Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

TỨ đại DANH lâu của TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC………………………………………

TIỂU LUẬN

TỨ ĐẠI DANH LÂU CỦA TRUNG QUỐC
Sinh viên thực hiện: …………………
Lớp: ...................................................
Mã số SV: ……………………………

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS …………………

……., năm 2020


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hồn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình quý báu của
PGS.TS …………….., được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Trường Đại
học………………
Nhân đây cho phép tơi được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS …………. người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua, tơi cũng xin chân
thành cảm ơn những ý kiến đóng góp, những nhận xét q báu của các thầy cơ giáo
giúp tơi hồn thành bài tiểu luận của mình.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, nhà lãnh đạo bè đã ln
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm tiểu luận
……, tháng 11 năm 2020
Học viên

…………………………


A. MỞ ĐẦU


Văn hóa Trung Quốc là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất nhất trên thế
giới. Với một đất nước có bề dày về mặt lịch sử, bề rộng về mặt địa lý, ngay từ thời cổ
đại Trung Quốc đã có những phát minh lớn có tiếng vang và ảnh hưởng đến cả thế giới,
trong đó có nhiều kiến trúc nổi tiếng. Những phát minh đó cho thấy con người Trung
Quốc rất năng động, sáng tạo. Suốt 5000 năm tồn tại và phát triển, văn minh Trung
Quốc khơng chỉ có ảnh hưởng đến các dân tộc châu Á,mà cịn có những đóng góp lớn
cho tiến trình phát triển của văn minh lồi người.
Nghệ thuật Trung Quốc có một lịch sử lâu đời với phong cách dân tộc đậm đà
và đạt được những thành tựu huy hoàng. Trung Quốc cịn là một nước có nền
kiến trúc phát triển rực rỡ với nhiều cơng trình kiến trúc độc đáo có tầm cỡ quốc tế.
Kiến trúc Trung Quốc có đặc điểm là thường dùng vật liệu kết cấu bằng gỗ, bố
trí thành quần thể kiến trúc, ở giữa là sân, bốn phía là nhà vây lại, lấy gian nhà làm đơn
vị cơ bản. Từ tháp , đến cung điện, đền chùa, miếu mạo đều xây dựng theo một dạng
như vậy, chỉ khác về quy mô, kiểu dáng. Gia công nghệ thuật ngay trên cấu kiện của
kiến trúc như tạo dáng hình cong với những phù điêu các con vật quý, tạo cho bộ mặt
kiến trúc Trung quốc một vẻ độc đáo. Sự bố trí các màu tong một bố cục tương phản
tôn tạo lẫn nhau, sự phản ánh đời sống tam linh của người Trung Quốc như: lòng tin
vào thánh thần, tôn thờ trời đất, thuyết Âm dương ngũ hành… đã ảnh hưởng đến hình
thức và nội dung các cơng trình kiến trúc, tạo nên đặc điểm trong kiến trúc Trung Quốc
Tứ đại danh lâu là bốn ngọn tháp ngắm cảnh nổi tiếng của Trung Quốc, bao
gồm: Nhạc Dương lầu ở Nhạ Dương, Đằng Vương các ở Nam Xương, Hoàng Hạc lâu
ở Vũ Hán và Guanque (Tháp Cò). Mỗi một ngọn tháp này đều gắn liền với những câu
chuyện rất nổi tiếng của lịch sử Trung Quốc


Để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Tác giả quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Tứ đại danh lâu của Trung Quốc”. Việc làm sáng tỏ nội dung trên, sẽ giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa, kiến trúc Trung Hoa.



B. NỘI DUNG
TỨ ĐẠI DANH LÂU TRUNG QUỐC

1. Nhạc Dương Lâu
Lầu Nhạc Dương (Hán-Việt: Nhạc D/’ppương lâu (岳陽樓)) là một tòa lầu tháp
ở Trung Quốc. Tháp này nằm ở Nhạc Dương và là một trong Tứ đại danh lâu của Trung
Quốc. Tháp này nằm bên bờ hồ Động Đình. Lầu Nhạc Dương đã trở nên nổi tiếng qua
bài ký "Nhạc Dương lâu ký" (岳陽樓記) của Phạm Trọng Yêm. Nó nổi tiếng vì lý
tưởng chính trị mà ơng thể hiện ở phần cuối trong câu "先天下之憂而憂,後天下之
樂而樂" (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc - lo trước cái lo của
thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).

