Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Các phương pháp đo và chụp chiếu tim phổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

BÁO CÁO MÔN HỌC
Đề tài: Tìm hiểu các phương pháp đo và
chụp chiếu tim và phổi
Giảng viên hướng dẫn:
Trường:
Môn học:
Mã lớp:

TS. Nguyễn Thanh Hường
Điện – Điện tử
Đo lường y sinh
133249

Ngành kĩ thuật điều khiển và tự động hóa
HÀ NỘI, 6/2022

LỜI MỞ ĐẦU

Chữ ký của GVHD


Với công nghệ khoa học phát triển, chúng ta không ngừng nghiên cứu và
phát triển để nâng cao sức khỏe con người. Trong số đó, việc con người nghiên
cứu và phát minh ra các phương pháp đo và chụp chiếu tim, phổi mới được coi là
một trong những bước tiến lớn cho nền y tế cũng như góp phần rất lớn cho việc
nâng cao sức khỏe cho con người.
Ở đề tài này, chúng em đã tổng hơjp và liệu kê các phương pháp mà con người đã
và đang sử dụng để đo, chụp chiếu tim, phổi. Do kiến thức về y học còn hạn chế,
việc tiếp cận với tài liệu y học cịn khó nên rất mong cơ thơng cảm nếu chúng em


có gì sai sót trong khi thực hiện đề tài.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC


DANH SÁCH HÌNH ẢNH


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TIM VÀ PHỔI

1. Giới thiệu về tim.

Tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn của động vật, với chức năng
bơm đều đặn để đẩy máu theo các động mạch và đem dưỡng khí và các chất dinh
dưỡng đến toàn bộ cơ thể, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình trao đổi
chất.
Trong cơ thể người, động vật có vú và các loài chim, tim được chia thành
bốn phần: tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải ở nửa trên; tâm thất trái và tâm thất phải ở
nửa dưới. Thường tâm nhĩ phải và tâm thất phải được gộp vào gọi là nửa bên
phải và phần kia được gọi là nửa bên trái của tim. Tim cá có hai ngăn, một tâm
nhĩ và một tâm thất, trong khi tim các lồi bị sát có ba ngăn. Máu chảy qua tim
theo một chiều do van tim ngăn máu chảy ngược. Tim được bao bọc trong một
túi bảo vệ, gọi là màng ngồi tim có chứa một lượng nhỏ chất bôi trơn. Tim được
cấu tạo thành ba lớp: thượng tâm vị, cơ tim và màng trong của tim.

Hình 1: Cấu tạo của tim

Tim bơm máu thơng qua cả hai hệ thống tuần hồn. Máu có nồng độ oxy

thấp từ hệ tuần hoàn đi vào tâm nhĩ phải từ tĩnh mạch chủ trên và dưới và đi đến
tâm thất phải. Từ đây máu được bơm vào hệ tuần hồn phổi, tại đó máu nhận
được oxy và thải ra carbon dioxit. Máu được tăng cường oxy trở về tâm nhĩ trái,
đi qua tâm thất trái và được đẩy ra thông qua các động mạch chủ vào hệ tuần
hồn máu, nơi oxy được sử dụng và chuyển hóa thành carbon dioxit. Ngoài ra
máu mang dưỡng chất từ gan và hệ tiêu hóa đến các cơ quan khác nhau của cơ
thể, đồng thời vận chuyển chất thải đến gan và thận.[cần dẫn nguồn] Thông
thường với mỗi nhịp tim đập, tâm thất phải bơm cùng một lượng máu vào phổi
như các tâm thất trái đẩy máu vào cơ thể. Tĩnh mạch vận chuyển máu đến tim,
trong khi động mạch đẩy máu ra khỏi tim. Tĩnh mạch thường có áp lực thấp hơn
so với động mạch. Tim co bóp với tốc độ khoảng 72 nhịp mỗi phút khi ở trạng
5


thái nghỉ. Tập thể dục làm tăng nhịp tim tạm thời, nhưng làm giảm nhịp tim nghỉ
ngơi về lâu dài - điều này là tốt cho sức khỏe tim mạch.
2. Giới thiệu về phổi.

Phổi là một bộ phận trong cơ thể với vai trị chính yếu là trao đổi các khí đem oxy từ khơng khí vào tĩnh mạch phổi, và dioxide cacbon từ động mạch phổi
ra ngoài. Ngoài ra phổi cũng có một số khả năng thứ yếu khác, giúp chuyển hóa
một vài chất sinh hóa, lọc một số độc tố trong máu. Phổi cũng là một nơi lưu trữ
máu.

