đến nay, anh chưa chung
sống với anh M như chị T nói. Việc anh chuyển tiền cho anh M là đúng, nhưng
xuất phát từ tình cảm cá nhân của anh.
Đối với việc chị T xin ly hôn anh khơng đồng ý vì khơng muốn phá vỡ gia đình.
Chị Thái Thị Kim T trình bày: chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh M.
Các tài liệu chứng minh mâu thuẫn giữa chị và anh M trầm trọng, chị đã nộp cho
Tòa án.
Về con chung: chị T, anh H đều xác nhận có 02 con chung đã trưởng thành
trên 18 tuổi, khơng u cầu Tịa án giải quyết.
Về tài sản chung: chị T, anh H đều không yêu cầu giải quyết trong vụ án
tranh chấp ly hôn.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị T phát biểu quan điểm bảo
vệ quyền lợi cho chị T như sau: việc anh H có quan hệ đồng giới với người đàn ơng
tên M, có con riêng giao cho anh M nuôi đã được anh H xác nhận tại phiên tòa.
Việc này đã chứng minh, anh H vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng. Từ năm
2014 cho đến nay, anh H và chị T sống ly thân, không ai quan tâm đến ai, mâu
thuẫn giữa anh H, chị T đã trầm trọng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1
Điều 56 Luật hôn nhân gia đình để chấp nhận u cầu xin ly hơn của chị T.
Về con chung và tài sản chung: đề nghị không xem xét.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, phát biểu quan điểm về
việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; đưa ra
quan điểm giải quyết vụ án như sau:
Về việc tuân theo pháp luật:
Việc thụ lý vụ án “tranh chấp ly hôn” là đúng thẩm quyền theo quy định
tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực hiện đúng trình tự tố tụng

trong quá trình thụ lý vụ án, điều tra xác minh, giao thơng báo của Tịa án cho các
đương sự. Tài liệu điều tra đã đầy đủ.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự.
- Quá trình giải quyết, anh H không chấp hành các thông báo của Tịa án.
Đề xuất hƣớng giải quyết vụ án:
Ý
Về tình cảm: Hôn nhân giữa anh H, chị T là hôn nhân hợp pháp.
Về mâu thuẫn vợ chồng của anh H, chị T: Theo tài liệu chị T nộp cho Tòa án và
lời trình bày của anh H tại phiên tịa thì mâu thuẫn vợ chồng là do anh H có quan
hệ đồng tính với người đàn ơng tên M. Vợ chồng khơng cịn tình cảm, quan tâm
3


chăm sóc lẫn nhau, việc ai người đó làm. Mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hơn
nhân khơng đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hơn
nhân gia đình: cho chị T ly hôn anh H.
- Về con chung: Hai con chung đã trưởng thành, nên không xem xét.
- Về tài sản chung: Không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÕA ÁN
[1] Về tố tụng:
Việc chị Thái Thị Kim T làm đơn xin ly hôn anh Trần Việt H (anh, chị đều
trú tại: số 61- 63 phố H, phường Ngơ Thì N( Nay là phường P), quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận
Hai Bà Trưng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật
tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu ly hôn của chị Thái Thị Kim T: căn cứ vào Giấy đăng ký
kết hôn, lời khai thừa nhận của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị Thái
Thị Kim T và anh Trần Việt H kết hơn tự nguyện, có đăng ký kết hơn ngày

09/9/1997 tại UBND phường Ngơ Thì N, Hà Nội. Đây là hôn nhân hợp pháp.
Căn cứ lời khai của chị T, anh H tại phiên tòa; căn cứ nội dung tin nhắn, hình
ảnh, nội dung chuyển tiền trong 02 tài liệu vi bằng do chị T nộp. Hội đồng xét xử
xác định nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị T với anh H là từ năm 2014 vợ chồng
khơng quan tâm, chăm sóc nhau, việc ai người đó làm, vợ chồng đã sống ly thân,
mặc dù cùng nơi cư trú. Tình cảm vợ chồng khơng cịn từ khi anh H có quan hệ tình
cảm đồng tính với người đàn ông tên M từ năm 2019. Nguyên nhân này đã dẫn đến
tình trạng vợ chồng càng trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục. Hội
đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân chấp nhận đơn xin ly hôn của
chị Thái Thị Kim T. Cho chị T ly hôn anh Trần Việt H.
[2.2] Về con chung: chị T, anh H xác nhận có 02 con chung đã trên 18 tuổi
là Trần Thái A- Sinh 1998 và Trần Thái C- Sinh 2001. Hiện nay cả hai con chung
đều sức khỏe bình thương, khơng u cầu Tịa án giải quyết, nên khơng xét.
[2.3] Về tài sản chung là động sản và bất động sản: chị T, anh H đề nghị
được giải quyết trong vụ án dân sự khác, không yêu cầu giải quyết trong vụ án này,
nên khơng xét.
- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: chị Thái Thị Kim T