Lầu Nhạc Dương


Nhạc Dương Lâu ở đầu thành Tây Môn, thành phố Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam,
Trung Quốc. Nhạc Dương Lâu nhìn ra Hồ Động Đình, nằm trên đường đi sứ, các sứ
thần Việt Nam đi theo sông Tiêu Tương từ Quảng Tây đến Hồ Động Đình dừng chân
thăm Nhạc Dương Lâu sau đó đến Vũ Hán thăm Hồng Hạc Lâu . Là một trong bốn
danh lâu Trung Quốc nên các sứ thần nước ta thường làm thơ khi thăm Nhạc Dương
Lâu.

Tương truyền lầu được Đại tướng nước Ngô, Lỗ Túc thời Tam Quốc xây dùng
làm nơi duyệt quân trên Hồ Động Đình. Có thuyết lại cho Trương Duyệt đời Đường
xây dựng. Đời Tống, Đằng Tử Kinh thái thú Ba Lăng trùng tu và khắc các bài thơ các
thi nhân đời trước, ông mời Phạm Trọng Yêm làm bài ký Nhạc Dương Lâu Ký. Phạm
Trọng Yêm làm bài ký tuyệt tác 360 chữ tình cảm dào dạt, văn chương cảm động lịng
người, đời sau truyền tụng mãi.
Nhạc Dương Lâu trải qua nhiều lần trùng tu quan trọng năm 1639 đời nhà Minh.
Năm 1880 nhà Thanh, Trương Đức Dung tu sửa. Lần cuối năm 1983 lầu hư nát phải

phục chế lại hoàn toàn. Tồ lầu 3 tầng hình chữ nhật rộng 17m24 sâu 14m45 cao 15m,
Dùng 4 cây trụ lớn gỗ nam, 12 trụ tròn 2 tầng lầu và 12 trụ gỗ tứ làm trụ thềm


Lầu Nhạc Dương nguyên là Duyệt Quân lâu của đại tướng Đông Ngô thời Tam
quốc là Lỗ Túc. Năm Kiến An thứ 20 (215), Tôn Quyền cùng Lưu Bị tranh giành Kinh
Châu, đại tướng Lỗ Túc dẫn quân đóng tại vùng chiến lược là Ba Khâu, tại hồ Động
Đình thao luyện thủy quân, nhân đó cho xây đắp thành Ba Khâu. Tại khu vực ven hồ
Động Đình, ơng cho xây dựng một lầu để kiểm duyệt thủy quân, gọi là Duyệt Quân
lâu.
Thời kỳ nhà Tấn và Nam-Bắc triều, Duyệt Quân lâu đổi tên thành Ba Lăng thành
lâu. Nhà thơ Nhan Duyên Chi có bài thơ "Đăng Ba Lăng thành lâu" viết về lầu này.
Thời kỳ nhà Đường, Ba Lăng thành lâu được gọi là Nhạc Dương lâu. Do vùng
đất Nhạc Châu nối liền nam bắc, lại có nhiều thắng cảnh lầu, đài nên nhiều thi nhân
thường xuyên tới đây. Năm Khai Nguyên thứ 4 (716), trung thư lệnh Trương Thuyết
bị biếm quan về Nhạc Châu, thường hội họp văn nhân lên lầu ngâm vịnh thơ. Sau này
có các nhà thơ như Trương Cửu Linh, Mạnh Hạo Nhiên, Giả Chí, Lý Bạch, Đỗ Phủ,
Hàn Dũ, Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị, Lý Thương Ẩn từng tới đây. Đỗ Phủ có "Đăng
Nhạc Dương lâu", một tuyệt phẩm thơ ca về lầu Nhạc Dương.
Nhạc Dương lâu được Đằng Tử Kinh trùng tu và Phạm Trọng Yêm sáng tác bài
ký ghi lại công việc này. Năm Khánh Lịch thứ 4 (1044), Đằng Tử Kinh bị vu cáo là
lạm dụng tiền công sứ, bị biếm làm tri phủ Nhạc Châu. Năm sau ông cho trùng tu Nhạc
Dương lầu. Sau đó ơng mời Phạm Trọng m sáng tác "Nhạc Dương lâu ký".
Miêu tả về Nhạc Dương Lâu, đại thi hào Nguyễn Du (1766-1820) đến thăm lầu
Nhạc Dương trong thời trai trẻ đã viết: Lầu cao ngất đứng sừng sững trên bờ cao. Đứng
trên cao nhìn xuống phong cảnh sao mà tráng lệ. Mây nổi che kín cả ba vùng đất Sở .
Giang Lăng là Nam Sở. Ngô là Đông Sở, Bành Thành là Tây Sở ; Nước thu từ chín
sơng đổ về. ; nước Động Đình Hồ có 9 con sơng chảy về, gọi là Cửu Giang. Việc cũ
truyền lại ba lần say ở lầu này, Nhắc chuyện Lã Động Tân đời Đường thi trượt được
Chung Ly Quyền dạy thuật trường sinh, người đời liệt vào hàng Bát Tiên. Ơng có hai