Hình 2: Hình họa phổi

Trong con người, phổi gồm có hai buồng phổi nằm bên trong lồng ngực,
được bao bọc bởi các xương sườn chung quanh, phía dưới có cơ hoành ngăn giữa
phổi và các cơ quan trong bụng như gan, dạ dày, lá lách. Giữa hai buồng phổi là
khí quản (1) - là ống dẫn khí chính. Khí quản phân ra hai nhánh phế quản chính
(2) (3). Quả tim nằm giữa hai phổi (trung thất), hơi trệch về bên trái.

Buồng phổi bên trái có 2 thùy (trái-trên (5a), trái-dưới (5b)), bên phải có 3
thùy (phải-trên (4a), phải-giữa (4b) và phải-dưới (4c)). Mỗi buồng phổi có một
phế quản chính, một động mạch (8) và hai tĩnh mạch - những ống dẫn này chia
như nhánh cây chi chít từ lớn ở giữa ngực (trung thất) đến cực nhỏ phía ngồi
cùng của buồng phổi - kèm theo là các dây thần kinh và mạch bạch huyết.
Những ống dẫn khí lớn hơn như khí quản và phế quản lớn được nhiều
vành sụn giữ cho cứng và có ít cơ trơn. Bên trong các ống có lát màng tế bào
tiêm mao và một lớp màng nhầy mỏng trên các tế bào này. Chất nhầy giữ bụi, hạt
phấn và các chất bẩn khác. Qua chuyển động của tiêm mao, chất bẩn bám theo
6


màng nhầy được đẩy lên và đưa vào thực quản nuốt xuống dạ dày theo nước
miếng.

7


CHƯƠNG 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO VÀ CHỤP CHIẾU TIM

Có nhiều phương pháp hiện có để đánh giá chức năng tim. Một số trong số
này khơng xâm lấn (ví dụ, nghe tim thai để đánh giá chức năng van, điện tâm đồ
để đánh giá các đặc điểm điện và các kỹ thuật hình ảnh khác nhau để đánh giá
hoạt động bơm cơ học) và những kỹ thuật khác yêu cầu một số thiết bị xâm lấn.
Chương này cung cấp tổng quan ngắn gọn về một số công cụ lâm sàng thường
được sử dụng này.
2.1

Kỹ thuật hình ảnh.


Các cơng cụ mới và kỹ thuật đo lường với các mức độ nhạy và độ phân
giải khác nhau đã được sử dụng rộng rãi để xác định các thông số vật lý của tim.
Các công cụ như PET,CT,MRI,… này đã được triển khai in vivo với độ phân giải
đến centimet (Hình 3).

Hình 3: Độ phân giải và độ sâu trường ảnh (thâm nhập) của một số phương thức hình
ảnh hiện tại được minh họa và so sánh. Lưu ý rằng độ phân giải giảm khi độ sâu tăng
lên, các phương thức hiển thị như CT và MRI thích hợp để chụp ảnh tồn bộ các cơ
quan và hệ thống in vivo trong khi các phương thức có độ phân giải cao hơn phù hợp
nhất cho hình ảnh ex vivo và in vitro của các cấu trúc nhỏ hơn ở cấp độ tế bào và dưới
tế bào . Thường thì hai hoặc nhiều phương thức được sử dụng song song để có được sự
hiểu biết đầy đủ về một hệ thống hoặc bệnh lý.


1

Siêu âm tim.

Hình 4: Máy siêu âm tim

Siêu âm tim là kỹ thuật chụp tim được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Kỹ
thuật không xâm lấn này dựa trên thực tế là các sóng âm thanh phản xạ trở lại
nguồn phát khi gặp phải những thay đổi đột ngột về mật độ của môi trường mà
chúng truyền qua. Một đầu dị, được đặt tại các vị trí xác định trên ngực, tạo ra
các xung sóng siêu âm và phát hiện các sóng phản xạ dội lại từ các giao diện mơ
tim.

Hình 5: Sử dụng đầu dị của máy siêu âm.