4


phải chịu 300.000đ án phí ly hơn sơ thẩm. Xác nhận chị T đã nộp 300.000đ tạm
ứng án phí ly hôn.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, 273
Bộ luật tố tụng dân sự.
Bởi các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 56 Luật Hơn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm

a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tịa án;
Xử:
[2] Chấp nhận u cầu xin ly hôn của chị Thái Thị Kim T. Cho chị Thái Thị
Kim T ly hôn anh Trần Việt H.
[3] Về con chung: chị T, anh H xác nhận có 02 con chung đã trên 18 tuổi là
Trần Thái A- Sinh 1998 và Trần Thái C- Sinh 2001. Hiện nay cả hai con chung đều
sức khỏe bình thương, khơng u cầu Tịa án giải quyết, nên khơng xét.
[4] Về tài sản chung là động sản và bất động sản: chị Thái Thị Kim T, anh
Trần Việt H đề nghị giải quyết trong vụ án dân sự khác, nên không xét.
[4]Về án phí: chị Thái Thị Kim T phải chịu 300.000đ án phí ly hơn sơ thẩm.
Xác nhận chị T đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí, tại Biên lai thu án phí, lệ phí Tịa
án số 3280 ngày 16/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng.
Chị Thái Thị Kim T, anh Trần Việt H có quyền kháng cáo bản án trong hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án.
T/M Hội đồng xét xử sơ thẩm
Nơi nhận:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà
- Các đương sự;
- VKSND Q. Hai Bà Trưng;
- UBND Phương Liên, Đống Đa;
-Lưuhồsơ.

Hoàng Liên Sơn

5


TÕA ÁN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - hạnh phúc

Bản án số: 52/2020/HNGĐ-PT
Ngày: 06/5/2020
“V/v tranh chấp Hôn nhân và gia
đình”

NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÕA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Lê Na
Các Thẩm phán:

Bà Trần Thị Thanh Thảo
Bà Tôn Thị Xuân Thủy

Thư ký phiên tịa: Ơng Trần Minh Hồng - Thư ký Tịa án nhân dân thành
phố Hà Nội.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội:Ông Lê Đức Phƣơng
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 06 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2020/TLPT-HNGĐ ngày 02 tháng 01
năm 2020 về việc “Tranh chấp hơn nhân và gia đình”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 66/2019/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 11 năm 2019
của Tồ án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 81/2020/QĐXX-PT ngày
17 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Kiều Đức Q, sinh năm 1971. Vắng mặt.
Bị đơn: Chị Trần Thị Hồng T, sinh năm: 1974. Có mặt.
Cùng trú tại: huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị T: Luật sư Đặng Thị
Tâm – Cơng ty Luật ASEM VIỆT NAM. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Về hôn nhân: Anh Kiều Đức Q và chị Trần Thị Hồng T kết hôn trên cơ sở
tự nguyện, có đăng ký kết hơn tại UBND xã Tiên Phong, huyện Ba Vì ngày
12/4/2000.

1


Theo anh Q trình bày, sau khi kết hơn, vợ chồng anh chung sống hạnh phúc
đến giữa năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng
quan điểm, chị T nghi ngờ anh có quan hệ bất chính với người khác. Anh Q và chị
T đã sống ly thân nhau từ năm 2013 nhưng vì các con nên anh chị vẫn ở chung nhà.
Chị T cho rằng trước đây vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên
đến năm 2014, do chị phát hiện ra việc anh Q có quan hệ với người phụ nữ khác
nên anh chị có xẩy ra mâu thuẫn nhưng anh chị đã cố gắng dàn xếp, giải quyết mâu
thuẫn. Hiện nay, chị vẫn còn yêu thương và quan tâm chồng và anh Q vẫn rất quan
tâm gia đình.
Cuối tháng 7/2018, anh Q đã chủ động dọn ra ở riêng một mình và đã làm
đơn đề nghị Tịa án giải quyết cho được ly hôn với chị T.
Tại bản án sơ thẩm số 34/2018/HNGĐ-ST ngày 06/7/2018 của Tòa án nhân
dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội và Bản án phúc thẩm số 142/2018/HNGĐ-PT
ngày 12/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Kiều Đức Q. Từ ngày bị Tịa án xử bác đơn xin ly

hơn đến nay, tình cảm vợ chồng giữa anh chị vẫn khơng được cải thiện. Nhận thấy
tình cảm vợ chồng khơng cịn, ngày 13/9/2019, anh Q lại làm đơn đề nghị Tòa án
giải quyết cho anh được ly hôn với chị Trần Thị Hồng T.
Tịa án nhân dân huyện Ba Vì đã thụ lý và giải quyết vụ án. Trong quá trình
giải quyết vụ án chị T thừa nhận giữa chị và anh Q có mâu thuẫn nhưng chưa đến
mức trầm trọng. Chị vẫn cịn tình cảm với chồng và ln quan tâm đến anh Q. Chị
đề nghị Tịa án khơng chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Q, cho vợ chồng chị được
đoàn tụ.
Về con chung: Vợ chồng anh Q, chị T có hai con chung là Kiều Cơng M,
sinh ngày 05/9/2001 và Kiều Hồng L, sinh ngày 11/10/2004. Hiện nay cháu M đã
trưởng thành, khơng có nhược điểm thể chất, tâm thần. Anh Q có nguyện vọng
được nhận ni cháu L, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Chị T khơng
đồng ý ly hơn nên khơng có ý kiến về vấn đề con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh Q khơng u cầu Tịa án giải quyết. Chị T
không đồng ý ly hôn nên chưa yêu cầu giải quyết.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 66/2019/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 11 năm
2019 của Toà án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, Luật hơn
nhân và gia đình năm 2014. Các Điều 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự
2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14. Xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Kiều Đức Q được ly hôn chị Trần Thị Hồng T.