câu thơ : Tam túy Nhạc Dương nhân bất thức. Lãng ngâm phi quá Động Đình hồ. Ba
lần say ở lầu Nhạc Dương mà khơng ai biết, ngâm thơ tràn bay qua hồ Động Đình .
Q hương một góc trời trống khơng. Nguyễn Du muốn nói nhà Trịnh, nhà Lê đều sụp
đổ, hai anh Nguyễn Khản, Nguyễn Điều làm quan to đều mất, Nguyễn Du thấy hụt


hẩng trống rỗng trong lịng. Trước ngọn gió Tây một mình đứng dựa lan can. Tây Sơn
nổi lên như một ngọn gió mạnh, mình phiêu bạt giang hồ một mình nơi đất khách quê
người. Vẳng tiếng chim hồng chim nhạn bay qua mà lòng thêm buồn.
LÊN LẦU NHẠC DƯƠNG
Dốc đứng lầu cao dựng,
Lên cao tráng lệ sao !
Mây bay ba nước Sở,
Nước thu chín sơng vào.
Chuyện cũ say ba bận,
Q xưa vắng làm sao.
Gió Tây cơ đơn đứng,
Tiếng hồng buồn biết bao!

2. Đằng Vương Các
Đằng Vương các (tiếng Trung: 滕王阁) là tên gọi của ba nhà lầu có gác do
Đằng Vương Lý Nguyên Anh thời Nhà Đường cho xây dựng tại các tỉnh Giang
Tây, Tứ Xuyên và Sơn Đông. Trong số này, nổi tiếng nhất là Đằng Vương các
ở Giang Tây, do nó gắn liền với bài thơ Đằng Vương các tự của Vương Bột.
Trong phạm vi bài này chỉ đề cập tới Đằng Vương các tại Giang Tây.
Đằng Vương các ở Nam Xương, tỉnh Giang Tây là một trong Tứ đại danh lâu
của Trung Quốc và là một trong ba đại danh lầu của vùng Giang Nam, cùng với
Nhạc Dương lâu ở Hồ Nam, Hoàng Hạc lâu ở Hồ Bắc.



Lầu chính của Đằng Vương các ở Giang Tây.
Đằng Vương các nằm ở phía tây bắc Nam Xương, bờ đơng sông Cám Giang.
Được Lý Nguyên Anh (con trai của Đường Cao Tổ Lý Uyên, em của Đường Thái Tông
Lý Thế Dân) cho xây dựng vào năm Vĩnh Huy thứ 4 (năm 653) thời Nhà Đường. Năm
652 Lý Nguyên Anh được điều đến Tô Châu để nhậm chức thứ sử, ông sai đô đốc Hồng
Châu xây dựng các này để làm chỗ ở. Do Lý Nguyên Anh được phong là "Đằng
Vương", nên các này gọi là Đằng Vương các. Khoảng 20 năm sau, đơ đốc Hồng Châu
khi đó là Diêm Cơng cho trùng tu. Sau khi hồn thành cơng việc, ơng cho mời các văn
sĩ đến sáng tác thơ văn để ghi nhớ, Vương Bột đã sáng tác bài Đằng Vương các tự và
nó đã trở thành một trong những bài thơ nổi tiếng trong thơ ca Trung Hoa thời kỳ Nhà
Đường.
Sau này, qua các thời kỳ Tống, Nguyên, Minh, Thanh thì Đằng Vương các cũng
lần lượt trải qua nhiều thời kỳ thịnh suy, trước sau tổng cộng 28 lần trùng tu, các cơng
trình kiến trúc đã bị thay đổi nhiều. Lần trùng tu cuối cùng diễn ra vào khoảng niên
hiệu Đồng Trị (1862-1875) Nhà Thanh. Giai đoạn 1926-1929, Đằng Vương các bị phá
hủy do chiến tranh. 50 năm sau, nó lại được trùng tu một lần nữa.


Đằng Vương các hiện tại là phiên bản trùng tu lần thứ 29. Ngày 8 tháng 10 năm
1989 công việc trùng tu hồn thành với kiến trúc mơ phỏng theo kiểu kiến trúc thời
Nhà Tống, nó cao 57,5 m với 5 tầng và 9 lớp mái, sử dụng kiểu "minh tam ám thất"
(ba sáng bảy tối) trong xây dựng lầu, gác của thời Tống. Mỗi tầng đều có hành lang để
quan sát phong cảnh Cám Giang. Hai phía nam, bắc có các đình là "Áp Giang đình" và
"Ấp Thúy đình". Tổng diện tích xây dựng là 13.000 m² trên diện tích tổng cộng 47.000
m².


