ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV
BỘ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ
CỤC SỞ HỮU TRÍ TUỆ
KỶ YẾU
HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN
VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
(Nhân ngày Sở hữu trí tuệ thế giới 26.4.2018)
Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 2018
1
2
MỤC LỤC
TT
Tác giả
1.
Trần Việt
2.
Thạch
Hồng
Anh
Thị Ánh
Chu Kim
Chi
Trần Quốc
Long
Lớp
Trường
Tên đề tài
3917
Trường
Đại học
Luật Hà
Nội
Bảo hộ quyền tác giả PGS.TS
đối với tác phẩm văn Vũ Thị
học, nghệ thuật dân Hải Yến
gian miền biển
7
K60A Trường
Đại học
Khoa
học Xã
hội và
Nhân
văn
Ứng dụng sáng chế số PGS.TS
WO2004098301
Trần Văn
Hải
“Procedure for the
preservation
of
bananas”
để bảo quản chuối ngự
Đại Hoàng
41
GVHD
Trang
3.
Nguyễn Thanh Hưng
Luật
K38B
Dân
sự
Trường
Xử lý dân sự về hành ThS. Đỗ
Đại học vi xâm phạm đối với Thị Diện
Luật,
nhãn hiệu dược phẩm
Đại học
Huế
61
4.
Nhữ Thảo
Linh
Linh
Chu Việt
Hà
Trường
Đại học
Kinh tế
Quốc
dân
Giải quyết tranh chấp
về tên thương mại và PGS.TS
nhãn hiệu hàng hóa Trần Văn
thơng qua vụ Taisun Nam
Việt Nam
83
Hồng Thị
Luật
kinh
doanh
K57
Hồng Thùy
Linh
Hoàng
Nhận diện rào cản PGS.TS
trong việc xây dựng Trần Văn
thư viện số để bảo vệ Hải
tri thức truyền thống
tại Việt Nam (nghiên
cứu trường hợp Y
dược học cổ truyền)
109
Lê Minh
K60A Trường
Đại học
Khoa
học Xã
hội và
Nhân
văn
6.
Võ Thị Khánh
Lựu
Luật
K38B
Dân
sự
Trường
Đại học
Luật,
Đại học
Huế
Xung đột giữa bảo hộ ThS. Đỗ
nhãn hiệu và chỉ dẫn Thị Diện
địa lý theo pháp luật
sở hữu trí tuệ
125
7.
Đào Ngọc
Minh
4002
Anh
Đỗ Minh
Anh
Xử lí vi phạm quyền
tác giả ở Việt Nam và
một số nước trên thế
giới
157
Đặng Thị Vân
Trường
Đại học
Luật Hà
Nội
5.
ThS
Phạm
Minh
Huyền
3
8.
Phạm Thu
Nguyễn
Bích
9.
Ngân
Trường
Đại học
Khoa
học Xã
hội và
Nhân
văn
Nhận diện những bất
cập trong bảo hộ
quyền tác giả đối với
tác phẩm báo điện tử
tại Việt Nam (Nghiên
cứu đối với trường
hợp BÁO MỚI)
4123
Trường
Đại học
Luật Hà
Nội
Website xem phim PGS.TS
miễn phí dưới góc Vũ Thị
nhìn của pháp luật Hải Yến
quyền tác giả đối với
tác phẩm điện ảnh
189
Thị Ngọc
Nguyễn Huy
Đinh
Khánh
K60B
Phúc
Thị Linh
Vũ Ngọc
Diệp
175
10. Nguyễn Như
Quỳnh
Luật
K38B
Dân
sự
Trường
Đại học
Luật,
Đại học
Huế
Bảo hộ sáng chế quốc ThS. Đỗ
tế theo Hiệp ước Hợp Thị Diện
tác về sáng chế (PCT)
- các chiến lược trì
hỗn chi phí và tối đa
hoá giá trị sáng chế
trong nước và quốc tế
215
11. Nguyễn Thị
Thanh
K60B
Quỳnh
Nguyễn Thị
Xâm
Áp dụng phương pháp PGS.TS
bảo quản hoa hồng Trần Văn
trong quá trình vận Hải
chuyển, lưu trữ và bộ
dụng cụ vận chuyển
có chứa hoa hồng cắt
theo
patent
US20170000112A1
243
Lại Thế
Trường
Đại học
Khoa
học Xã
hội và
Nhân
văn
K60B
Trường
Đại học
Khoa
học Xã
hội và
Nhân
văn
Vấn nạn xâm phạm
quyền liên quan đối
với chương trình phát
sóng tại Việt Nam
(Nghiên cứu trường
hợp các chương trình
phát sóng của Đài
Truyền hình Việt Nam
VTV)
261
Trường
Đại học
Ngoại
thương
Ảnh hưởng của công PGS. TS
nghệ Blockchain tới Lê Thị
việc bảo vệ quyền sở Thu Hà
hữu trí tuệ đối của các
sản phẩm âm nhạc
12. Trần Thị Hà
Nguyễn
Hồng
Thu
Thị Nhung
13. Đinh Phương
Thuý
14. Hoàng Phương Thúy
4
ThS
Hoàng
Lan
Phương
Luật
kinh
ThS
Hoàng
Lan
Phương
Trường
Pháp luật về nhãn hiệu ThS.
Đại học hiện nay tại Việt Nam Nguyễn
275
299
doanh Kinh tế
Quốc Quốc
tế
dân
K56
Thị Hồng
Hạnh
15. Hà Hiền
Thương Anh
17 –
Khoá
52
Trường
Đại học
Ngoại
thương
Hoạt động thương mại ThS Lữ
hóa sáng chế trong Thị Thu
doanh nghiệp khoa Trang
học và côgn nghệ của
Việt Nam
325
16. Hà Thị Thu
Trang
Oanh
Xác định hành vi xâm
phạm quyền đối với
nhãn hiệu theo pháp
luật Việt Nam, liên hệ
với pháp luật Nhật
Bản và một số kiến
nghị
353
Lê Thị
Trường
Đại học
Luật Hà
Nội
3907
ThS
Phạm
Minh
Huyền
17. Trần Thị
Trang
Anh 5 Trường
KT
Đại học
K52
Ngoại
thương
Hoạt động đổi mới ThS Lữ
sáng tạo trong các Thị Thu
doanh nghiệp có vốn Trang
đầu tư trực tiếp nước
ngồi tại Việt Nam
377
18. Nguyễn Văn
Túc
Luật
K38B
Dân
sự
Trường
Đại học
Luật,
Đại học
Huế
Bảo hộ tri thức truyền ThS. Đỗ
thống trong điều kiện Thị Diện
hội nhập kinh tế quốc
tế
407
5
6
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC,
NGHỆ THUẬT DÂN GIAN MIỀN BIỂN
Sinh viên thực hiện:
Trần Việt Anh
Lớp:
3917
Trường Đại học Luật Hà Nội
Giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS Vũ Thị Hải Yến
7
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 10
1. Lý do lựa chọn đề tài................................................................................................. 10
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. ....................................................................................... 10
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài. .................................................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .............................................................................. 11
5. Phương pháp nghiên cứu. .......................................................................................... 11
6. Kết quả nghiên cứu. .................................................................................................. 11
7. Kết cấu của đề tài. .................................................................................................... 11
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC
PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN MIỀN BIỂN ....................................... 11
1.1. Tổng quan về tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển. ............................. 12
1.1.1. Khái niệm tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. ................................................... 12
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. .................................... 12
1.1.3. Phân loại tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. ..................................................... 14
1.2. Một số loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển. ......................... 16
1.2.1. Đặc trưng văn hóa biển trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. .................... 16
1.2.2. Một số tác phẩm văn học dân gian miền biển. .......................................................... 16
1.2.3. Dân ca miền biển................................................................................................. 17
1.3. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. ....................... 19
1.3.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian....................... 19
1.3.2. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. ........... 19
1.3.3. Mục đích, ý nghĩa bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
................................................................................................................................. 19
1.3.4. Khái quát pháp luật Việt Nam và quốc tế về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian. ......................................................................................... 21
2.1. Thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
miền biển. .................................................................................................................. 24
2.1.1. Thành tựu đạt được. ............................................................................................. 24
2.1.2. Một số bất cập còn tồn tại. .................................................................................... 25
2.2. Những bất cập trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian miền biển............................................................................................. 26
2.2.1. Những đặc điểm của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển tạo nên bất cập
trong việc bảo hộ quyền tác giả. ..................................................................................... 26
2.2.2. Những hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển. .................................................. 27
2.2.2.1. Bất cập trong việc xác định chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian miền biển. ...................................................................................... 27
2.2.2.2. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. .......... 29
2.2.2.3. Xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian và đăng ký
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. ............................................. 29
2.2.2.4. Mục đích bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian................................... 30
2.2.2.5. Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền
biển. .......................................................................................................................... 30
8
2.2.2.6. Xác định các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian miền biển. ......................................................................................................33
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA ......34
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN MIỀN BIỂN ...................................................34
3.1. Một số vấn đề cần lưu ý khi xem xét việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian miền biển. ...........................................................................................................34
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển. ........................................35
3.3. Một số kiến nghị đối với việc thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. ........................................................................37
KẾT LUẬN ................................................................................................................39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................40
9
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, chăm lo phát triển văn hóa chính là tạo động lực
phát triển đất nước. Do vậy với những truyền thống tốt đẹp của mình, văn hóa dân gian đóng vai
trị tích cực trong sự phát triển của xã hội Việt Nam. Trong đó, văn học, nghệ thuật dân gian là dòng
chảy lớn bắt nguồn từ nhân dân, thể hiện sắc thái và khát vọng của các cộng đồng cư dân khác nhau
cùng chung sống trên lãnh thổ quốc gia. Vì vậy, bản thân nó có sức sống trường tồn, góp phần làm
nên sức mạnh của dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Người viết đề tài quê ở Hải Phòng,
sinh ra và lớn lên ở Hải Phòng nên việc nghiên cứu, khảo sát đề tài về Hải Phịng có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng. Nó giúp tơi hiểu rõ hơn về văn hóa dân gian của quê hương, các giá trị văn hóa
miền biển trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian và xem xét chúng trên khía cạnh về Sở
hữu trí tuệ.
Mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản liên quan quy định việc bảo hộ tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian. Tuy nhiên trong thực tế hầu như ít ai quan tâm đến việc bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển. Mặt khác, vấn đề bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển vẫn còn những bất cập cần tiếp tục hồn
thiện. Bên cạnh đó thì nhận thức của người dân về quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng vẫn cịn thấp. Việc tuân thủ và thi hành pháp luật
về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian vẫn chưa thực sự đi vào đời sống
xã hội của mọi người dân. Thêm vào đó chúng ta cịn chưa quen với việc trả một khoản chi phí cho
những người có cơng sưu tầm, nghiên cứu, lưu giữ các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian ngoài
người bán các sản phẩm này. Chính vì lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển” . Đề tài sẽ khái quát các
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển, việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm
này, nghiên cứu thực trạng việc bảo hộ và bất cập pháp luật đối với những tác phẩm đó. Từ việc
nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng là những vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm nghiên cứu và khai thác. Liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu liên quan tuy nhiên những
nghiên cứu này vẫn còn khá sơ lược, chưa thực sự cụ thể và sâu sắc.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (2005) “Sở hữu trí tuệ - một công cụ đắc lực để phát
triển kinh tế” đã dành hẳn một chương để viết về tri thức truyền thống (chương 7) có đề cập đến
văn học, nghệ thuật dân gian nhưng chủ yếu nghiên cứu về các tri thức bản địa trong các lĩnh vực
thuốc chữa bệnh, bảo tồn đa dạng sinh học, môi trường, lương thực và nông nghiệp mà chưa nghiên
cứu sâu về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về vấn đề này có thể kể đến như:
- ThS. Vũ Thị Phương Lan (Giảng viên Khoa luật quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội).
Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian theo pháp luật Việt Nam – Một
số bất cập về lí luận và giải pháp. Tạp chí luật học số 11/2006. Trang 24 – 31. Trong bài viết, tác
giả đã phân tích và đề ra giải pháp cho ba bất cập cơ bản về mặt lí luận của pháp luật hiện hành về
bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian: 1) Quyền sở hữu; 2) Mục đích
bảo hộ; 3) Phạm vi bảo hộ.
- Phan Tấn Phát, Nguyễn Nho Hồng. Quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian. Tạp chí dân chủ và pháp luật. Số tháng 7/2012 cũng đã có những nghiên cứu về văn
học, nghệ thuật dân gian Việt Nam cùng những bất cập của luật vào giải pháp để nâng cao bảo hộ
với đối tượng này.
- TS.Vũ Mạnh Chu trong bài viết Bảo hộ di sản văn học nghệ thuật dân gian ở Việt Nam đã
đề cập đến vấn đề bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, một trong những di sản văn
hóa của dân tộc.
10
Các bài báo, bài nghiên cứu đã chỉ ra được những vấn đề bất cập trong Luật Sở hữu trí tuệ
về quyền tác giả và quyền liên quan có đề cập đến tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Tuy nhiên
các bài nghiên cứu chỉ nói đến các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian chung chung mà chưa đi
vào cụ thể. Vì vậy, đề tài này tác giả sẽ kế thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước, từ đó
phát triển hồn thiện, đi vào nghiên cứu cụ thể hơn vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian và áp dụng thực tiễn đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian miền biển.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu khoa học này sẽ tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận về quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển. Phân tích nội dung các quy định của pháp
luật hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian từ đó chỉ ra những
bất cập, tồn tại hạn chế của các quy định pháp luật và áp dụng đối với các tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian miền biển. Chỉ ra thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm này. Đồng
thời sẽ đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo hộ
quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Mục đích quan trọng hơn cả của
đề tài là góp phần nâng cao nhận thức của các cá nhân, tổ chức trong việc tôn trọng và thực thi pháp
luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng và Luật Sở hữu trí tuệ
nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian và thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian miền biển.
- Phạm vi nghiên cứu: Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài được
xác định là nghiên cứu các vấn đề lý luận để xác định tính đặc thù của quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; nghiên cứu các quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam
về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; nghiên cứu để đánh giá thực
trạng bảo hộ, những bất cập hiện nay từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài đã vận dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật, đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
- Các phương pháp cụ thể: Phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp
6. Kết quả nghiên cứu.
Đề tài đã khải quát các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển, việc bảo hộ đối
với các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển. Nghiên cứu thực trạng việc bảo hộ và bất
cập pháp luật đối với những tác phẩm đó. Từ đó kiến nghị một số giải pháp liên quan và phương
hướng hoàn thiện pháp luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3
chương.
Chương 1: Khái quát chung về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian miền biển.
Chương 2: Những bất cập trong việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian miền biển.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo
hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển.
11
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN MIỀN BIỂN
1.1. Tổng quan về tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển.
1.1.1. Khái niệm tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Theo từ điển “Thuận ngữ quyền tác giả và quyền liên quan” của Nhà xuất bản Thế giới Cục
bản quyền tác giả năm 2010 định nghĩa thì: “Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập
thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm người hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của
cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hóa và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được
lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao
gồm có truyện, thơ, câu đố, điệu hát, làn điệu âm nhạc, điệu múa, vở diễn nghi lễ và các trò chơi;
sản phầm nghệ thuật đồ họa, hội họa, điêu khắc được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào”.
Theo khái niệm này thì tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là sáng tạo trí tuệ của một cá
nhân nào đó hay một tập thể cá nhân – những người mà đời sống hàng ngày của họ gắn liền với
những giá trị văn hóa, tinh thần của cộng đồng. Qua những sáng tác của mình, họ muốn gửi gắm
những khát vọng của cộng đồng về lao động, sản xuất, con cái…
Có cách hiểu khác về tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đó là sự bao hàm các sản phẩm
chứa đựng các yếu tố đặc thù của di sản nghệ thuật, được duy trì và phát triển bởi một cộng đồng
trong nước, hoặc bởi các cá nhân phản ánh các tác phẩm văn học – nghệ thuật truyền thống của một
cộng đồng.[1]
Khoản 1 Điều 23 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng đề cập đến khái niệm tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian như sau:
“1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống
của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc
điểm văn hóa và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc
bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:
a) Truyện, thơ, câu đố;
b) Điệu hạt, làn điệu âm nhạc;
c) Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;
d) Sản phẩm nghệ thuật đồ họa, hội họa, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các loại
hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.”
Khái niệm này tương tự như khái niệm mà UNESCO sử dụng trong các hoạt động liên quan
tới văn học, nghệ thuật dân gian của mình. Qua đó có thể hiểu văn học, nghệ thuật dân gian là những
giá trị văn học, nghệ thuật được cộng đồng – có thể là cộng đồng sắc tộc hoặc cộng đồng dân cư
sinh sống tại một địa phương – sáng tạo ra; nó tồn tại qua năm tháng và phản ánh những nét văn
hóa đặc trưng của cộng đồng hoặc địa phương mà khi thưởng thức nó, người được thưởng thức có
thể nhận biết được ngồn gốc xuất xứ của những giá trị văn hóa, nghệ thuật đó.
Như vậy, tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là kết quả của hoạt động sáng tạo của con
người, sự sáng tạo của người dân sinh sống tại các khu vực địa lý cụ thể, cùng chia sẻ ngơn ngữ,
văn hóa, cơ chế sinh nhai và các điều kiện tự nhiên, trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc
các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hóa và xã
hội của họ. Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là kết quả của những ý tưởng sáng tạo của tập
thể người dân được thể hiện thơng qua lời nói, mỹ thuật hoặc các hình thức vật chất khác và được
lưu truyền dưới hình thức miệng hoặc văn bản hoặc thơng qua một số hình thức khác và được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
TS. Vũ Mạnh Chu. Bảo hộ Di sản Văn học Nghệ thuật dân gian ở Việt Nam. Báo cáo dẫn đề hội thảo “Quyền tác
giả trong lĩnh vực văn học nghệ thuật dân gian”.
[1]
12
Là sản phẩm của cộng đồng, phản ánh giá trị nghệ thuật đặc trưng của một cộng đồng hoặc
vùng miền. Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian có những đặc điểm khác với các tác phẩm văn
học nghệ thuật thông thường ở chỗ:
Thứ nhất, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian ra đời là do sự sáng tạo của cộng đồng, có
thể là cộng đồng theo sắc tộc hoặc cộng đồng dân cư sinh sống ở một địa phương. Sự sáng tạo này
có thể bắt nguồn từ một hoặc vài cá nhân nào đó khơng xác định được hoặc khơng cần xác định vì
mục đích bảo hộ quyền tác giả. Song qua năm tháng thì tác phẩm đó được lưu truyền, nuôi dưỡng
và thay đổi bởi những thành viên trong cộng đồng; qua đó trở thành đặc trưng văn hóa của cộng
đồng hay địa phương đó. Chính do được cả cộng đồng nuôi dưỡng và bồi bổ, tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian có thể từ chỗ là sáng tạo của một hay vài cá nhân, đã trở thành giá trị của cả
cộng đồng.