2


- Về con chung: Giao cháu Kiều Hồng L, sinh ngày 11/10/2004 cho anh
Kiều Đức Q nuôi dưỡng đến khi cháu L đủ 18 tuổi hoặc đến khi có yêu cầu khác.
Tạm miễn việc cấp dưỡng nuôi con đối với chị T đến khi có yêu cầu khác. Sau khi
ly hôn, chị T được quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung, khơng ai được
ngăn cản.

- Về tài sản chung, nợ chung: Khơng có u cầu nên khơng xem xét.
Ngồi ra bản án cịn tun án phí và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 05/12/2019, chị Trần Thị Hồng T làm đơn kháng cáo toàn bộ nội dung
bản án sơ thẩm số 66/2019/HNGĐ-ST ngày 28 tháng 11 năm 2019 của Tồ án nhân
dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đề nghị Tịa án khơng chấp nhận đơn xin ly
hôn của anh Q, xem xét lại vấn đề con chung và tài sản chung.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T đã xuất trình thêm chứng cứ là một số ảnh
chụp, tin nhắn, đĩa CD, đơn đề nghị chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, đơn đề
nghị trưng cầu giám định ADN.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng:
2. Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi lấy lời
khai của cháu L khơng có sự chứng kiến của người giám hộ. Đưa ra phán quyết chỉ
căn cứ vào lời khai của ông Quang và giao cháu L cho ông Quang nuôi.
3. Bản án sơ thẩm cho rằng thời điểm năm 2009 vợ chồng anh Q chị T phát
sinh mâu thuẫn là khơng có cơ sở, thực tế đến năm 2014 mới phát sinh mâu thuẫn.
Chị T không hề thuê xã hội đen hành hung chồng như lời khai của anh Q.
4. Thực tế, quan hệ vợ chồng giữa anh Q chị T có mâu thuẫn nhưng chưa
đến mức trầm trọng. Biểu hiện là 2 vợ chồng vẫn sống chung, cùng nhau chăm sóc
con cái, cùng nhau xây dựng tài sản chung là ngôi nhà năm 2016. Anh Q mặc dù có
quan hệ ngoại tình và có con riêng nhưng khơng hề mong muốn ly hơn mà chỉ vì
trách nhiệm ràng buộc với người con riêng nên buộc phải làm đơn xin ly hôn.
5. Về tài sản chung: Chị T không hiểu biết về pháp luật nhưng cán bộ Tịa
án chưa giải thích về quyền lợi của chị đối với phần tài sản chung, không hướng
dẫn công khai chứng cứ.
Từ những lập luận trên, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, không
giải quyết cho anh Q ly hôn với chị T.
Quan điểm của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội:
Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và thủ tục tố tụng tại phiên tòa. Các
đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.


3


[1]. Về nội dung:
Về hôn nhân: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Q và chị T đã kéo dài, trầm
trọng, mục đích hơn nhân khơng đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu xin ly hôn của anh Q, cho anh Q được ly hôn chị T.
Về con chung: Chấp nhận một phần kháng cáo của chị T, sửa bản án sơ
thẩm, giao cháu L cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng như nguyện vọng của cháu L tại
phiên tịa.
Về tài sản: Khơng chấp nhận u cầu chia tài sản chung vợ chồng trong vụ
án này do vượt quá phạm vi kháng cáo. Dành quyền khởi kiện vụ án chia tài sản
chung sau ly hôn cho các đương sự tại vụ án khác.
Đối với những sai sót của Tịa án cấp sơ thẩm khơng ảnh hưởng đến bản chất
vụ án, đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÕA ÁN:
[2].Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn là chị Trần Thị Hồng T là
hợp lệ. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội chấp nhận xem xét, giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm là đúng quy định.
Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn là anh Kiều Đức Q, anh Q đã có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh Q là đúng theo quy định tại
Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3]. Về nội dung:
2. Về quan hệ hôn nhân: Anh Kiều Đức Q và chị Trần Thị Hồng T kết hơn
trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hơn tại UBND xã Tiên Phong, huyện Ba Vì
ngày 12/4/2000 nên đây là hơn nhân hợp pháp.
Trong q trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do
vợ chồng bất đồng quan điểm, chị T nghi ngờ anh có quan hệ bất chính với người
khác. Đến cuối tháng 7/2018, mâu thuẫn vợ chồng quá trầm trọng, anh Q đã chủ

động dọn ra ở riêng và đã làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hơn với
chị T và đã bị hai cấp Tịa án thành phố Hà Nội xử bác đơn xin ly hôn. Tuy nhiên,
từ khi hai vợ chồng đồn tụ tình cảm vợ chồng giữa anh chị vẫn không được cải
thiện, mâu thuẫn không được giải quyết, vợ chồng vẫn sống ly thân, không quan
tâm đến nhau.
Nay anh Q tiếp tục làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hơn chị
T, chị T cho rằng tình cảm chị dành cho anh vẫn còn, anh chị vẫn yêu thương nhau
nên khơng đồng ý ly hơn.
Q trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác
minh, chính quyền địa phương xã Tiên Phong nơi anh Q, chị T cư trú cho biết: Anh
Kiều Đức Q và chị Trần Thị Hồng T là cơng dân của xã Tiên Phong, hai anh chị có
4


đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Tiên Phong. Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Q và
chị T phát sinh từ cuối năm 2017, nguyên nhân do anh Q không chung thủy. Hiện
nay hai anh chị vẫn sống chung trên một thửa đất nhưng hai người đã ở riêng, ăn
riêng, không ai quan tâm đến ai.
Chị T nhiều lần khẳng định anh Q có quan hệ với người phụ nữ khác, có con
riêng và xuất trình nhiều chứng cứ để chứng minh anh Q có quan hệ bất chính,
thậm chí có con chung với người phụ nữ khác. Mặc dù anh Q khơng thừa nhận
nhưng cũng khơng xuất trình được các chứng cứ chứng minh những lời khai và tài
liệu mà chị T cung cấp là không đúng sự thật.
Trong q trình giải quyết vụ án chị T có làm đơn đề nghị trưng cầu ADN để
chứng minh quan hệ bất chính của anh Q, chị cũng xuất trình tài liệu giám định
AND chứng minh nội dung này, bản thân anh Q khơng xuất trình được chứng cứ
bác bỏ chứng cứ mà chị T đưa ra. Xét thấy, mâu thuẫn giữa anh Q và chị T đã kéo
dài và trầm trọng nên việc xét nghiệm ADN trong trường hợp này là không cần
thiết nên Hội đồng không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định này của chị T.
Qua quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mâu thuẫn vợ

chồng giữa anh Q và chị T đã kéo dài nhiều năm, mặc dù hai cấp Tòa án của thành
phố Hà Nội đã bác đơn xin ly hôn của anh Q năm 2018 để hai vợ chồng đồn tụ
nhưng mâu thuẫn giữa anh chị khơng những không được giải quyết mà ngày càng
trầm trọng. Bản thân chị T cũng nhận thấy anh Q không chung thủy với chị và tìm
mọi cách để chứng minh. Đến nay, anh Q vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề
nghị Tịa án giải quyết cho ly hơn với chị T.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận u
cầu kháng cáo xin đồn tụ của chị T.
- Về con chung: Anh Kiều Đức Q và chị Trần Thị Hồng T có hai con chung
là Kiều Công M, sinh ngày 05/9/2001 và Kiều Hồng L, sinh ngày 11/10/2004.
Cháu M đủ 18 tuổi, khơng có nhược điểm thể chất, tâm thần nên Hội đồng xét xử
khơng xét. Anh Q và chị T đều có nguyện vọng được trực tiếp ni dưỡng và chăm
sóc cháu L và không đề cập đến vấn đề cấp dưỡng. Việc mong muốn trực tiếp ni
con chung là mong muốn chính đáng của cha, mẹ.
Trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, cháu L có đơn trình bày
nguyện vọng muốn được sống cùng mẹ.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu L là con gái, đang ở độ tuổi vị thành niên
rất cần sự dạy bảo, chăm sóc của người mẹ. Bản thân cháu cũng có nguyện vọng
được sống cùng mẹ. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu, Hội đồng xét
xử thấy rằng cần sửa bản án sơ thẩm, giao cháu L cho chị T trực tiếp chăm sóc,
ni dưỡng là phù hợp.

5


Về tài sản chung, nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm
anh Q khơng có yêu cầu giải quyết về tài sản, chị T không đồng ý ly hơn, chưa có ý
kiến về tài sản nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không xét.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, chị T có đơn đề nghị chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân được quy định tại Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó, trong thời kỳ
hơn nhân vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phân hoặc tồn bộ tài sản chung;
nếu khơng thỏa thuận được thì có quyền u cầu tịa án giải quyết.
Tuy nhiên, hiện nay anh Q đang có đơn yêu cầu giải quyết ly hôn nên việc
xem xét tài sản chung phải căn cứ vào nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn theo quy định tại Điều 59 Luật Hơn nhân và gia đình.
Trong q trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm chị T không đồng ý ly hơn
nên chưa có u cầu giải quyết phần tài sản, anh Q không yêu giải quyết phần tài
sản. Về tài sản, các đương sự có quyền tự thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án xem xét
khi giải quyết vụ án ly hôn. Do vậy, tại cấp sơ thẩm các đương sự khơng có u cầu
nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không xem xét, giải quyết là đúng quy định pháp luật
nên để đảm bảo quyền kháng cáo và các quyền lợi hợp pháp của các đương sự Hội
đồng xét xử phúc thẩm khơng có căn cứ để chấp nhận yêu cầu chia tài sản tại cấp
phúc thẩm của bị đơn.
Các đương sự có quyền tự thỏa thuận về việc chia tài sản hoặc có quyền u
cầu Tịa án chia tài sản vợ chồng sau khi ly hôn.
[4] Về án phí: Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của chị
Trần Thị Hồng T nên chị T khơng phải chịu án phí Hơn nhân gia đình phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ
thẩm.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, Luật hơn
nhân và gia đình năm 2014. Các Điều 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự
2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về thu,
miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng, án phí và lệ phí Tịa án. Xử:
1. Về quan hệ hơn nhân: Anh Kiều Đức Q được ly hôn chị Trần Thị Hồng T.
2. Về con chung: Giao cháu Kiều Hồng L, sinh ngày 11/10/2004 cho chị
Trần Thị Hồng T nuôi dưỡng đến khi cháu L đủ 18 tuổi hoặc đến khi có thay đổi

khác. Tạm hỗn việc cấp dưỡng ni con đối với anh Q cho đến khi chị T có yêu
cầu hoặc có sự thay đổi khác.