Tầng một của Đằng Vương các cao 12 m. Tại lối vào có hai hàng chữ viết của
Mao Trạch Đơng chép lại câu thơ của Vương Bột "落霞与孤鹜齐飞" và "秋水共长天
一色" ("Lạc hà dữ cô vụ tề phi" và "thu thủy cộng trường thiên nhất sắc" - tạm dịch:

Ráng chiều với cánh vịt trời cô đơn cùng bay, nước thu trộn lẫn bầu trời xa một sắc)
trên các cột bằng thép khơng gỉ. Đại sảnh phía tây có mơ hình Đằng Vương các theo
tỷ lệ 1:25 làm bằng đồng.
Tầng lầu thứ hai có một bích họa là "Nhân kiệt đồ -Giang Tây lịch đại danh đồ
quyển" vẽ 80 danh nhân đất Giang Tây từ thời Nhà Tần đến những năm cuối Nhà
Thanh như Đào Uyên Minh, Từ Nhụ Tử, Tằng Củng, Âu Dương Tu, Vương An Thạch,
Thang Hiển Tổ. Bích họa cao 2,55 m, dài 43,9 m.

Ấp Thúy đình

Tầng lầu thứ ba có một bích họa là "Lâm Xun mộng", vẽ theo nội dung 4 vở
hí kịch của Thang Hiển Tổ (Lâm Xuyên tứ mộng) gồm: Mẫu đơn đình, Tử thoa ký,
Nam Kha mộng, Hàm Đan ký.
Tầng lầu thứ tư có bích họa là Địa linh đồ. Chính giữa tầng lầu thứ năm có một
giếng trời, là tầng cao nhất, ngày trước là nơi để thưởng thức ca múa. Hiện nay mỗi
ngày đều có biểu diễn ca múa cổ. Hai bên của tầng lầu này có bày các loại nhạc cụ cổ
nước Sở được phục chế theo mơ hình thu được từ mộ Tằng Hầu Ất, bên để chuông,
bên để khánh cùng trống với hai con phượng, hổ đỡ trống và 25 chiếc đàn cổ.


Ấp Giang đình

Điển tích Đằng Vương Các bắt nguồn từ giai thoại:
20 năm sau khi xây dựng, Lý Nguyên Anh đã mất, Đô Đốc Diêm Bá Dư trấn
nhậm Hồng Châu trùng tu, mở cuộc thi thơ nhân tài bốn phương và khoản đãi tân
khách. Chủ ý ông là muốn khoe tài con rễ là Ngô Tử Chương. Bất ngờ Vương Bột, lúc
đó 18, 19 tuổi, trên đường đi thăm cha là Vương Phúc Cơ làm huyện lệnh Hoan Châu,
Giao Chỉ (nay là Nghệ An) hay tin cho thuyển rẻ vào sông Chương Giang. Đáng lẽ đi
mất 2 ngày, nhưng nhờ gió Trùng Cửu (mùng 9 tháng 9) con thuyền đi nhanh chỉ một
đêm là đến đến Mã Đương, trong bữa tiệc do Diêm Bá Dư khoản đãi, Vương Bột viết

bài Đằng Vương Các đoạt giải quán quân : hai câu thơ tuyệt tác : Lạc hà dữ cô vụ tề
phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. (Ráng chiều cò lẽ đồng bay. Nước thu nối
với trời xanh một màu), được truyền tụng hơn ngàn năm qua. Bài Đằng Vương Các
của Vương Bột được xem là một trong những bài thơ văn hay nhất trong thi ca Trung
Quốc, gắn liền với di tích lịch sử này, một điển tích thường nhắc đến trong văn chương
Trung Quốc, Việt Nam.. Tô Đông Pha có câu thơ : Thời lai phong tống Đằng Vương
các. Gặp thời gió tới Đằng Vương Các Nguyễn Du trong Kiều có câu : Duyên Đằng
thuận nẽo gió đưa, Cùng chàng kết tóc xe tơ một ngày. . Hồ Xuân Hương trong Lưu
Hương Ký bài thơ viết cho Mai Sơn Phủ cũng nhắc đến : Nào đâu gác Đằng Vương.