Thứ hai, vì là sản phẩm sáng tạo của cả cộng đồng, thời gian ra đời và tồn tại của một tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian thường là không xác định được. Tuy nhiên, tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian hoàn toàn khơng đứng im mà nó ln được thay đổi hay làm mới theo sự thay
đổi về giá trị văn học, nghệ thuật của cộng đồng sáng tạo ra nó. Sự thay đổi có thể chậm chạp và
phải qua nhiều thế hệ mới bộc lộ rõ sự thay đổi rõ ràng, song sự thay đổi đó là tất yếu bởi lẽ tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian là sản phẩm của cộng đồng mà mỗi thế hệ của cộng đồng đó tất
yếu có những nét khác nhau trong các giá trị văn học, nghệ thuật đặc trưng của mình. Sự thay đổi
này càng củng cố mỗi quan hệ cộng đồng – người sáng tạo với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian – sản phẩm của cộng đồng. Nói cách khác, sự sáng tạo trong một tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian là không ngừng nghỉ theo sức sáng tạo của cộng đồng.
Thứ ba, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là một bộ phận không thể tách rời với lợi ích
con người. Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian được sinh ra trên cơ sở một nền kinh tế nông
nghiệp cũ, độc canh lúa, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện môi trường sinh thái thiên nhiên. Tác giả
của nó là những người nơng dân sống trong những cơng xã xóm làng, cho nên khn viên chủ yếu
của các hoạt động văn học nghệ thuật dân gian là các làng (ở người Việt) và các đơn vị xã hội tương
đương như bản, buôn, chum… (ở các dân tộc thiểu số).
Thứ tư, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian gắn chặt với các hoạt động thường ngày trong
lao động, sản xuất và sinh hoạt của người nông dân. Mỗi biểu hiện của văn học nghệ thuật dân gian
thường được sáng tạo để phục vụ một hoạt động hàng ngày nào đó. Chẳng hạn, để hát ru trẻ ngủ,
người ta sáng tạo bài hát ru và người ta cũng chỉ hát bài hát đó khi cần ru trẻ ngủ. Không bao giờ
người nông dân hát bài ru khi họ đang lao động trên đồng lúa. Có thể thấy đặc điểm này chỉ có ở
Việt Nam và một số quốc gia nông nghiệp.
Thứ năm, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian có một đặc thù là tính dị bản. Tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian là cơng trình sáng tạo bằng miệng của cả một tập thể cộng đồng, được
lưu giữ, diễn xướng qua hình thức truyền miệng. Và vì là truyền miệng nên mỗi cá nhân đều có
quyền cải biên.
Chẳng hạn như hai câu ca dao sau: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc
như tranh họa đồ”
Với câu: “Đường vô xứ Huế quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”.
Do đó, việc xác định thế nào là “cải biên”, thế nào là “giữ nguyên gốc”, thế nào là “sao
chép”, thế nào là sáng tạo, thế nào là xâm phạm bóp méo, thế nào là “làm giàu vốn cổ” rất khó khăn,
chính vì vậy để bảo hộ là rất khó.
Thứ sáu, đặc điểm nổi trội là tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian được lưu giữ bằng trí
nhớ của con người. Đây là cơ chế sáng tạo, truyền bá và tiếp nhận của tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian.
Thứ bảy, với việc phản ánh giá trị văn hóa của một cộng đồng, tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian có vai trị quan trọng trong việc xác định nhận dạng văn hóa giữa cộng đồng này với cộng
đồng khác trong cùng quốc gia. Song, quan trọng hơn là các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
nói riêng hay rộng hơn là văn học, nghệ thuật dân gian đóng vai trị quan trọng trong việc xác định
13
nhận dạng văn hóa của quốc gia này với quốc gia khác. Điều này cũng được Tổ chức sở hữu trí tuệ
thế giới WIPO khẳng định.
Bên cạnh đó mặc dù phần lớn các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian khá nổi tiếng trong
phạm vi quốc gia và được nhiều người biết đến, ví dụ như các làn điệu dân ca các vùng, tranh Đơng
Hồ… cũng cịn có những tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian bị thất truyền. Người ta chỉ biết đến
sự tồn tại của những tác phẩm này sau khi nó đã được nhà nghiên cứu sưu tầm và phát hiện thông
qua tiếp xúc với những nghệ nhân hoặc người cao tuổi cịn giữ gìn được những tác phẩm đó.
Những đặc trưng trên là của riêng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian mà các tác phẩm
văn học nghệ thuật khác đang được pháp luật hiện hành của Việt Nam bảo hộ quyền tác giả khơng
có. Những đặc trưng này làm cho khung pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền tác giả khi áp dụng
cho tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian bộc lộ nhiều bất cập cả về lí luận và thực tiễn.
1.1.3. Phân loại tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Khoản 1 Điều 23 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 phân loại tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian bao gồm:
i) Truyện, thơ, câu đố.
Cả ba loại hình tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nói trên đều có chung đặc điểm là
được biểu hiện theo lời nói. Là những tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian được sáng tạo, mơ
phỏng bằng ngơn ngữ nói. Được thể hiện theo hình thức truyền miệng.
- Truyện dân gian: Loại hình tác phẩm này bao gồm các thể loại như: truyện cổ tích, truyện
ngụ ngơn, truyện cười… Đây là những tác phẩm tự sự dân gian thường có kết cấu chặt chẽ, có thể
là những câu truyện cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh; có thể là những câu truyện cố tích giàu ý nghĩa…
Qua những sáng tác dân gian này tác giả của nó muốn gửi gắm những giá trị văn hóa, nhân văn,
những kinh nghiệm sống gắn liền với đời sống của mỗi người dân.
- Thơ ca dân gian: Thơ là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngơn ngữ làm chất liệu, và sự
chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình thức logic nhất định tạo nên hình
ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Trong kho tàng văn học
dân gian Việt Nam, thơ ca dân gian góp phần khơng nhỏ trong kho tàng văn học dân gian ấy. Thơ
ca dân gian hay nói cách khác đó chính là những câu ca dao, tục ngữ, truyện thơ hay vè… Có những
ý kiến nhìn nhận rằng thơ ca dân gian là tiếng nói trái tim của người lao động. Nó thể hiện sâu sắc
những tình cảm tốt đẹp của nhân dân ta.
Khi nhắc đến chữ hiếu, chữ đạo của con người trong đối xử, công lao các bậc sinh thành
người ta không thể không nhớ đến câu:“Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra/ Một lịng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
- Câu đố dân gian: Trong kho tang văn học dân gian Việt Nam, câu đố có số lượng khá
phong phú. Về mặt hình thức và nội dung, câu đố thể hiện những đặc trưng riêng biệt của một thể
loại văn học dân gian. Trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân, câu đó cũng chiếm một
vị trí đang kể. Câu đố là thể loại văn học dân gian phản ánh sự vật, hiện tượng theo lối nói chệch.
Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc trưng và chức năng của từng vật cá biệt và sau đó phản ánh
thơng qua sự so sánh, hình tượng hóa.
Chẳng hạn như khi nói đến quả nhãn, người ta có câu đố: “Da cóc mà bọc bột lọc, bột lọc
mà bọc hòn than”. Câu đố được xây dựng nhằm mục đích mơ tả, bằng hình tượng hoặc từ ngữ,
những dấu hiệu đặc trưng và chức năng của những vật đồ cá biệt, cụ thể. Câu đố là một phương tiện
để nhận thức và kiểm tra nhận thức về các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan.
ii) Điệu hát, làn điệu âm nhạc.
Đây là những loại hình tác phẩm nghệ thuật dân gian được biểu hiện theo âm nhạc. So với
các nước trên thế giới, âm nhạc dân gian Việt Nam cũng rất phong phú, đa dạng và có nhiều đặc
điểm riêng. Âm nhạc dân gian Việt Nam dàn trải theo chiều dài của đất nước.
Trong khơng gian văn hóa các dân tộc miền núi phía Bắc ln vang lên những câu hát “Sli”,
“Lượn”, “Then” của người Tày – Nùng, tiếng hát “Khắp” của các chàng trai, cô gái Thái, hát “Rang”
của người Mường, tiếng sáo dìu gọi bạn của trai bản H’mơng…
14
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ cũng là cái nơi hình thành nên dân tộc Việt, âm nhạc dân
gian nơi đây mang những đặc điểm vùng miền đậm nét, tiêu biểu với các thể loại: hát Quan họ, hát
Ghẹo, hát Xoan, hát Trống quân, hát Chầu văn, hát Chèo, hát Đúm, hát Ví, hát Đị đưa…
Vùng văn hóa Trung bộ lại nổi tiếng với những điệu hát Ví, hát Dặm, hát hò của Nghệ An
– Hà Tĩnh, những điệu Lý, điều Hò của xứ Huế, hát Bài Chòi của Quảng Bình – Quảng Trị - Thừa
Thiên…
Vùng văn hóa Tây Nguyên với âm nhạc cồng chiêng, âm nhạc tre nứa mang những đặc
trưng có từ thời văn hóa Đơng Sơn, những làn điệu dân ca của các dân tộc ở Tây Nguyên mang
nhiều màu sắc tinh tế của nghệ thuật âm nhạc Đơng Nam Á…
Vùng văn hóa Nam Bộ với những làn điệu hị sơng nước mênh mang, điệu lý đằm thắm trữ
tình, những câu ca Vọng cổ da diết, sâu sắc, những làn điệu dân ca Khơ – me, dân ca Chăm mang
đậm bản sắc dân tộc.
iii) Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi.