6


Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con
chung không ai được cản trở.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không chấp nhận giải quyết yêu cầu của chị
Trần Thị Hồng T về việc chia tài sản chung vợ chồng tại cấp phúc thẩm.
Dành quyền khởi kiện chia tài chung vợ chồng sau khi ly hôn cho anh Kiều
Đức Q và chị Trần Thị Hồng T trong một vụ án khác nếu có yêu cầu.
1. Về án phí: Anh Kiều Đức Q phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh Q đã nộp tại Cơ quan Chi cục thi hành
án dân sự huyện Ba Vì ngày 24/9/2019 theo biên lai số AG/2010/ 0009619.
Chị Trần Thị Hồng T khơng phải chịu án phí Hơn nhân gia đình phúc thẩm.
Trả lại cho chị T tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng theo biên lai số
AG/2010/0009786 ngày 17/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện ba Vì.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND thành phố Hà Nội;
- TAND huyện Ba Vì;
- THADS huyện Ba Vì;
- Các đương sự;
- UBND xã Tiên Phong, H. Ba Vì;
- Lưu HS+ VPTA.

T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(Đã ký)
Trần Thị Lê Na

7


TÕA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG

TỈNH LẠNG SƠN

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

–––––––––––––––

Bản án số: 12/2020/HNGĐ-ST
Ngày 17 - 6 – 2020
V/v ly hôn

NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÕA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG
SƠN - Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Bà Hồng Thị Tuyết.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ơng Lý Hồng Anh.
Ơng Lê Xn Nghiêm.

- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Mai, Thư ký Tòa án nhân dân huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tham
gia phiên tịa: Ơng Phạm Văn Tiến - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh
Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2020/TLST-HNGĐ, ngày
28 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 16/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2020; Thông báo chuyển
ngày xét xử vụ án dân sự số 01/TB-TA, ngày 8 tháng 6 năm 2020, giữa các đương
sự:
[1] Nguyên đơn: Chị Nông Thị H, sinh năm 1976; cư trú tại: Đường B, khu
C, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
[2] Bị đơn: Anh Hà Thái S, sinh năm 1973; cư trú tại: Đường B, khu C, thị
trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 18/9/2019, biên bản ghi lời khai, nguyên đơn chị
Nông Thị H trình bày:
Về quan hệ hơn nhân: Chị và anh Hà Thái S kết hơn từ năm 1994, anh chị có
được tìm hiểu u thương, có đi đăng ký kết hơn tại Ủy ban nhân dân thị trấn H,
huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc, đến năm
2011, vợ chồng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh S chơi bời, cờ


2

bạc, ngoại tình, khơng chăm lo đến gia đình, vợ chồng thường xuyên cãi chửi
nhau. Chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh S khơng thay đổi, thậm chí anh còn
bỏ đi ở với người phụ nữ khác và đã có con riêng. Từ năm 2011 đến nay, anh chị
đã sống ly thân, khơng cịn quan tâm đến nhau. Nay, chị xác định khơng cịn tình
cảm gì với anh S nữa, chị xin được ly hôn với anh.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị và anh Hà Thái S có 02 con
chung là Hà Thị Thủy T, sinh ngày 26/10/1995 và Hà Lệ C, sinh ngày 01/11/2001.
Hiện nay các con đã trưởng thành, đủ 18 tuổi nên chị khơng u cầu giải quyết.
Về tài sản chung: Khơng có.
Về nợ chung: Khơng có.
Theo biên bản ghi lời khai, bị đơn anh Hà Thái S trình bày:
1 Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nông Thị H kết hôn từ năm 1994, anh
chị có được tìm hiểu u thương, có đi đăng ký kết hơn tại Ủy ban nhân dân thị
trấn Hữu Lũng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn, trong thời gian
chung sống với chị H anh có quan hệ ngoại tình và đã có con riêng, từ năm 2011
đến nay vợ chồng anh do mâu thuẫn trầm trọng, đã sống ly thân. Trong thời gian ly
thân anh, chị khơng cịn quan tâm gì đến nhau. Nay, chị H xin ly hôn với anh, anh
không đồng ý, anh yêu cầu được đoàn tụ, anh biết mình sai nhưng anh khơng muốn
vợ chồng ly hơn, anh sẽ có trách nhiệm với chị H và cả với người phụ nữ riêng của
anh.
Về con chung: Trong thời gian chung sống, anh và chị H có 02 con chung là
Hà Thị Thủy T, sinh ngày 26/10/1995 và Hà Lệ C, sinh ngày 01/11/2001. Hiện nay
các con đã trưởng thành, đủ 18 tuổi nên anh không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung: Khơng có.
Về nợ chung: Khơng có.
Tại phiên tịa đại diện Viện kiểm sát có quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên
tịa: Trong q trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán đã xác định đúng thẩm
quyền, đúng mối quan hệ pháp luật; việc thu thập chứng cứ tài liệu trong hồ sơ vụ
án đúng trình tự và đầy đủ; việc tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ cho
Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử
đã thực hiện đúng các quy định về tố tụng; nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy
định về quyền và nghĩa vụ tố tụng tại Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn
không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 72 của
Bộ luật Tố tụng dân sự do có 02 lần khơng có mặt theo giấy triệu tập.