Bài tự “Đằng Vương Các” viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều
điển khó hiểu nhưng lời thì khá đẹp mà rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua
địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong
cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.
3. Hồng Hạc Lâu
Vũ Hán là thành phố lớn nhất ở miền Trung Trung Quốc, nằm ở phía Nam sơng
Dương Tử và cách Thượng Hải khoảng 800km về phía Tây. Thành phố này khơng chỉ
là trung tâm về kinh tế, thương mại mà còn là nơi hội tụ cả những kì quan tuyệt đẹp về
thiên nhiên cũng như lịch sử đất nước Trung Hoa.
Nếu một lần được đặt chân đến Vũ Hán, du khách khơng thể bỏ qua Hồng Hạc
Lâu – một trong tứ đại danh lâu Trung Hoa, được xây dựng trên ghềnh đá Hoàng Hạc
thuộc huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc vào năm Hồng Vũ thứ 2 đời nhà Ngơ thời Tam
Quốc (223 Tây Lịch).
Tên gọi "Lầu Hoàng Hạc " bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian của Trung Hoa.
Tương truyền Phí Văn Vi, một tu sĩ đắc đạo thành tiên thường cưỡi hạc vàng ngao du
sơn thủy. Một hôm, tiên và hạc bay ngang Vũ Hán và dừng chân lại trên "Đồi Rắn" để
nhìn ngắm, một bên là cảnh đẹp hùng vĩ của Trường Giang và bên kia là Ngũ Hồ trong
khói sương diễm lệ. Người đời sau đã từ nơi tiên cưỡi hạc vàng bay đi xây lên một tháp
lầu đặt tên là Hoàng Hạc Lâu.


Lầu Hoàng Hạc trên cao


Hồng Hạc Lâu là một ngơi tháp lịch sử, được cất trên vực đá Hoàng Hạc của
núi Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử, thuộc thành phố Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
Hoàng Hạc Lâu được xem là một trong bốn tứ đại danh tháp của Trung Quốc và là ngôi
lầu nổi tiếng được các thi nhân ca tụng.

Lầu Hồng Hạc phía dưới nhìn lên


Tên gọi "Lầu Hoàng Hạc " bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian của Trung Hoa

Hoàng Hạc Lâu được nhắc đến nhiều trong thơ ca, các bộ phim và là địa điểm
du lịch nổi tiếng tại Trung Quốc. Cho đến nay, ngôi tháp đã bị phá hủy 12 lần do chiến
tranh hoặc cháy nổ. Sau mỗi lần như vậy, người ta đều xây lại, mỗi lần lại cao hơn và
nhiều tầng hơn. Phiên bản thứ 11 bị hủy năm 1884. Đến năm 1957, khi ghềnh đá Hoàng
Hạc được dùng làm nơi xây cầu vượt sơng Trường Giang (cịn gọi là sơng Dương Tử).
Từ năm 1981-1985, Hồng Hạc Lâu hiện tại được xây lại tại một vị trí mới cách đó
1km


Khung cảnh Hoàng Hạc Lâu tỏa sáng, nổi bật trong đêm

Lầu Hoàng Hạc ngày xưa là nơi gặp mặt tao đàn của các văn nhân mặc khách
đương thời. Vào thời Đường (618-907), các thi nhân đến Hoàng Hạc Lâu để vừa thưởng
ngoạn phong cảnh non nước mây ngàn hữu tình, vừa uống rượu làm thơ.

Lầu Hoàng Hạc ngày xưa là nơi gặp mặt tao đàn của các văn nhân mặc khách đương thời



Hoàng Hạc Lâu gồm 5 tầng, mỗi tầng trưng bày nhiều hiện vật theo một chủ đề
khác nhau. Tầng thứ nhất có bức bích họa bằng gốm sứ diện tích 54m2 mô tả cảnh tiên
giới với mây, nước, tiên hạc…; tầng thứ ba trưng bày các bài thơ được làm trong nhiều
triều đại ca ngợi vẻ đẹp của lầu Hoàng Hạc.

Năm 1981, lầu được trùng tu lại bằng vật liệu xây dựng hiện đại; trong lầu có cả
thang máy cho phép du khách lên đến đỉnh tháp ngắm con sông Dương Tử cuồn cuộn
chảy. Xung quanh lầu Hồng Hạc có nhiều tượng hạc vàng bằng đồng và các ngơi đình
nhỏ; trong đó có một ngơi đình treo quả chng lớn cho du khách đánh thử. Hằng năm
vào ngày Quốc khánh Trung Quốc (1-10), tại sân phía Tây của lầu Hồng Hạc có lễ
hội biểu diễn các điệu múa cung đình kéo dài 1 tuần.


Cảnh sắc và vẻ đẹp của Hoàng Hạc Lâu đã đi vào thơ ca, nhạc họa
Các nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa xưa đều có tác phẩm viết về tịa lầu này, ví
như: Thơi Hiệu - bài Hồng Hạc lâu và Lý Bạch - bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng.
Lầu Hồng Hạc
Tích nhân dĩ thừa hồng hạc khứ,
Thử địa khơng dư Hồng Hạc lâu.
Hồng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?


Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu cịn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ cịn bay
Hán Dương sơng tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hồng hơn
Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai
Cho đến nay, tại Việt Nam đã có nhiều nhà thơ đã dịch Hoàng Hạc Lâu ra tiếng
Việt. Tản Đà là một trong những người dịch đầu tiên và tài năng của ông đã giúp cho
bài thơ trở nên quen thuộc với người Việt Nam. Ngồi ra, có thể kể đến những bản dịch
của Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố…
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cơ phàm viễn ảnh bích khơng tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói Châu Dương xi dịng
Bóng buồm đã khuất bầu khơng
Trơng theo chỉ thấy dịng sông bên trời


Hồng Hạc Lâu trở thành một trong bốn cơng trình lầu tháp cổ nhất tại Trung Hoa

Với tuổi thọ gần 1.800 tuổi, Hoàng Hạc Lâu trở thành một trong bốn cơng
trình lầu tháp cổ nhất tại Trung Hoa. Nơi đây còn là thắng cảnh nổi tiếng gắn liền với
trận chiến Xích Bích; trận Khổng Minh mượn gió đơng; Khuất Ngun viết Ly tao,

Tôn Quyền xem trận thế… trong thời Tam Quốc.
Ngày này, Hồng Hạc Lâu vẫn ln là nơi thu hút nhiều khách du lịch trong và
ngồi nước. Cơng trình này là một biểu tượng tiêu biểu, thể hiện niềm tự hào về lịch
sử cũng như nét đẹp văn hóa lâu đời của đất nước Trung Quốc.


4. Tháp Cò hoặc Guanque Tháp
Tháp Cò hoặc Guanque Tháp ( đơn giản hóa Trung Quốc :鹳雀楼; truyền
thống Trung Quốc :鸛雀樓; bính âm : Guànquè Lou ) là một cổ tháp của Trung
Quốc trong Puzhou Town , Vĩnh , Sơn Tây , Trung Quốc. Nó nằm ở phía tây
nam bên ngoài thành phố cổ Puzhou, và gần bến phà Pujin (蒲津渡). Tháp Cị
đã đạt đến thời kỳ hồng kim chưa từng có trong triều đại nhà Đường (618-907)
nhờ một bài thơ nổi tiếng mn thuở " Trên tháp Cị" ( 《登 鹳雀楼》 ) do nhà
thơ Wang Zhihuan viết.(688-742). Cùng với Lăng Thái tử , Tháp Nhạc
Dương và Tháp Hạc vàng , nó là một trong Tứ đại tháp của Trung Quốc .
Nằm ở giao điểm của Sơn Tây, Thiểm Tây và Hà Nam , nó đã là một pháo
đài giao thông quan trọng từ thời cổ đại. Thành phố Yongji, dựa lưng vào dãy
núi Zhongtiao và hướng ra sơng Hồng Hà , được gọi là Puzhou (蒲州) trong
lịch sử. Bây giờ, địa điểm thành phố cổ Puzhou vẫn còn tồn tại. Những bức tường
thành dày và những tháp cổng cao vút đang cho thấy sự thịnh vượng của thành
phố Phổ Châu hồi đó. Phà Puzhou (蒲津渡) được xây dựng bên ngồi cổng phía
tây của thành phố Puzhou. Bốn con bị đực bằng sắt vạm vỡ và những bức tượng
người bằng sắt trong những bộ trang phục dân gian khác nhau từng được buộc
chặt vào Cầu nổi Pujin (蒲 津 浮桥) bắc qua sơng Hồng Hà.
Theo sử liệu, Tháp Cị lần đầu tiên được xây dựng vào thời Nam Bắc triều
(420-589) bởi Yuwen Hu (513-572), một quan đại thần của triều đại Bắc Chu
(557-581). Tự phụ mọi quyền hành cho bản thân, Yuwen Hu chủ trì các cơng
việc nhà nước của triều đại Bắc Chu trong hơn mười năm. Trong thời gian trị vì
của mình, ơng đã cho xây dựng quy mô lớn để xây dựng nhiều cung điện và tháp.
Hồi đó, Phổ Châu là con đường duy nhất từ Trường An , thủ đô của triều đại Bắc

Chu, đến Tấn Dương, trung tâm chính trị của quốc gia láng giềng Bắc Tề.(550577). Bảo vệ Puzhou, Yuwen Hu đã gia cố thành Puzhou để khiến nó trở nên bất
khả xâm phạm. Trong khi đó, để theo dõi tình hình của kẻ thù, ơng cịn cho xây
một tịa tháp ba tầng bên ngoài thành phố. Tương truyền rằng sau khi tháp được
xây dựng, những con cị thường đậu trên tháp nên nó được đặt tên là Tháp Cò.