Đây là những loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được biểu hiện bằng hành
động.
- Điệu múa dân gian là hình thái múa phổ biến của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Múa
dân gian là do dân chúng sáng tạo được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Múa dân gian được sử
dụng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. nó tiêu biểu cho bản sắc văn hóa của từng cộng
đồng và là cơ sở để phát triển các hình thái mẫu khác. Ta có thể kể đến những làn điệu múa dân
gian nổi tiếng như múa trống, mùa rồng, múa sư tử, múa khiên. Hay loại hình múa rối nước, loại
hình múa chỉ có duy nhất tại Việt Nam.
- Vở diễn là một trong các loại hình văn học, nghệ thuật dân gian Việt Nam. Các vở diễn
hay còn gọi là các vở chèo dân gian, vở kịch dân gian, vở tuồng dân gian… được lưu truyền từ đời
này qua đời khác tại các cộng đồng làng quê. Các vở kịch, vở chèo thường được diễn trong các dịp
lễ hội hàng năm tại các cộng đồng làng quê Việt Nam
- Nghi lễ là một trong nhiều nghi thức xuất hiện trong lễ hội tại các cộng đồng làng, xã Việt
Nam. Lễ hội là một sự kiện thực hiện rất nhiều nghi thức mang tính bắt buộc. Các nghi thức này
được tiến hành theo một trình tự chặt chẽ, nghiêm ngặt từ khi chuẩn bị lễ hội cho đến khi hết hội.
Thông thường một lễ hội có các nghi lễ như lễ mộc dục, lễ tế gia quan, lễ rước, lễ tế khai hội và tế
giã đám. Các nghi lễ như một nét đẹp tâm linh, tín ngưỡng văn hóa của người dân Việt Nam ta từ
bao đời này.
- Các trò chơi dân gian: Đây được coi là nét văn hóa giàu bản sắc dân tộc. Những trò chơi
này thường bắt nguồn từ những bài đồng dao, một thể loại văn vần độc đáo của dân tộc. Đây là
những bài ca có nhịp điệu đơn giản gieo vần một cách thoải mái, có thể ngắn dài bất kỳ hoặc lặp đi
lặp lại khơng dứt. Ta có thể kể đến rất nhiều các trò chơi dân gian như ném cịn, đá cầu, ơ ăn quan,…
Các trị chơi dân gian thường được chơi không chỉ trong các dịp lễ hội mà ta có thể bắt gặp ngay
trong đời sống hàng ngày.
iv) Sản phẩm nghệ thuật đồ họa, hội họa, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các loại
hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.
- Chạm khắc: Nói tới nghệ thuật tạo hình dân gian người ta thường nghĩ ngay đến chạm
khắc, trang trí trên sập gụ, tủ chè hình chum nho, con sóc, bộ ghế chạm con rối, chữ Phúc – Lộc –
Thọ… Bên cạnh đó nghệ thuật chạm khắc dân gian đồ sộ ở người Việt còn được lưu giữ trên các
ngơi đình, chùa, đền nằm rải rác ở mỗi làng quê vây quanh bởi lũy tre làng mà cho đến ngày nay
chúng vấn là những gì tinh túy nhất góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Tranh dân gian Việt Nam là một loại hình mỹ thuật cổ truyền của dân gian Việt Nam.
Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời gian phát triển rất mạnh mẽ, ngày
nay nó có phần giảm sút nhưng vẫn cịn được giữ gìn bảo tồn trong một số làng nghề và một số gia
đình làm tranh. Trong số các tranh dân gian Việt Nam có thể kể đến dịng tranh Đông Hồ đã và
đang được bảo tồn, phát triển và hiện đang có mặt ở nhiều nước trên thế giới.
15
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định 100/2006/NĐ – CP thì các tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian i, ii và iii như đã nêu ở trên bảo hộ khơng phụ thuộc vào việc định hình. Cịn
loại thứ tư vì là tác phẩm vật thể nên nhất thiết phải được thể hiện bằng một chất liệu tồn tại hữu
hình.
1.2. Một số loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian miền biển.
1.2.1. Đặc trưng văn hóa biển trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Theo quan niệm truyền thống, Việt Nam được phân thành “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”.
Nghĩa là có ba phần núi, bốn phần biển và một phần ruộng. Xét về cả diện tích và nguồn tài ngun
thì biển giữa vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Việt Nam, cư dân và truyền thống lịch sử
là những nhân tố quan trọng nhất tạo nên diện mạo văn hóa biển. Đất nước Việt Nam là một quốc
gia nằm ở cực đông nam bán đảo Đông Dương, đường bờ biển dài 3260 km. Văn hóa biển đã đi sâu
vào trong tiềm thức mỗi người dân Việt Nam. Các phong tục, tập quán, nét văn hóa, các tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian miền biền đã trở thành nét đẹp văn hóa của từng vùng miền quê gắn
liền với biển.
Về tín ngưỡng, tơn giáo: Đối với ngư dân, tín ngưỡng tơn giáo chiếm vị trí rất quan trọng
trong đời sống tinh thần. Có lẽ bởi điều kiện sống và lao động của họ trong mơi trường biển cả vừa
giàu có, ưu ái con người, vừa thách thức, đe dọa tới tính mạng của họ. Do vậy, họ ln có niềm tin
vào lực lượng siêu nhiên trước biển cả bao la, hùng vĩ.
Người dân biển cũng giống như người Việt khác có tín ngưỡng dân gian như thờ cũng ơng
bà, tổ tiên. Họ lập bàn thờ, nơi trang trọng nhất trong nhà và tiến hành cúng lễ vào dịp giỗ và các
ngày lễ trong năm. Ngoài ra, họ còn thờ Thần thánh và Thành hoàng làng, thờ Thủy thân… Như ở
Đền Nghè – Đồ Sơn thờ Thần biển là Thần Điểm Tước, đồng thời cũng là vị Thành hoàng làng
chung của cư dân cả vùng biển Đồ Sơn. Và Đồ Sơn cịn nhiều địa điểm thờ cúng khác như Đình
Ngọc, đền Vừng, đền Dáu…
Về tri thức, phong tục tập quán có liên quan đến nghề biển: Cư dân ven biển đã sống và lao
động cần cù trên mảnh đất biển. Họ đã khai thác mọi thế mạnh của vùng đất quê mình để xây dựng
cuộc sống từ trong những cơng việc bình thường, giản dị như nghề nơng, nghề đánh bắt cá hoặc
chăn nuôi hải sản. Mỗi khi ra khơi, ngư dân thường có sự chuẩn bị rất chu đáo như xem thời tết,
cầu khấn thần vương hà bá…
Những tri thức dân gian của ngư dân về thời tiết, về biển rất phong phú và sinh động. Được
đúc kết qua những câu ca dao, tục ngữ.
1.2.2. Một số tác phẩm văn học dân gian miền biển.
Các tác phẩm văn học, truyện truyền thuyết, thơ ca dân gian mang văn hóa miền biển có rất
nhiều.
Đầu tiền, có thể kể đến những câu truyện truyền thuyết mang nét văn hóa miền biển. Trong
các lễ hội miền biển có rất nhiều các câu truyện cổ tích có thể kể đến. Chẳng hạn lễ hội chọi trâu
Đồ Sơn, Hải Phòng. Truyền thuyết liên quan đến nguồn gốc lễ hội chọi trâu có rất nhiều các dị bản
khác nhau được kể.
Theo lời kể của các lão làng, từ xa xưa, cư dân làm nghề mò cua, bắt cá ở Đồ Sơn thường
bị cá kình ăn thịt. Trước sự hung tợn, quấy nhiễu của quái vật, con người lập đàn cầu thần linh phù
hộ vào thượng tuần tháng sáu âm lịch và hứa sẽ mổ trâu, mổ lợn lễ tạ. Quả nhiên, sau hai tháng vào
một đêm mưa to, gió lớn, sáng ra thấy xác cá kình chết. Trên hầu có vết chim cắn, một loại chim
thần giáng thế độ dân. Mọi người mới hay là thần đã diệt cá dữ trừ họa cho dân. Nơi cá dữ chết gọi
là dốc Ma Cá. Và để dữ lời hứa với thần linh, hàng năm người dân làng đi mua trâu về lễ thần ở
Đền Nghè. Khi đưa trâu đến Đền Nghè, chúng đứt dây chọi nhau quyết liệt. Dân làng cho rằng thần
linh thích xem trâu chọi. Bởi vậy hàng năm dân làng tổ chức lễ hội chọi trâu vào ngày đó và trở
thành ngày hội truyền thống của người dân Đồ Sơn, Hải Phòng.
Một dị bản khác của câu chuyện được kể rằng “Đêm đó trăng thanh, nhưng sóng to gió lớn,
mưa dăng. Ơng chủ Tế mơ thây hai trâu chọi nhau rất hăng, rất lâu ở xó Sóng. Dân tình ra xem rất
16
đơng thì đơi trâu biến mất. Ơng chủ Tế bèn kể lại giấc mơ đêm qua cho dân làng nghe, mọi người
đều cho rằng thần linh thiêng báo mộng. Năm đó, cá được mùa, dân làng cho đó là điềm lành. Vì
vậy, với mong muốn làm ăn thịnh vượng, đi biển khơng gặp sóng gió, xi chèo, mát mái lúc vào
lộng ra khơi, nên người dân Đồ Sơn bàn nhau mở hội chọi trâu vào mùng chín tháng tám âm lịch.