Về quan điểm giải quyết vụ án:
[7] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và
gia đình, cho chị H được ly hơn với anh S.


3

- Về con chung: Có 02 con chung là Hà Thị Thủy T, sinh ngày 26/10/1995
và Hà Lệ C, sinh ngày 01/11/2001, do các con đều đã trưởng thành, nên không yêu
cầu giải quyết.
- Về tài sản chung, nợ chung: Khơng xem xét giải quyết.
- Về án phí: Tịa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÕA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được kiểm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ chị Nông Thị H
và anh Hà Thái S, cả chị H, anh S đều vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Việc
vắng mặt của chị H, anh S không gây ảnh hưởng cho việc xét xử nên Hội đồng xét
xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm khoản 1 Điều 228 Bộ
luật tố tụng dân sự.
Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Chị Nơng Thị H và có đơn khởi
kiện u cầu giải quyết về quan hệ hôn nhân nên xác định quan hệ tranh chấp của
vụ án là ly hôn. Bị đơn anh Hà Thái S có địa chỉ tại đường B, khu C, thị trấn H,
huyện H, tỉnh Lạng Sơn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
5. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào
chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập có đủ cơ sở để
khẳng định: Năm 1994, chị Nông Thị H và anh Hà Thái S về chung sống với nhau

trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, anh chị có đi đăng ký kết hơn theo quy định của
pháp luật nên cuộc hôn nhân này là hợp pháp. Đến năm 2011, anh chị bắt đầu nảy
sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S có quan hệ với người khác, anh, chị đã sống
ly thân từ đó đến nay. Chị H xin ly hôn, anh S không đồng ý có nguyện vọng muốn
vợ chồng quay về đồn tụ chung sống. Xét thấy, mục đích của hơn nhân là xây
dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, vợ chồng hịa thuận, tin tưởng, thương yêu
nhau, anh S muốn vợ chồng đồn tụ chung sống nhưng anh khơng có biện pháp gì
để giải quyết dứt điểm mâu thuẫn vợ chồng, hơn nữa, anh đã vi phạm chế độ hôn
nhân một vợ một chồng, vi phạm điều cấm của pháp luật quy định tại điểm c khoản
2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu chị H, anh S quay về đồn tụ chung
sống với nhau cũng khơng có hạnh phúc, cuộc sống chung khơng thể kéo dài, mục
đích hơn nhân không đạt được, nên xử cho chị H được ly hơn với anh S là có căn
cứ. Vì vậy Tồ án chấp nhận u cầu xin ly hơn của chị Nông Thị H. Căn cứ vào
khoản 1 Điều 56 Luật Hơn nhân và gia đình.
6. Về con chung: Trong q trình chung sống chị H, anh S có 02 con chung
là Hà Thị Thủy T, sinh ngày 26/10/1995 và Hà Lệ C, sinh ngày 01/11/2001. Hiện
nay các con đã trưởng thành, đủ 18 tuổi nên chị H, anh S không yêu cầu giải quyết.


4

-

Về tài sản chung: Khơng có.
Về nợ chung: Khơng có.

Về án phí: Chị Nơng Thị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định
tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tịa án.

Về quyền kháng cáo: Chị H, anh Sđược quyền kháng cáo theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản
4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các Điều 51, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy
ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tịa án .
Tun xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nông Thị H Xử cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn anh Hà Thái S.
2. Về con chung: Có 02 con chung là Hà Thị Thủy T, sinh ngày 26/10/1995
và Hà Lệ C, sinh ngày 01/11/2001, các con đã đủ 18 tuổi nên khơng u cầu giải
quyết.
1 Về tài sản chung: Khơng có.
2 Về nợ chung: Khơng có.
3 Về án phí: Chị Nơng Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án
phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước. Xác nhận chị H đã nộp số tiền
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tịa án
số: AA/2016/0001801, ngày 27 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
4 Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.


5

Nơi nhận:

- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND huyện Hữu Lũng;
- Chi cục THADS huyện Hữu Lũng;
- UBND thị trấn H;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÕA

Hoàng Thị Tuyết


TÕA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 89/2020/HNGĐ-PT
Ngày: 15-6-2020
V/v “Tranh chấp về Hôn nhân và
gia đình”

NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÕA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Ơng Nguyễn Hồng Lam
Các Thẩm phán:

Bà Nguyễn Thị Kiều Trang
Bà Trần Thị Lê Na

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tịa: Ơng Trần Cơng Hách- Thư ký Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tồ: Bà
Ngơ Phƣơng Liên - Kiểm sát viên.
Trong ngày 15 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2020/TLPT- HNGĐ ngày 19
tháng 3 năm 2020 về “Tranh chấp Hôn nhân và Gia đình”.
Do bản án Hơn nhân và Gia đình sơ thẩm số 32/2019/HNGĐ-ST ngày 18
tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện X bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 37/2020/QĐPT-HNGĐ
ngày 13/5/2020 và Quyết định hỗn phiên tịa số 29/2020/QĐPT- HNGĐ ngày
01 tháng 6 năm 2020 giữa:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thành B, sinh năm 1979; HKTT: Thôn L, xã
P, huyện X, thành phố Hà Nội (Có mặt).
- Bị đơn: Chị Lê Thị L, sinh năm 1979; HKTT: Thôn L, xã P, huyện X,
thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Anh Nguyễn Thành B và chị Lê Thị L tự nguyện kết hôn, đã đăng ký kết
hôn với nhau vào ngày 13/9/1999 tại UBND xã P, huyện X, thành phố Hà Nội.
Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại nhà của bố mẹ anh B ở thôn
L, xã P, huyện X, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị
không xảy ra mâu thuẫn, hiện nay vợ chồng anh chị vẫn đang chung sống cùng
với nhau. Năm 2016, anh B có nảy sinh tình cảm với người phụ nữ khác rồi

cùng người đó đưa nhau lên chùa để thề nguyền trao nhẫn cưới. Anh B thừa
1


nhận từ năm 2016 đến nay anh và người phụ nữ đó vẫn giữ quan hệ ngoại tình.
Anh B u cầu Tòa án xem xét giải quyết cho anh được ly hôn với chị L để kết
hôn với người phụ nữ đó như hẹn ước thì anh và gia đình sẽ không gặp bất hạnh
và vận hạn trong cuộc sống. Còn thực tế cuộc sống vợ chồng giữa anh B và chị
L khơng có mâu thuẫn gì lớn, chỉ thỉnh thoảng vợ chồng có to tiếng, nhưng anh
chị vẫn đang chung sống với nhau bình thường. Chị L có quan điểm muốn vợ
chồng tiếp tục chung sống để nuôi dạy con cái trưởng thành, cuộc sống vợ chồng
anh chị vẫn đang hạnh phúc bình thường nên chị khơng đồng ý ly hơn.
Về con chung: Anh chị có 2 con chung là Nguyễn Thành V sinh ngày
08/9/2000 và Nguyễn Thành S sinh ngày 16/3/2003. Cháu V đã trưởng thành,
còn đối với cháu Sang thì anh B có quan điểm nếu được ly hôn anh đề nghị chị
L trực tiếp nuôi cháu S đến khi trưởng thành, anh sẽ tự nguyện cấp dưỡng nuôi
con với mức 2.000.000 đồng – 3.000.000 đồng/ 1 tháng. Trường hợp chị L
khơng ni cháu Sang thì anh B sẽ nhận nuôi cháu và không yêu cầu chị L cấp
dưỡng ni con chung. Chị L có quan điểm nếu phải giải quyết ly hơn, chị có
nguyện vọng trực tiếp ni dưỡng cháu S và nhất trí việc anh B đóng góp phí
tổn ni con.
Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận, khơng u cầu Tịa án giải quyết.
Về các khoản nợ chung: Khơng có.
Q trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện X đã tiến hành hòa giải
nhiều lần nhưng vợ chồng anh B, chị L không thống nhất được các nội dung giải
quyết trong vụ án.
Tại bản án sơ thẩm số 32/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 của Tòa
án nhân dân huyện X đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều
271, Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, Điều 56 của Luật hôn

nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí
Tịa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tịa án.
Xử:
[1] Khơng chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Thành B đối với chị
Lê Thị L.
[2] Về án phí: Anh Nguyễn Thành B phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) tiền án phí ly hơn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0005411 ngày
12/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, thành phố Hà Nội. Anh B đã
nộp đủ án phí sơ thẩm.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/12/2019 anh Nguyễn Thành B nộp đơn
kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm với nội dung đề nghị Hội đồng xét xử cấp
phúc thẩm chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh.
Tại phiên tòa phúc thẩm, anh B vẫn giữ yêu cầu đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo và sửa án sơ thẩm giải quyết cho anh được ly hôn chị Lê
Thị L.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội có quan điểm:
2


Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự về thụ lý, thời hạn xét xử và tố tụng tại phiên tòa, các đương sự
được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Kháng cáo của anh B là hợp lệ cần chấp nhận để xem xét.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo về yêu
cầu ly hôn của anh B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÕA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận

định:
[1].Về Tố tụng:
Về thẩm quyền thụ lý và giải quyết: Anh Nguyễn Thành B nộp đơn khởi
kiện yêu cầu giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện X, thành phố Hà Nội.
Do anh Nguyễn Thành B và chị Lê Thị L cùng nơi ở tại Thôn L, xã P, huyện X,
thành phố Hà Nội nên Tòa án nhân dân huyện X căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để
giải quyết sơ thẩm vụ án là đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn là chị Lê Thị L vắng mặt khơng có lý do
mặc dù đã được triệu tập hợp lệ 2 lần, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296
Bộ luật tố tụng dân sự để vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
[2].Về quan hệ hôn nhân của anh Nguyễn Thành B và chị Lê Thị L,
Hội đồng xét xử nhận thấy:
Về tình cảm: Anh Nguyễn Thành B và chị Lê Thị L kết hôn trên cơ sở tự
nguyện, không ai ép buộc. Thời gian đầu sau khi kết hơn, anh B và chị L chung
sống hịa thuận, khơng có mâu thuẫn gì và sinh sống cùng nhau tại nhà của bố
mẹ anh B tại thôn L, xã P, huyện X, thành phố Hà Nội. Đến khoảng năm 2014,
vợ chồng anh chị có đi làm thuê ở Trung Quốc, sau đó chị L về nước trước và
anh B đến năm 2017 mới về. Trong thời gian đó, anh B thừa nhận có nảy sinh
tình cảm với người phụ nữ khác. Hai người giữ quan hệ từ đó cho tới nay mặc
dù khi về nhà, anh B và chị L vẫn chung sống với nhau bình thường. Hội đồng
xét xử xét thấy từ thực tế cuộc sống vợ chồng giữa anh B và chị L trong nhiều
năm qua khơng tồn tại mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hơn nhân đã đạt được.
Mặt khác, anh chị chung sống hòa thuận và nuôi dạy các con rất tốt, đến nay
người con lớn của anh chị đã trưởng thành, còn con nhỏ thì đang theo học tại
trường THPT trên địa bàn huyện X. Lý do anh B đưa ra để xin ly hôn không phù
hợp quy định của pháp luật. Cấp sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu ly hôn
của anh B là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hơn nhân và
Gia đình năm 2014. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh B cũng khơng xuất trình được
thêm chứng cứ gì chứng minh cho mâu thuẫn vợ chồng đang ở mức trầm trọng

3


nên Hội đồng xét xử khơng có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh
B.
Về con chung: Do không chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh B nên Hội
đồng xét xử sơ thẩm không xem xét giải quyết về trách nhiệm ni con là có căn
cứ.
Về tài sản chung: Cấp sơ thẩm xác định mâu thuẫn vợ chồng chưa đến
mức độ trầm trọng, xử không chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh B nên không
xem xét giải quyết về tài sản là có căn cứ.
Như vậy, từ nhận định phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm khơng
có căn cứ để chấp nhận u cầu kháng cáo của anh B, giữ nguyên bản án sơ
thẩm của Tòa án nhân dân huyện X về việc không chấp nhận yêu cầu ly hôn của
anh B đối với chị Lê Thị L.
[6] Về án phí: Do khơng chấp nhận kháng cáo của anh B nên anh B phải
chịu tồn bộ án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Nhận định của Hội đồng xét xử phù hợp với quan điểm đề nghị của vị đại
diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 56 của Luật Hơn nhân và Gia đình;
Căn cứ Luật phí và Lệ phí; Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mẫu thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng, án phí và lệ phí Tịa án; Điểm 1.1 mục II Danh mục án
phí, lệ phí Tịa án ban hành kèm Nghị Quyết.
Xử: Không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Thành B về yêu cầu
được giải quyết ly hôn. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm số số
32/2019/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Tồ án nhân dân huyện X,

cụ thể:
1. Khơng chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Thành B đối với chị
Lê Thị L.
2. Về án phí: Anh Nguyễn Thành B phải nộp 300.000 đồng (ba trăm
nghìn đồng) tiền án phí ly hơn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0005411
ngày 12/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, thành phố Hà Nội. Anh
B đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
Anh Nguyễn Thành B phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án
phí phúc thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã
nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AE/2010/0005568 ngày 03/12/2019
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, thành phố Hà Nội. Anh B đã nộp đủ án
phí phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.
4


Nơi nhận:
3. VKS nhân dân tp Hà nội;
4. Chi cục thi hành án
dân sự huyện X;
5. Tòa án nhân dân huyện X;
6. Các đương sự;
7. Lưu hồ sơ vụ án.

T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÖC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÕA

Nguyễn Hồng Lam


5


6


TÕA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ H

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TỈNH HÀ GIANG
Bản án số: 07/2020/HNGĐ-ST
Ngày 30/6/2020
V/v tranh chấp: Xin ly hôn, nuôi
con chung.

NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÕA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÀ GIANG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Bà Vũ Mỹ Lệ

Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Khuất Thị Toàn
2. Bà Nguyễn Khánh Vân
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thảo Trang - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố

H, tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang tham gia
phiên tịa: Ơng Giàng Chẩn Sồ - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số 273/2019/TLST- HNGĐ ngày
18 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp "Xin ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 09/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 04 tháng 6 năm 2020, giữa
các đương sự:
(1) Nguyên đơn: Anh Nguyễn Bảo T, sinh năm 1989. Địa chỉ: SN 21 đường
Nguyễn Văn C, tổ 16 phường M, thành phố H, tỉnh Hà Giang, có mặt.
(2) Bị đơn: Chị Lâm Thuỳ L, sinh năm 1992. Địa chỉ: Cạnh SN 32 đường P,
tổ 7 phường M, thành phố H, tỉnh Hà Giang. Nơi công tác: Bệnh viện Y Dược cổ
truyền tỉnh Hà Giang, có mặt.
(3) Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ơng Cao Xuân H Luật sư văn phòng Luật sư Hùng Đức, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hà Giang.
Địa chỉ: Đường Phạm Hồng Cao, tổ 7 phường Q, thành phố H, tỉnh Hà Giang,
có mặt.

1


×