Một số người nói rằng Yuwen Hu đã xây dựng Tháp Cị khơng chỉ vì mục đích
qn sự mà cịn để ngắm mẹ mình bằng cách nhìn ra xa. Hóa ra mẹ của Yuwen
Hu bị giam ở Jinyang, Thái Nguyên ngày nayở Sơn Tây, của triều đại Bắc Tề,
một nước láng giềng của triều đại Bắc Chu. Hoàng đế của triều đại Bắc Tề yêu
cầu mẹ của Yuwen Hu viết một bức thư với bộ quần áo mà Yuwen Hu đã mặc
trong thời thơ ấu. Sau khi nhận được bức thư và bộ quần áo từ mẹ, anh cảm thấy
vô cùng đau buồn và ngay lập tức viết một bức thư gửi lại cho mẹ. Sau đó, anh
ln giữ thư từ thường xun với mẹ mình. Người ta nói rằng Yuwen Hu thường
lên tháp Cò và bỏ qua hướng về Jinyang để làm vơi đi nỗi nhớ mong mẹ của
mình. Năm 572 sau Công nguyên, Yuwen Hu bị giết. Yuwen Yong(543-578),
hoàng đế của triều đại Bắc Chu, chủ trương thanh đạm, vì vậy ơng đã cho tất cả
các tịa nhà lộng lẫy do Yuwen Hu xây dựng bị lửa thiêu rụi. May mắn thay,
Tháp Cị vẫn được bảo tồn vì chức năng qn sự của nó là trơng coi biên giới
Tháp Cò được xây dựng vào thời Bắc Chu và trở nên thịnh vượng vào thời
Đường (618-907). Vào khoảng năm 704 sau Công nguyên, Wang Zhihuan (688742), một nhà thơ của triều đại nhà Đường, lên tháp Cò vào lúc chạng vạng vào
một ngày nọ và viết một bài thơ nổi tiếng mn thuở " Trên tháp Cị" ( 《登
鹳雀楼》 ). Kể từ đó, Tháp Cị được thế giới biết đến. Vô số người đã bị thu hút
đến đây bởi danh tiếng của nó. Quận Hezhong (河 中 郡) dùng để chỉ Puzhou.
Vào năm Khai Nguyên thứ 8 của triều đại nhà Đường, cụ thể là vào năm 720 sau
Công nguyên, Phổ Châu được nâng cấp thành một tỉnh và lấy tên là tỉnh Hà
Trung vì nó nằm ở trung lưu sơng Hồng Hà


Tháp Cị, đóng vai trị là một đồn qn sự, nằm ở thành phố Vĩnh Tế,

tỉnh Sơn Tây, phía bắc Trung Quốc.
Vào thời Zhenyou của triều đại Jin (1115-1234), Hoàng đế Huyền Tông của
Jin , Wanyan Xun (1163-1224), cảm nhận sâu sắc mối đe dọa to lớn từ quân đội
Mông Cổ và quyết định dời đô đến Hezhong Prefecture, cũng là Puzhou, là dễ
bảo vệ nhưng khó bị tấn cơng. Tuy nhiên, do hành động chậm chạp, ngay sau
khi ông quyết định dời đô, quân đội Mông Cổ đã chiếm Bình Dương, tức Lâm
Phần ngày nay thuộc tỉnh Sơn Tây.
Puzhou trở thành một thành phố biệt lập. Hoàng đế Huyền Tơng của Tấn
quyết định từ bỏ nó. Ơng ra lệnh cho Aludai (阿 禄 带), tướng quân đồn trú ở
Puzhou, phóng hỏa thành Puzhou. Theo ghi chép của "Biên niên sử quận