Nhưng lại có một truyền thuyết khác cho rằng, nước ta nằm trong khu vực có nhiều thiên
tai, mỗi năm có nhiều cơn bão lớn nhỏ. Nghề đi biển thường hay gặp sóng to, gió lớn, thiên tai có
thể đến bất thường. Do vậy, người dân chai ở đây thường cầu mong các vị thần biển phù họ cho họ
khi đi biển tránh được sóng to, gió bão, đánh được nhiều cá tơm trở về. Có một lễ vật q nhất để
cúng tế thần biển. Với quan niệm “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, vì vậy những con trâu được chăm
sóc, lựa chọn cẩn thận mang ra thi đấu, con nào thắng được đem ra cúng tế thần linh.
Có thể thấy truyền thuyết về nguồn gốc lễ hội chọi trâu, Đồ Sơn đã có rất nhiều các dị bản
khác nhau chỉ ở một vùng. Đây chính là đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian đó là tính dị bản.
Thứ hai, các câu ca dao, tục ngữ, thơ ca dân gian mang những nét đặc trưng miền biển.
Chẳng hạn như: “Bao giờ Hòn Đỏ mang tơi/ Hịn Hèo đội mũ thì trời sắp mưa.”
Hịn Đỏ là tên một hịn đảo nằm ở phía Đơng Bắc thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa,
cách đất liền khoảng 500m. Đảo này cùng với Hòn Chồng được xem là biểu tượng du lịch của Nha
Trang. Đây là câu ca dao dự báo thời tiết ở tỉnh Khánh Hòa.
Hay câu tục ngữ nhìn nhận về sự bất trắc, khó lường của biển: “Đi bộ thì khiếp Hải Vân/ Đi
thuyền thì khiếp sống thần hang Dơi”
Hay lại nói đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, khơng chỉ có những truyện truyền thuyết như đã
kể ở trên, cịn có những bài thơ dân gian. Từ xưa đến nay, cư dân vùng đồng bằng châu thổ sống
Hồng và vùng ven biển Bắc bộ đều thuộc lòng câu ca như nhắc nhở mọi người nhớ về ngày hội
q mình: “Dù ai bn đâu, bán đâu/ Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về/ Dù ai bn bán trăm
nghề/ Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu.
Hoặc có một di bản khác: “Dù ai bn dâu, bán đâu/ Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về/
Dù ai bận rộn trăm bề/ Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu.
Có thể thấy các tác phẩm văn học dân gian miền biển dân đa dạng, phán ảnh đúng đời sống
tinh thân của cư dân miền biển.
1.2.3. Dân ca miền biển.
1.2.3.1. Hát Đúm (Thủy Nguyên – Hải Phòng).
Từ xa xưa, khu vực Đơng Nam Á xuất hiện một hình thức sinh hoạt văn hóa phổ biến của
cư dân nơng nghiệp là hát giao duyên giữa nam và nữ. Họ thường hát trong ác ngày hội mùa, ngày
lễ tết đầu năm của dân tộc mình. Hát Đúm cũng là một trong hình thức hát đối đáp giao duyên. Theo
nghĩa từ ngun “Đúm” là một tập hợp khơng có số lượng nhất định.
Hát Đúm là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo ở Hải Phịng. Đây là lễ hội có
truyền thống từ xa xưa và được duy trì đến tận hơm nay trong niềm đam mê khơng chỉ của các nghệ
nhân có tuổi mà cả ở các cháu thanh, thiếu niên. Người dân miền biển Thủy Nguyên cho rằng hát
Đúm là khi một hoặc một nhóm con trai và con gái cất lên tiếng hát thì mọi người xúm lại để nghe
và xem.
Những lời ca của hát Đúm có thể nói là những bài thơ. Tuy những bài thơ này cịn thiếu tính
hàm súc của thơ ca nhưng nó vẫn là tiếng nói phản ánh tâm tư, tình cảm của người dân lao động.
Đó là những tiếng ca hồn nhiên, là nguồn sức mạnh lay động tình cảm, tâm hồn, là tiếng hát về
thiên nhiên, về tình yêu cuộc sống. Ngôn từ trong các câu hát Đúm mộc mạc, giản dị, gần gũi với
thiên nhiên, với cuộc sống của con người vùng biển... nhưng cũng không kém phần mượn mà, trữ
tình đằm thắm.
“...Dùng dằng giã bạn...ngẩn ngơ
Để chiều ướt tím con đị sơng q
Nghiêng nghiêng vành nón trăng thề
Giếng làng em múc chiều về nắng buông...”
17
1.2.3.2. Ca trù (Thủy Nguyên – Hải Phòng).
Thủy Nguyên – Hải Phịng khơng chỉ là q hương của những câu hát Đúm trữ tình, đằm
thắm mà nơi đây cịn lưu giữ một hình thức sinh hoạt dân gian vơ cùng đặc sắc của Việt Nam, đó
là ca trù. Ca trù phát triển mạnh nhất ở làng Đông Môn thuộc huyện Thủy Nguyên. Triều Gia Long
(1804 và 1810) gia phong và bao tặng, đủ nói lên Phủ Từ thờ Tổ Ca cơng đã có trên 200 năm. Điều
này cũng thể hiện Đền thờ không chỉ dành riêng cho những giáo phường huyện Thủy Nguyên, phủ
Kinh Môn hay riêng của làng Đông Môn, mà là Đền thờ Tổ nghề của cả khu vực Duyên Hải.
Trải qua gần một nghìn năm ra đời và phát triển, ca trù đã trở thành môn nghệ thuật độc đáo.
Nó là nơi kí thác tâm hồn của nhiều người, là nơi chứa đựng những tình cảm thiết tha, sâu lắng của
trái tim người nghe và người nghệ sĩ. Ca trù phát triển rộng khắp mọi nơi, bởi ca trù là hát thơ. Nói
đến nghệ thuật ca trù là phải nói đến những câu thơ sâu lắng, ý tình, mang hồn thơ dân tộc.
Chắc hẳn ai cũng quen thuộc bài ca trù “Đào hồng, đào tuyết” của Dương Khuê:
“Hồng hồng, tuyết tuyết
Mới ngày nào chưa biết cái chi chi
Mười lăm năm thấm thốt có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu...”
1.2.3.3. Hò chèo cạn ở làng biển Cảnh Dương – Quảng Bình.
Hị chèo cạn ở làng biển Cảnh Dương cũng gồm một số làn điệu ghép lại như hò chèo cạn
ở các xã vùng biển huyện Bố Trạch hay xã Bảo Ninh, thành phố Đồng Hới. Nhưng hị chèo cạn
Cảnh Dương có thể ghép một số làn điệu trong tất cả các làn điệu, chứ không nhất thiết phải hát hết
tất cả các làn điệu của hị chèo cạn trong một lần trình diễn. Các làn điệu đó là: Nói lối, hị hí gia,
hị vượt sóng, hò khoan, hò kéo lưới, hò hụi, hò đưa linh.
Hò khoan: Lời ca câu hò khoan ở Cảnh Dương thường sử dụng câu lục bát hay lục bát biến
thể. Mỗi câu hò thường được ngắt làm ba cụm tiếng, mỗi cụm tiếng này thường là câu lục và hai
nửa câu của câu bát, được người hò cái lĩnh xướng, rồi các bạn hị con xơ: "là hị... hị khoan" (sau
câu lục và sau 4 tiếng sau của câu bát) và "Là bớ khoan, bớ khoan, bớ khoan" (sau 4 tiếng đầu của
câu bát).
Hò hụi: Đây là khúc hò rộn ràng nhất của nhóm chèo cạn, câu hị hụi khơng có lời ca cho
câu hò, mà chỉ dùng âm thanh tiết tấu đồn dập, mạnh mẽ, chắc khoẻ, láy lại ba bốn lần, làm cho
khơng khí thêm sơi động, thúc giục, tập trung sức người...
Vì thế, âm điệu hị có tác dụng cổ vũ, động viên người lao động trên sông nước muốn chiến
thắng thiên nhiên thì phải hiệp lực, mọi việc sẽ thành cơng. Lĩnh xướng: "hơ hơ hị hụi" và xơ con
"là hị là hụi". Âm thanh nhịp điệu hò hụi chắc khỏe, dồn dập. Sau nhiều lần hò hụi thấm mệt, người
lĩnh xướng hò "hết hụi sang hò khoan", xơ con tiếp "là hị... là khoan". Sau này, người dân đặt lời
ca thêm vào sau các câu hò cái và hị xơ mà qua thời gian, hình thành điệu hị hụi, hị khoan nghe
rất nhuần nhuyễn.
Hị hí gia (hí la): Điệu hị hí gia (hị đưa) rất khoan thai nhẹ nhàng, giọng hò kéo dài, thanh
thản, cảm giác như trời xanh, biển lặng khơng một gợn sóng, chỉ có điệu hị cao vút mênh mơng
giữa mây trời, câu hò lục bát hay lục bát biến thể cũng được cắt làm ba phần như câu hò khoan.
Chèo cạn Cảnh Dương là một loại hình văn nghệ dân gian đặc sắc của một làng quê vùng
biển. Chèo cạn vận dụng nhiều lối ca hát, kể chuyện dân gian và lối biểu diễn mang tính cách điệu
cao của các trị diễn dân dã. Động tác chèo thuyền, tát nước, buông neo,... đã được nghệ thuật hoá
và đưa lên sàn diễn một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn. Nội dung các bài chèo cạn, dù có khi lời ca
vụng về, chưa được gọt dũa, nhưng đã diễn tả được tâm tư, tình cảm của người dân đối với quê
hương, đất nước, với công việc chài lưới, dựng làng, dựng xóm...