Các sóng siêu âm bị lệch được đầu dị thu thập và số hóa thành hình ảnh

thời gian thực để tiết lộ thông tin cấu trúc. Các mô dày đặc hơn sẽ làm lệch
hướng sóng siêu âm nhiều hơn và sẽ được thể hiện trên hình ảnh với một điểm
ảnh sáng hơn. Siêu âm tim có thể được sử dụng để xây dựng hình ảnh phẳng của


tim, thể tích 3D và khi được sử dụng kết hợp với Doppler, đo các mơ hình dịng
chảy trong tim). Các phép đo này sử dụng dải tần số siêu âm từ 2 đến 18 MHz,
với thiết bị 10 MHz tiêu chuẩn tạo ra độ phân giải dọc 150 µm với tốc độ khung
hình từ 15 đến 40 khung hình / giây, do đó cho phép phát hiện chuyển động. Tần
số cao hơn dẫn đến tăng độ phân giải không gian; tuy nhiên, độ sâu của sự thâm
nhập giảm khi tần số cao hơn. Siêu âm Doppler là một loại hình ảnh siêu âm tiết
lộ thơng tin về dịng chảy của máu trong các buồng tim. Trong quá trình chụp ảnh
siêu âm Doppler, sóng siêu âm tấn cơng các tế bào máu đang chuyển động và
được phản xạ trở lại đầu dị. Tần số của sóng quay trở lại được điều chỉnh bởi
hướng và vận tốc của dòng máu theo Hiệu ứng Doppler.

Hình 6: Hình ảnh thu được qua máy siêu âm

Siêu âm tim là một công cụ quan trọng trong việc đánh giá bất thường
chuyển động thành ở những bệnh nhân nghi ngờ bệnh tim. Nó là một cơng cụ
giúp chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim cho thấy bất thường chuyển động thành
vùng của tim. Ngoài ra, điều quan trọng là điều trị và theo dõi ở bệnh nhân suy
tim , bằng cách đánh giá phân suất tống máu. Siêu âm tim có thể giúp phát hiện
các bệnh cơ tim , chẳng hạn như bệnh cơ tim phì đại , bệnh cơ tim giãn, và nhiều
bệnh khác.
Đối tượng cần siêu âm tim:
Thông thường, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện kỹ thuật siêu âm tim đối với
những bệnh nhân có xuất hiện các triệu chứng về tim hoặc mạch máu như: loạn
nhịp tim, tăng huyết áp, khó thở, đau thắt ngực, khó thở… Bên cạnh đó, những
bệnh nhân khi phát hiện ra những dấu hiệu bất thường về tim mạch thông qua các

xét nghiệm khác như: chụp x-quang phổi thấy bóng tim to, nghe thấy tiếng tim
bất thường bằng ống nghe… cũng sẽ được chỉ định thực hiện siêu âm tim để
kiểm tra tình trạng tim mạch một cách kỹ lưỡng hơn.
Ngoài ra, nếu bạn đang gặp phải các biểu hiện nghi ngờ liên quan đến tim
cũng nên nhanh chóng đến các cơ sở y tế để được thực hiện siêu âm tim kịp thời.
Bao gồm:
• Chóng mặt, hoa mắt, đau đầu, đau thắt vùng ngực.


• Cảm thấy khó thở, nhịp tim khơng ổn định, đập loạn nhịp lúc nhanh lúc
chậm. Đặc biệt khi làm việc nặng tim đập nhanh, hụt hơi, thở khó khăn,
nơn ói.
• Xuất hiện các triệu chứng của bệnh thiếu máu cơ tim như: đau cánh tay,
đau vùng vai trái, đau lưng, đau cổ hay hàm.
Ưu – nhược điểm của siêu âm tim
Ưu điểm:
- Siêu âm tim được xem là một khảo sát y học thường quy quan trọng.
Những hình ảnh được từ quá trình siêu âm là cơ sở vững chắc, giúp
các bác sĩ đưa ra chẩn đoán bệnh lý chính xác và hiệu quả.
- Kỹ thuật siêu âm tim ngày càng hiện đại. Nếu như siêu âm 3D (siêu
âm 3 chiều) có khả năng tái tạo lại dữ liệu thu nhận được từ sóng âm
thành hình ảnh 3 chiều rõ nét, chi tiết thì siêu âm 4D (siêu âm 4 chiều)
có thêm khả năng ghi nhận thêm sự chuyển động. Đây là cơ sở quan
trọng giúp ích rất nhiều cho các bác sĩ lâm sàng trong việc điều trị.
- Siêu âm tim là phương pháp chẩn đốn hình ảnh khơng xâm lấn,
khơng gây đau, khơng có biến chứng. Cụ thể, siêu âm tim sử dụng
sóng siêu âm thay vì tia phóng xạ ion hóa như chụp X-quang, nên an
tồn và không gây tổn hại đến sức khỏe người bệnh ngay cả khi thực
hiện nhiều lần.
Hạn chế:

Bên cạnh những ưu điểm kể trên, kỹ thuật siêu âm tim cũng tồn tại một số
hạn chế như:
- Sau khi thực hiện siêu âm tim qua thực quản, cổ họng của bạn có thể
sẽ bị đau. Tuy nhiên, hiếm trường hợp ống siêu âm gây xước cổ họng
từ bên trong.
- Trong quá trình thực hiện siêu âm cần gây mê, người bệnh có thể sẽ
gặp phải một số vấn đề về hô hấp do thuốc an thần hoặc lượng oxy hít
thở.
- Do gắng sức, hoặc sử dụng thuốc trong siêu âm tim gắng sức có thể
gây loạn nhịp tim tạm thời. Một số người xuất hiện các vấn đề về tăng
hoặc giảm huyết áp.
- Đối với trường hợp có gắn các điện cực theo dõi điện tim, người bệnh
sẽ có cảm giác hơi khó chịu khi bác sĩ tháo bỏ lớp băng dính gắn các
điện cực trên ngực ra.
2

Chụp cộng hưởng từ (MRI)

Chụp cộng hưởng từ (MRI) là một kỹ thuật Chẩn đoán hình ảnh hiện đại
trong y học sử dụng từ trường và sóng radio để đánh giá tổn thương của các cấu
tim như: màng tim, cơ tim, các buồng tim, các van tim, hệ thống động Mạch
vành tim. Hình ảnh từ MRI có độ tương phản cao, chi tiết giải phẫu tốt cho phép


phát hiện được các tổn thương về mặt hình thái, chức năng của tim (tưới máu cơ
tim, đặc tính mơ, động mạch vành).

Hình 7: Máy chụp cộng hưởng từ

Hình ảnh cộng hưởng từ hình ảnh trái tim bằng cách phát hiện các nguyên

tử hydro bằng cách sử dụng nam châm siêu dẫn , đặc biệt là những nam châm
gắn với nước và phân tử chất béo. Những nguyên tử hydro này có một đặc tính
được gọi là spin hạt nhân. Mặc dù hướng của vòng quay này thường là ngẫu
nhiên, vịng quay có thể được căn chỉnh bằng cách sử dụng một từ trường mạnh.
Các tín hiệu điện từ yếu ớt được phát ra bởi các nguyên tử hydro này khi sự liên
kết của chúng tạm thời bị xáo trộn, có thể được phát hiện và sử dụng để tạo ra
hình ảnh của tim.
MRI được sử dụng để tạo ra hình ảnh giải phẫu 3D có độ phân giải cao để
đo độ dày thành tim (và mạch) ở cả mô khỏe mạnh và mơ bệnh. Có thể thu được
các hình ảnh đơn lẻ theo thứ tự 20–200 ms. Để có được tất cả các hình ảnh mong
muốn trong một nghiên cứu thường cần ~ 30 phút. Phương pháp không xâm lấn
này có thể được sử dụng để đo độ dày hoặc teo của vách do bệnh tật cũng như
những thay đổi cấu trúc sau khi điều trị. Phép đo thời gian giãn dọc tuyệt đối của
mô nước-proton ( 1 H) (T 1 , thời gian giãn tính bằng giây) cho phép xác định
nhồi máu cơ tim cấp tính. Bản đồ tham số được tạo ra bởi sự phù hợp voxel-byvoxel của T1 (hoặc R1 (≡1 / T 1 )) cung cấp một công cụ để đo mức độ và vị trí
của ổ nhồi máu. Thuốc thử cản quang ngoại sinh, không chiếu xạ cung cấp một
công cụ cho các bác sĩ nghiên cứu cấu trúc và tính tồn vẹn của mạch máu dựa
trên mơ hình dược động học về tính thấm. MRI tăng cường độ tương phản có thể
phát hiện nhiều chi tiết hình thái hơn so với MRI tiêu chuẩn, với giới hạn phát
hiện dự kiến lần lượt là khoảng 0,3 cm 2 (2 × 2 pixel) và 0,5 cm 2 (3 × 4 pixel).
Thuốc thử cản quang dựa trên gadolinium được dùng theo đường tĩnh mạch được
biết là thốt mạch thống qua từ máu vào kẽ. Mơ hình dược động học của tốc độ
thoát mạch đo định lượng tính thấm thành mạch ( 15 - 18). Hơn nữa, sự hấp thu
thuốc thử cản quang vào mô là dấu hiệu của các q trình có hại như sẹo, nhồi
máu hoặc hoại tử. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc đo lường sự tăng


cường tín hiệu MRI trong tim sau nhồi máu cơ tim cho phép dự đốn khả năng
tồn tại của mơ và khả năng phục hồi tổng thể.