Puzhou" ( 《蒲 州府 志》), vào năm đầu tiên của thời Yuanguang của triều đại
Tấn, cụ thể là năm 1222, quân Jin chiến đấu chống lại quân đội Mông Cổ, Hou
Xiaoshu (侯小叔), tướng của quân Jin, đã phóng hỏa tháp Cò. Nhưng " History
of Jin " ( 《金 史》 ) đã phủ nhận quan điểm này
Đầu thế kỷ 13, các bộ tộc Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn (1162-1227) lãnh
đạo phát triển nhanh chóng, cực kỳ đe dọa triều đại nhà Tấn (1115-1234). Khi
tấn công đồng bằng Trung tâm, kỵ binh Mông Cổ đã giao chiến với quân Tấn
một cách quyết liệt. Người ta nói rằng Tháp Cị có lẽ đã bị phá hủy trong trận
chiến giành quyền kiểm soát Puzhou giữa hai bên.
Vào triều đại nhà Nguyên , khi học giả nổi tiếng Vương Vân (王 恽; 12271304) đến Tháp Cị, ơng chỉ nhìn thấy phần cơ sở đổ nát của Tháp Cò. Vào thời
nhà Nguyên, người ta chỉ nhìn thấy khu căn cứ đổ nát chứ khơng thấy tháp cao
tầng khi đến thăm Tháp Cò
Vào triều đại nhà Minh (1368-1644), thậm chí khơng thể nhìn thấy địa điểm
của Tháp Cò. Vào thời Long Khánh của triều đại nhà Minh, sơng Hồng Hà đã
bị phá vỡ. Nước sơng chảy ngược vào thành phố Puzhou và địa điểm Tháp Cị
bị vùi sâu trong bùn cát từ đó về sau
Năm 1990, các bộ phận liên quan quyết định xây dựng lại Tháp Con Cò. Tuy
nhiên, khi duyệt các tư liệu lịch sử, người ta khơng tìm thấy nhiều ghi chép về

Tháp Cò. Và đặc điểm cấu trúc và đặc điểm kỹ thuật bên ngồi của nó khơng
được kể lại rất rõ ràng trong các tài liệu cổ.
Vào tháng 3 năm 1992, các bộ phận liên quan đã điều tra ba tịa tháp ở phía
nam sơng Dương Tử, sau đó, họ đã dành mười ngày để thăm năm tỉnh và bốn
thành phố với khoảng cách 8.000 km (5.000 dặm). Đầu tiên họ đến thăm Tháp
Hạc vàng , sau đó là Tháp Nhạc Dương , Lăng Thái tử Đằng và Tháp Xunyang
ở Cửu Giang.

Khi các bộ phận liên quan đến thăm từng tòa tháp trong số bốn tháp này, họ
nên thảo luận chi tiết với kỹ sư trưởng của cơng trình để đồn kết điều tra và tìm
hiểu việc phục dựng các tòa nhà cổ, đặc biệt là việc phục dựng các tháp cao và


gian hàng, bao gồm cả lý lịch lịch sử, cơ sở thiết kế , phong cách kiến trúc và
quản lý một cách chi tiết, do đó đã đặt nền móng vững chắc cho việc tái thiết
Tháp Cò. Do sự thay đổi của các dòng chảy cũ và sự lắng đọng trầm tích của
sơng Hồng Hà, các chun gia đã quyết định giải quyết địa điểm xây dựng lại
Tháp Cò trên bờ sơng Hồng Hà, cách thành phố cổ Puzhou 3 km (1,9 mi).
Vì vậy, các chuyên gia đã thiết kế nó theo hình thức kiến trúc của triều đại
nhà Đường (618-907), lần này, các chuyên gia cũng đã đến thăm Thiểm Tâyvà
Cam Túc từ xa để tìm kiếm luồng tư tưởng từ các lăng mộ hoàng gia của triều
đại nhà Đường (618-907) và các bức tranh tường trong hang Đôn Hồng . Điều
đáng nói là, vì Tháp Cị rất quan trọng về mặt lịch sử nên các chuyên gia kiến
trúc cổ Trung Quốc Zheng Xiaoxie (郑孝燮; 1916-2017) và Luo Zhewen
(罗哲文; 1924-2012) ln chú ý đến việc tái tạo Cị. Tịa tháp. Họ đã xem xét
và phê duyệt cẩn thận, kỹ lưỡng các phương án thiết kế và cuối cùng quyết định
lấy phương án thứ hai trong bốn phương án làm tiêu chí và đưa ra ý kiến sửa đổi.
Trang trí màu sắc của Tháp Cò được thiết kế bởi Ma Ruitian (马瑞田), một
chuyên gia sơn màu kiến trúc cổ của Trung Quốc. Quan trọng hơn, hiện nay, sơn
màu giả của triều đại nhà Đường (618-907) rất hiếm ở Trung Quốc. Trang trí

màu sắc của Tháp Cị là một cơng trình cổ điển trong số đó. Với nỗ lực chung
của nhiều chuyên gia kiến trúc cổ và các nhà xây dựng, Tháp Cò được phục dựng
cuối cùng đã lộ diện trước mắt mọi người. Các chuyên gia cho rằng, những ngọn
tháp nổi tiếng đại diện cho một loại tình cảm và văn hóa của những ngọn tháp
nổi tiếng là vật chuyên chở quan trọng của văn hóa Trung Hoa, đồng thời là cầu
nối, sợi dây kết nối tình cảm quê hương đất nước của mọi người Hoa trên thế
giới.


×