Hình thức diễn xướng sinh động, nội dung đa dạng, phong phú, có sức cuốn hút đặc biệt đối
với cả người diễn lẫn người xem, ngơn ngữ mộc mạc, lối hị dung dị nhưng vẫn thâm thuý, sâu sắc
và đi vào lòng người, chèo cạn Cảnh Dương quả thật là hình thức diễn xướng dân gian độc đáo của
vùng sông nước miền Trung.
18
1.3. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
1.3.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 có nêu khái niệm quyền tác
giả như sau:
“2. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra và
sở hữu”.
Điều 18 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về quyền tác giả:
“Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền
tài sản”.
Tuy nhiên, đặc trưng của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là khó có thể xác định được
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm, văn học, nghệ thuật dân gian. Một số tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian vẫn xác định được tác giả sáng tạo ra chúng. Tuy nhiên đại đa số các
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian đều không xác định được tác giả. Tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian ra đời là do sự sáng tạo của cộng đồng, có thể là cộng đồng theo sắc tộc hoặc cộng
đồng dân cư sinh sống ở một địa phương.
Như vậy, ta có thể hiểu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian như sau:
Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là quyền của tổ chức, cá nhân
hoặc cộng đồng đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu,
bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
1.3.2. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện khoa học xã hội Việt Nam, bảo hộ là che chở, không để bị
tổn thất, chống lại mọi sự xâm phạm và giữ cho luôn được nguyên vẹn. Tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian một khi đã trở thành khách thể của quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả thì phải
được bảo hộ theo luật quyền tác giả.
Từ các khái niệm về tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian như đã phân tích ở trên. Ta có thể đưa ra khái niệm bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian như sau:
Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là việc Nhà nước, sử
dụng chính sách, pháp luật về quyền tác giả để chống lại mọi sự xâm hại đối với tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian.
1.3.3. Mục đích, ý nghĩa bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian.
• Đối với thế giới:
Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của sự tồn cầu hóa, sự phát triển như vũ bảo của
công nghệ thông tin, đặc biệt là trong lĩnh vực ghi âm, nghe nhìn, phát sóng, truyền hình cáp, điện
ảnh có thể dẫn đến việc khai thác bất hợp lý di sản văn hóa cũng như việc thương mại hóa trên quy
mơ tồn cầu thơng qua các phương tiện đó, thiếu sự tơn trọng cần thiết đối với các lợi ích văn hóa
hay kinh tế của các cộng đồng nơi chúng được sinh ra. Do đó, vấn đề bảo hộ tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian ngày càng phải đòi hỏi cấp thiết hơn.
Thứ nhất, sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian vì mục đích chung của cơng đồng,
khơng chỉ vì các mục đích vật chất, mà còn là sự ghi nhận về những giá trị về mặt tinh thần nhằm
duy trì nét đẹp truyền thống, giữ gìn vốn cổ mà nó mang lại. Trước tiên, tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian chứa đựng nhiều giá trị to lớn đối với con người: giá trị giáo dục, giá trị nhận thức,
giá trị thẩm mỹ và giá trị sinh hoạt.
Vì vậy, bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là cần thiết nhằm
duy trì những giá trị tốt đẹp đó. Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là một kho kiến thức đồ sộ
của các dân tộc trên thế giới, nhìn vào một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian ta dễ dàng nhận
thấy lối sinh hoạt, nét văn hóa của dân tộc đó, đồng thời nó cịn có tác dụng giáo dục sâu sắc như
lịng u nước, tình u thiên nhiên, lịng vị tha…
19
Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường làm cho người ta coi giá trị thị trường là giá trị
chân thực duy nhất dùng để đo các giá trị khác, dẫn đến nguy cơ “thương mại hóa”, làm bại hoại
đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục, giá trị truyền thống bị nhận thức sai lệch. Chẳng hạn ở
Việt Nam, trong một thời gian dài loại hình sân khấu chèo, cải lương, ca trù… đã không được mọi
người chú ý. Thậm trí ca trù trong một thời gian cịn bị cấm. Thêm vào đó là làn sóng văn hóa Hàn
Quốc thơng qua con đường phim truyền hình đã thâm nhập sâu rộng, mạnh mẽ vào đời sống văn
hóa Việt Nam, tác động khơng ít đến nhận thức, hành vi, lối sống, ứng xử, quan điểm thẩm mĩ của
một bộ phận giới trẻ Việt Nam theo hướng “Hàn Quốc hóa”. Vì vậy, vấn đề cấp thiết nhằm bảo
đảm sự phát triển một cách lành mạnh tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, đó là phải bảo hộ
chúng.
Thứ ba, vấn đề bồi thường cho sự chiếm đoạt và xâm hại nền văn hóa của dân tộc. Cùng
với việc du nhập của văn hóa nước ngồi và phát triển như vũ bão của nền kinh tế thị trường là cơ
hội để các nước học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu tiến bộ trong các lĩnh
vực chuyển giao công nghệ và truyền bà tư tưởng, lối sống của các quốc gia với nhau trên quy mô
ngày càng lớn. Những thành quả mới mẻ, những khám phá, sáng tạo về khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh, phong tục, lối sinh hoạt,… tác động đến các dân tộc,
đến từng gia đình, từng người. Bên cạnh những tác động tích cực thì sức mạnh của tồn cầu hóa
đang là thách thức lớn, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội. Ở những nước chậm và
đang phát triển thì sự thách thức và tác động tiêu cực lại càng lớn hơn, trong đó có cả tư tưởng, đạo
đức, lối sống (văn hóa) nói chung và nền văn học dân gian nói riêng. Một khi nền văn hóa của dân
tộc bị xâm hại, mai một thì những gì được coi là tinh hoa văn hóa của nhân loại, là bản sắc dân tộc
sẽ khơng cịn là đặc thù riêng của mỗi quốc gia nữa. Bởi nét văn hóa đó tượng trưng cho tư tưởng,
lối ứng xử, phong tục tập quán, con người… của họ. Do đó, khi bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian chúng ta phải xác lập vấn đề bồi thường khi có hành vi xâm phạm nền văn hóa của
dân tộc nói chung và tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng. Qua đó thể hiện được sự
quan tâm của chính quyền tới đời sống xã hội, đời sống văn hóa của người dân, góp phần ổn định
trật tự xã hội.
Thứ tư, đặt ra vấn đề vật chất khi thu phí sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian sẽ đề ra việc cấp phép sử dụng, số tiền thu được
từ việc cấp phép đó sẽ góp phần vào việc tu bổ, phát triển các loại hình tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian. Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian sẽ tạo ra lợi ích cho cộng đồng lưu
giữ chúng, khi có ai muốn khai tác một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian thì đồng nghĩ với
việc họ phải bỏ ra một khoản phí để sử dụng chúng, góp phần vào sự duy trì sự tồn tại của tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian.
• Đối với Việt Nam
Thứ nhất, giống như các nước trên thế giới khi bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian. Pháp luật Việt Nam có những quy định về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm
duy trì những giá trị truyền thống, nét tinh hoa văn hóa của dân tộc, đồng thời bảo tồn sự phát triển
lâu dài, bền vững của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Hơn nữa, Việt Nam là một nước có
bè dày lịch sử, truyền thống, những nét văn hóa đều được đúc kết và thể hiện qua các tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian. Mỗi tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là cả một quá trình sáng tạo,
là một kho tri thức, một kho kinh nghiệm rất quý báu của ông cha để lại, vì thế chúng cần được gìn
giữ và được bảo hộ.
Bảo hộ, duy trì và phát huy những giá trị vốn có của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
cũng giống như bảo về đạo đức của cả một xã hội, khích lệ lịng dân, duy trì những nét văn hóa
truyền thống của các cộng đồng làng xã tồn tại từ lâu đời, đó là những vốn cổ, là tâm hồn của người
Việt không được để mai một. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử ông cha ta đã cố cơng xây dựng và
giữ gìn những áng văn chương bất hủ của dân tộc như ca trù, ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích…
chúng đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con người ở mỗi một vùng miền trên đất nước Việt Nam
nói riêng và cả dân tộc ta nói chung. Do đó, chúng ta khơng thể làm mất đi những nét đẹp văn hóa
20
mà ông cha ta bao đời nay gây dựng và gìn giữ, mà chúng ta phải bảo vệ những gì được coi là tinh
hoa văn hóa của nhân loại.
Thứ hai, bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm mục đích là duy trì và cân
bằng giữa việc chống lại việc lạm dụng, làm tổn hại tới sự phát triển của tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian đồng thời đảm bảo sự tự do sáng tạo, lấy nguồn cảm hứng từ tác phẩm đó. Đó là việc
đảm bảo sự cân bằng giữa một mặt là giữ gìn và một mặt là phát triển chúng.
Điều 5 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định:
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong
tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của mình.”
Thứ ba, sự du nhập của văn hóa nước ngoài và sự phát triển kinh tế thị trường đang là vấn
đề đang lo ngại, ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển lành mạnh và toàn vẹn của tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian. Phát triển kinh tế là cơ sở để xây dựng và phát triển nền văn hóa. Văn hóa là
nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã
hội. Phát triển kinh tế song song với việc phát triển nền văn hóa ln ln gắn liền với việc du nhập
các giá trị văn hóa của các quốc gia khác. Từ đó đặt ra một yêu cầu là phải tiếp thu có chọn lọc các
giá trị văn hóa nước ngoài sao cho “hịa nhập” nhưng khơng “hịa tan”, giữ vững truyền thống, tránh
làm nhận thức sai lệch, bại hoại các giá trị đã tồn tại.