Hình 8: Hình ảnh MRI tim

MRI có thể đo kích thước, hình dạng, chức năng và đặc điểm mô của tim
trong một phiên duy nhất. Nó có khả năng tái tạo cao hơn siêu âm tim với ít biến
thiên giữa các quan sát viên hơn, cho phép tạo ra phạm vi tham chiếu chính xác
hơn để phân biệt tốt hơn tình trạng sức khỏe với bệnh tật. Các lợi ích bổ sung từ
MRI tim bao gồm khả năng phát hiện sẹo trong tim bằng cách tăng cường
gadolinium muộn và xác định các bất thường khác của chính cơ tim như thâm
nhiễm sắt hoặc protein amyloid .
Nhược điểm của MRI bao gồm các giao thức dài dòng và khả năng mắc
chứng sợ sợ hãi. Hơn nữa, không thể thực hiện quét MRI ở một số người cấy
ghép kim loại như một số loại máy tạo nhịp tim , máy khử rung tim , mặc dù
nhiều máy tạo nhịp tim hiện đại an toàn để sử dụng trong máy quét MRI. Các cấu
trúc kim loại khác như van nhân tạo và stent mạch vành nói chung khơng có vấn
đề gì.
Sự phát triển gần đây trong học sâu và các kỹ thuật mạng nơ-ron tích tụ đã
cho phép phân tích và định lượng một số khía cạnh của MRI tim một cách tự
động. Việc sử dụng MRI tim được dự đốn sẽ tăng lên nhờ có nhiều máy quét
hơn và kiến thức rộng rãi hơn về ứng dụng lâm sàng của nó.
Hiện nay, chụp cộng hưởng từ tim mạch được chỉ định trong các trường
hợp:
• Bệnh tim bẩm sinh để đánh giá bất thường về luồng thông, giải phẫu...
• Bệnh lý cơ tim như: Viêm cơ tim, cơ tim giãn nở hoặc cơ tim phì đại, lắng
đọng sắt trong cơ tim, cơ tim kết bè...
• Bệnh lý mạch vành: Đánh giá chức năng và khả năng vận động của thất
trái, đặc biệt đánh giá tính sống cịn của cơ tim trong nhồi máu cấp và mãn
tính mà các phương pháp khảo sát khác cịn hạn chế;
• Khảo sát các vùng nhồi máu và xơ hóa của cơ tim.
• Bệnh lý màng ngồi tim, mạch máu;
• Bệnh lý ở van tim;



• U tim nguyên phát hoặc thứ phát: MRI cung cấp các hình ảnh về tính chất
khối u, nhờ đó mà bác sĩ chẩn đoán, xác định và đánh giá được mức độ
xâm lấn của khối u;
• Bệnh chuyển hóa cơ tim - Spectroscopy.
3

Chụp cắt lớp vi tính (CT)

Chụp CT tim được thực hiện để có kiến thức về giải phẫu tim hoặc mạch
vành. Theo truyền thống, chụp CT tim được sử dụng để phát hiện, chẩn đoán
hoặc theo dõi bệnh động mạch vành. Gần đây, CT đã đóng một vai trị quan trọng
trong lĩnh vực phát triển nhanh chóng của can thiệp cấu trúc tim bằng máy xuyên
, cụ thể hơn là trong việc sửa chữa và thay thế van tim bằng máy xuyên. Hình
ảnh CT tạo ra hình ảnh giải phẫu 3D bằng cách sử dụng hình ảnh X-quang và
tính tốn nâng cao. Độ phân giải tạm thời của CT là từ 100–300 ms; tổng thời
gian quét khác nhau tùy thuộc vào việc sử dụng chất cản quang và số lần quét
được thực hiện. Độ phân giải không gian của CT là 1–5 mm.
Các hình thức chụp CT tim chính là:
Chụp CT mạch vành (CCTA): Chụp CT mạch vành (CTA hoặc CCTA) là việc
sử dụng chụp cắt lớp vi tính (CT) động mạch để đánh giá các động mạch vành
của tim. Bệnh nhân được tiêm chất điều khiển vơ tuyến vào tĩnh mạch và sau đó
tim được qt bằng máy quét CT tốc độ cao, cho phép các bác sĩ đánh giá mức
độ tắc nghẽn trong động mạch vành , thường là để chẩn đốn bệnh động mạch
vành.