Thứ tư, một lợi ích quan trọng mà việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian mang
lại, đó là lợi ích kinh tế. Vì vậy, chúng ta cần phải xem xét lợi ích này một cách kĩ lương và phải đề
cao chúng. Một đất nước đang phát triển như nước ta khi mà tiềm lực kinh tế chưa mạnh thì phải
biết dựa vào những tiềm lực khác để phục vụ cho lợi ích kinh tế. Khai thác tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian sẽ đem lại lợi ích này, điển hành là khai thác chúng cho mục đích phục vụ du lịch,
những giá trị truyền thống là một lợi thế để thu hút sự quan tâm của du khách nước ngồi. Ví dụ
như thơ ca dân gian, câu chuyện cổ tích, thần thoại được sân khấu hóa… trong các lễ hội Fesstival.
Việc khai thác tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian sẽ đem lại một nguồn thu lớn, một nguồn
động lực mạnh cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
1.3.4. Khái quát pháp luật Việt Nam và quốc tế về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian.
1.3.4.1. Pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian.
• Cơng ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật năm 1967.
Tháng 6 năm 1967, vào thời điểm Hội nghị Stockholm tiến hành chỉnh lý Công ước Berne,
có một sự chuyển biến quan trọng đầu tiên từ phía các nước đang phát triển trong nhận thức về hồn
cảnh đặc biệt của mình. Kể từ năm 1967 một số lượng lớn các quốc gia đang phát triển đã áp dụng
Luật Bản quyền để bảo vệ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian (điển hình là Châu Phi, nơi có
hơn 30 quốc gia sử dụng Luật Bản quyền và tỏ ra có hiệu quả). Những nước đang phát triển thực
hiện các nỗ lực đầu tiên để điều chỉnh việc sử dụng các sáng tạo văn hóa dân gian đã cố gắng để
cung cấp sự bảo vệ trong khuôn khổ của pháp luật bản quyền của họ (Bolivia năm 1968 và năm
1992; Chile năm 1970; Colombia năm 1982; Congo năm 1982; Madagascar năm 1982; Rwanda
năm 1983; Benin năm 1984; Burkina Faso năm 1984).
Trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị Stockholm, người ta đã đề xuất rằng các vấn đề quan
tâm của các nước đang phát triển có thể được đưa vào một nghị định thư riêng. Việc thiết lập một
chế độ bảo hộ đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là vấn đề được cân nhắc nhiều. Mặc
dù Nghị định thư được thông qua một cách miễn cưỡng trong phiên họp cuối cùng của Hội nghị
Stockholm, nhưng nó cũng đã khơng có hiệu lực bởi không đảm bảo số lượng phê chuẩn. Nghị định
thư này trở thành một Phụ lục của Công ước Paris, được thông qua bởi Hội nghị sửa đổi Công ước
Paris năm 1971.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 15 của Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm dân gian:
a) Đối với tác phẩm chưa công bố mà nhân thân của tác giả không xác định được nhưng mọi
người đều cho là tác giả đó là cơng dân của quốc gia thuộc Liên hiệp, đây sẽ là một vấn đề dành
21
cho luật pháp tại quốc gia đó trong việc ấn định thẩm quyền thích hợp đại diện cho tác giả và sẽ
được hưởng quyền đối với việc bảo hộ và thực thi các quyền của tác giả tại các quốc gia liên hiệp.
b) Các quốc gia thuộc Liên hiệp thực hiện việc ấn định theo điều khoản của quy định này sẽ
thông báo với Tổng giám đốc thông qua tuyên bố bằng văn bản nêu đầy đủ các thông tin có liên
quan đến thẩm quyền được ấn định. Tổng giám đốc ngay lập tức sẽ thông báo tuyên bố này với tất
cả các quốc gia khác thuộc Liên hiệp.
Tuy nhiên, các quy định tại khoản 4 Điều 15 đã không có được một ý nghĩa thực tiễn nào vì
khơng một quốc gia thành viên nào của tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO nộp cho Tổng giám
đốc bất kỳ một tuyên bố nào về việc ấn định thẩm quyền quốc gia nào như đã quy định.
• Quy định mẫu của WIPO/UNESCO cho luật quốc gia về bảo hộ tác phẩm dân gian
chống lại việc khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tổn hại khác.
Tháng 4 năm 1973, Chính phủ Bolivia đã gửi một bản ghi nhớ tới Tổng Giám đốc UNESCO
yêu cầu tổ chức này xem xét soạn thảo một văn bản pháp lý quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian dưới hình thức một Nghị định thư kèm theo Công ước về quyền tác giả do
UNESCO điều hành. Năm 1975, Ban thư ký UNESCO đã tiến hành khảo sát các ý kiến mong muốn
có được sự bảo hộ đối với các hình thức văn hóa của người bản địa trên bình diện quốc tế. Năm
1977, Tổng giám đốc UNESCO đã triệu tập một hội đồng các chuyên gia về bảo hộ pháp lý đối với
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Trong báo cáo năm 1977, Hội đồng đã kết luận rằng vấn đề
này đòi hỏi phải có sự khảo sát về xã hội học, tâm lý học, dân tộc học và lịch sử - chính trị trên “cơ
sở đa ngành trong khuôn khổ cách tiếp cận tổng thể và có tính lồng ghép”. Theo nghị quyết được
thơng qua bởi Hội nghị tồn thể UNESCO tại Belgrade, vào tháng 9, tháng 10 năm 1980 và quyết
định ban hành bởi Cơ quan lãnh đạo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tháng 11 năm 1981,
một Hội đồng chuyên gia chính phủ về các khía cạnh sở hữu trí tuệ của việc bảo hộ tác phẩm dân
gian đã được triệu tập. Sau một loạt các cuộc họp, Hội đồng này đã xây dựng nên Quy định mẫu
của WIPO/UNESCO cho luật quốc gia về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian chống lại
việc khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tổn hại khác, được thông qua bởi hai tổ chức này
vào năm 1985. Hội nghị toàn thể UNESCO trong phiên họp thứ 25 năm 1989 đã thông qua một Bản
khuyến nghị về bảo hộ văn hóa truyền thống và tác phẩm dân gian, đã đề xuất các biện pháp cần
triển khai ở cấp quốc gia nhằm xác định, gìn giữ, bảo hộ và truyền bá các tác phẩm văn hóa của
người bản địa.
• Luật mẫu Tunis năm 1976.
Trong khi điều khoản của Công ước Berne vẫn dựa trên bảo hộ quyền tác giả thì Luật Mẫu làm
ở Tunis áp dụng cho các nước đang phát triển được thông qua bởi Ủy ban các chuyên gia của Chính
phủ năm 1976 là lần đầu tiên có những điều khoản liên quan đến văn học, nghệ thuật dân gian.
Tại ghi chú phần 6 có ghi nhận: “văn hóa dân gian tạo thành khơng chỉ là một tiềm năng để mở
rộng kinh tế, mà còn là một di sản văn hóa mật thiết gắn bó với nhân vật cá nhân của cộng đồng”.
Theo luật này những người liên quan đến văn học, nghệ thuật dân gian có thể được thực thi
bởi một đại diện có thẩm quyền. Việc bảo hộ này khơng có giới hạn về thời gian.
1.3.4.2. Pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian.
• Giai đoạn trước khi ra đời Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
Trong giai đoạn trước khi ra đời Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, tại “Đề cương văn hóa Việt
Nam” năm 1943 đã sớm đề cập tới ba nguyên tắc cơ bản là: “Dân tộc, đại chúng và khoa học”. Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ban hành có quy định tại Điều 30: “Nhà
nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và
phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân…”
Đồng thời nghiêm cấm truyền bá tư tưởng, văn hóa đồi trụy, phản động làm phương hại đến lợi ích
quốc gia, phá hoại nhân cách và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. Trên cơ sở đó, tại Điều 8
Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả ngày 02/12/1994 được coi là văn bản pháp luật đầu tiên của Việt
22
Nam quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ dân gian. Ngày 28/10/1995, Quốc
hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua Bộ luật Dân sự 1995. Đây là bộ luật quan
trọng đầu tiên quy định về quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian nói riêng.
Bộ Luật hình sự năm 1999, Luật Di sản văn hóa năm 2001, Luật Xuất bản 2004 và các văn bản
pháp luật khác cũng đã có quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Tại khoản 1 Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2001 đề cập đến những sản phẩm truyền thống
nói chung trong đó có văn học, nghệ thuật dân gian thuộc về di sản văn hóa phi vật thể là những
sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, được lưu truyền bằng miệng từ thế hệ này đến thế hệ
khác, lưu truyền bằng trí nhớ và hình thức lưu truyền khác… bao gồm tiếng nói, chữ việt, ngữ văn
dân gian, lối diễn xướng,… Hơn nữa, Luật Xuất bản năm 2004 quy định về việc nhà nước đảm bảo
quyền phổ biến tác phẩm và bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa,
tư tưởng nhằm giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá tị văn hóa dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây
dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát
triển kinh tế - xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển và thay đổi đời sống kinh tế, khoa học xã hội đã bộc lộ
một số hạn chế trong việc điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian như:
- Quan hệ pháp luật về sở hữu trí tuệ là quan hệ vừa mang tính chất hành chính (ví dụ các
thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền kiên quan; xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ,…)
vừa mang tính chất dân sự (các quyền nhân thân và quyền tài sản của chủ thể) nên không thể điều
chỉnh trọn vẹn các vấn đề mang tính hành chính trong Bộ luật Dân sự.
- Bộ luật dân sự điều chỉnh quyền nhân thân và quyền tài sản hữu hình, trong khi đó quyền
sở hữu trí tuệ là quyền tài sản vơ hình.
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian mang giá trị văn hóa của dân tộc và tinh hoa văn
hóa của nhân loại, được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, là sự sáng tạo bằng trí tuệ con
người. Vì vậy, cần có cơ chế bảo hộ chúng nhằm giữ gìn và phát triển những nét đẹp đó là cần thiết.
• Sau khi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ban hành.
Ngày 29/11/2005 Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI kỳ họp thứ 8 thơng qua. Việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ là cần thiết, đáp ứng như
cầu ngày càng gia tăng của các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước.
Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ là một trong
12 loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định quyền tác giả
bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, quy định rõ việc tổ chức, cá nhân khi công bố tác phẩm
hoặc khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ quyền tài sản thì phải xin phép và trả tiền nhuận
bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian.
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 là văn bản pháp luật chuyên biệt đầu tiên có một điều khoản
quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại Điều 23. Theo
quy định của Luật thì tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn
chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và đảm bảo giữ gìn giá trị đích thức của tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian (khoản 2 Điều 23 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005) và việc bảo hộ quyền tác giả
ở đây sẽ do Chính phủ quy định cụ thể (Điều 24 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005).
Để đáp ứng với nhu cầu phát triển trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày 19/6/2009
Quốc hội đã ban hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, trong
nội dung sửa đổi lần này về cơ bản khơng đề cập gì đến tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Đồng thời, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ cũng được ban hành.
23
Bộ luật Dân sự năm 2005 ban hành ngày 14/6/2005 quy định những vấn đề chung nhất về
quyền tác giả và quyền liên quan. Tuy nhiên, sau 10 thực hiện có những bất cập, khó khăn trong
q trình thực hiện.
Ngày 24/11/2015 Bộ Luật dân sự năm 2015 được ban hành với nhiều quy định mới. Đặc
biệt, Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định những nội dung đã được cụ thể trong Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005 như Bộ luật dân sự 2005. Dường như có thể thấy, pháp luật sở hữu trí tuệ ngày
càng phát triển phức tạp và đồ sộ khiến các nhà làm luật phải dành cho nó “một khơng gian riêng
để đảm bảo sự tập trung và nhất quán các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ”. Đảm bảo cho
việc phát triển cũng như phù hợp với thực tiễn hiện nay liên quan đến quyền tác giả nói chung và
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng.
CHƯƠNG 2: NHỮNG BẤT CẬP TRONG VIỆC BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI
VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT DÂN GIAN MIỀN BIỂN
2.1. Thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
miền biển.
2.1.1. Thành tựu đạt được.
Thứ nhất, trong hoạt động bảo tồn, phát triển tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo lập được nền
văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Trong đó văn học, nghệ thuật dân gian là dòng
chảy lớn bắt nguồn từ bản chất nhân dân và khát vọng của các cộng đồng cư dân khác nhau cùng
chung sống trên lãnh thổ quốc gia. Vì vậy, bản thân nó có sức trường tồn, góp phần làm nên sức
mạnh của dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong “Đề cương văn hóa Việt Nam” năm 1943 đã sớm đề cập đến 3 nguyên tắc cơ bản là:
“dân tộc, đại chúng và khoa học”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận giá trị đã được khẳng
định từ các bản Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 1980. Điều 5 Hiến pháp 2013: “Các dân tộc
có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán,
truyền thống tốt đẹp của mình” và Điều 60 Hiến pháp 2013: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại”. Đây là những chính sách lớn của nhà nước đối với văn hóa, nghệ thuật nói chung và
văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng.
Nước ta hiện nay đã ban hành nhiều chương trình quốc gia về bảo tồn và phát triển các giá
trị văn hóa phi vật thể, nhiều dự án điều tra, bảo quản, sưu tầm, biên dịch, xuất bản kho tàng văn
học, nghệ thuật dân gian hứa hẹn nhiều thành quả tốt đẹp.
Từ những quy định cơ bản của đạo luật Hiến pháp, các thiết chế văn hóa đã từng bước được
hình thành nhà sưu tầm, khôi phục để bảo tồn và phát huy các giá trị văn học, nghệ thuật dân gian
của các cộng đồng dân tộc. Đó là việc ra đời các viện và các khoa nghiên cứu giảng dạy về văn học,
nghệ thuật dân gian. Hội Văn nghệ dân gian là tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng được ra đời với 73
chi hội hoạt động ở trung ương và các địa phương. Đội ngũ các chuyên gia về văn học, nghệ thuật
dân gian được hình thành đơng đảo ở hầu hết các lĩnh vực từ âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, điêu
khắc, điệu múa, lễ hội,…
Các hoạt động thống kê, nghiên cứu, sưu tầm, cơng bố các hình thức văn học, nghệ thuật
dân gian đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Nhiều cơng trình nghiên cứu, sưu tầm có chất
lượng về sử thi, lễ hội và các bộ môn nghệ thuật đã được công bố. Các bộ sách lớn về văn học, nghệ
thuật dân gian của người Việt, dân tộc ít người, cơng trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa, tôn giáo đã
được xuất bản và ghi trên băng đĩa lưu hành rộng rãi.
Nhà nước đã ban hành chương trình quốc gia về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi
vật thể và dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch, xuất bản kho tang sử thi Tây Nguyên hứa
hẹn nhiều thành quả tốt đẹp. Các ngành văn hóa, du lịch, tiểu thủ cơng đã có nhiều kế hoạch cụ thể
24
cho mục tiêu bảo tồn và phát triển văn học, nghệ thuật dân gian. Hội văn nghệ dân gian đã đề ra kế
hoạch “Tầm nhìn 2010” nhằm thống kê vốn liếng cha ơng để lại xây dựng chương trình phát huy
giá trị. Phong trào đã thu hút sự quan tâm bước đầu của cộng đồng trong việc sưu tầm, ghi chép,
phục dựng các giá trị văn học, nghệ thuật dân gian. Hội đã có sáng kiến trao tặng danh hiệu “Nghệ
nhân bàn tay vàng”, danh hiệu “Nghệ nhân dân gian” và “Nghệ nhân ưu tú” để ghi nhận công lao
của những người có nhiều cống hiện cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn học,
nghệ thuật dân gian.
Năm 2009 chính phủ đề cử ca trù là bộ môn Di sản thế giới UNESCO. Ca trù từ đó được
cơng nhận để nghiên cứu và bảo tồn. Nghệ thuật ca trù được khai thác trong nhiều bộ phim cũng
như trong các chủ đề âm nhạc Việt Nam.
Thứ hai, trong hoạt động quản lý tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian đã từng bước được
hoàn thiện. Nhà nước đã quan tâm nhiều hơn đến các cộng đồng để quản lý các tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian. Vốn di sản văn học, nghệ thuật dân gian miền biển rất phong phú và đa dạng.
Nó được Nhà nước tun bố bảo vệ, khuyến khích việc giữ gìn, phát huy. Những điệu hò chèo cạn,
các lễ hội miền biển đang được nhà nước quan tâm.
Thứ ba, Nhà nước ta đã quan tâm nhiều hơn tới vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian. Vấn đề bản quyền không chỉ đặt ra với những tác phẩm văn học thơng
thường mà cịn đặt ra với cả những tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Các văn bản quy phạm pháp
luật về Sở hữu trí tuệ cũng đề cấp tới quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Quy
định về việc sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian một cách rõ ràng.
2.1.2. Một số bất cập cịn tồn tại.
Đầu tiên, có thể kể đến việc cơ chế thị trường với mặt trái của nó và việc giao lưu, hội nhập
đã xuất hiện những động cơ vụ lợi dẫn đến sự băng hoại, biến dạng của các giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể. Nhiều cơng trình nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng tiến triển chậm trong khi các nghệ
nhân là kho tư liệu lưu giữ các giá trị này tuổi tác đã q cao, thời gian, vật chất khơng cịn nhiều
cho việc khai thác.
Có thể nói đến điệu hị chèo cạn ở Làng biển Cảnh Dương không thể không nhớ đến nghệ
nhân ưu tú Phạm Ngọc Thức, sinh năm 1935 là người nắm vững, diễn xướng các làn điệu dân ca
hiện có ở Cảnh Dương hiện nay. Ơng vừa qua đời vào sáng ngày 20 tháng 02 năm 2017, đây là một
mất mát lớn trong việc bảo tồn các tác phẩm hò chèo cạn hiện nay.
Thứ hai, đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian việc sử dụng tác phẩm, trích
dẫn tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhưng không nêu rõ nguồn gốc xuất xứ của tác phẩm đã
xảy ra khá nhiều trong thời gian qua.
Năm 1998 xuất hiện một bài thờ “Anh hùng là anh hùng rơm” của ông Đặng Chiến quê ở
xã Vạn Phúc, thị xã Hà Đơng, tỉnh Hà Tây đã trích dẫn nguyên câu ca dao về lễ hội chọi trâu Đồ
Sơn nhưng khơng có trích dẫn. Dường như vấn đề trích dẫn nguồn gốc xuất xứ tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian không được để ý nhiều tới.
“Anh hùng là anh hùng rơm
Về đây thử lửa mất cơn anh hùng
Câu ca mách bảo ta rằng
Anh hùng thiên hạ đâu bằng mày râu
...
Dù ai bn bán trăm nghề
Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu
Dù ai bn đâu bán đâu
Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về
Ơi câu ca nặng tình quê
Ở nơi đâu cũng nhớ về quê hương
Xin làm một cổ động viên
Tinh hoa dân tộc giữ gìn mn sau”
25