Hình 9: Hình ảnh chụp CT mạch vành nguồn kép tăng cường độ tương phản

CTA ưu việt hơn CT canxi mạch vành trong việc xác định nguy cơ biến cố

tim mạch có hại (MACE).
Chụp CT canxi mạch vành : là phương pháp chụp cắt lớp vi tính (CT) tim để
đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh động mạch vành. Cụ thể, nó tìm kiếm
cặn canxi trong động mạch vành có thể thu hẹp động mạch và tăng nguy cơ đau
tim. Mức độ nghiêm trọng này có thể được biểu thị dưới dạng điểm Agatston
hoặc điểm canxi động mạch vành (CAC). Điểm CAC là một dấu hiệu độc lập về
nguy cơ biến cố tim, tử vong do tim và tử vong do mọi nguyên nhân.


Hình 10: Điểm canxi cụ thể của tổn thương

Ngồi ra, nó cung cấp thêm thơng tin tiên lượng cho các dấu hiệu nguy cơ
tim mạch khác. Các chướng ngại vật có thể xuất hiện ngay cả khi điểm Agatston
bằng 0, đặc biệt là ở những bệnh nhân nhỏ tuổi. Chụp cắt lớp CT canxi mạch
vành điển hình được thực hiện mà khơng cần sử dụng sóng radio , nhưng nó cũng
có thể được thực hiện từ các hình ảnh tăng cường chất cản quang, chẳng hạn như
trong chụp CT mạch vành .
Đối tượng chỉ định chụp CT tim:
• Người có nguy cơ cao mắc các bệnh tim mạch, động mạch vành như:
- Mắc các bệnh lý mãn tính: tăng huyết áp, đái tháo đường.
- Hút thuốc lá nhiều, rối loạn lipid máu (mỡ máu cao).
- Có các triệu chứng đau ngực (ngày càng nhiều).
- Có yếu tố di truyền.
• Bị suy tim khơng xác định được ngun nhân.
• Đã từng phẫu thuật bắc cầu động mạch vành.
• Đã từng đặt stent thơng lịng mạch.
4

Chụp cắt lớp phát xạ Positron (PET).


PET tim (hay chụp cắt lớp phát xạ positron tim ) là một hình thức chẩn
đốn hình ảnh trong đó đánh giá sự hiện diện của bệnh tim bằng cách sử dụng
máy quét PET.


Hình 11: Máy quét PET

PET là một kỹ thuật hình ảnh y tế hạt nhân. Chất đánh dấu hạt nhân phóng
xạ phát positron (thường được tiêm tĩnh mạch hoặc qua đường hô hấp) gián tiếp
phát ra tia gamma mà sau đó được phát hiện theo cặp để tạo ra hình ảnh 3D.
Động năng của positron và độ phân giải không gian của mỗi máy dị giới hạn độ
phân giải khơng gian của hình ảnh PET ở người là 1–2 mm. Bởi vì chất đánh dấu
được gắn vào một phân tử hoạt động sinh học, hình ảnh PET đại diện cho một
quá trình sinh học (thường là trao đổi chất) trong cơ thể. Để tạo ra hình ảnh giải
phẫu, PET phải được sử dụng kết hợp với MRI hoặc CT vì chất đánh dấu là phân
tử tín hiệu. Hầu hết các máy quét hiện đại thu được hình ảnh CT và PET trong
cùng một phiên PET để chụp ảnh chức năng (chuyển hóa) và CT để chụp ảnh
giải phẫu và hình thái học. Dữ liệu PET sau đó được phủ lên dữ liệu CT để xác
định ý nghĩa chức năng thông qua tốc độ trao đổi chất ở vị trí quan tâm.
Trong khi 18 F-fluorodeoxyglucose là chất phóng xạ phổ biến nhất trong các xét
nghiệm PET, nhiều loại chất đánh dấu đã được phát triển để phát hiện các mảng
xơ vữa động mạch không ổn định và để đo sự tưới máu và chuyển hóa cơ tim.
Mặc dù hiện tại khơng được bán trên thị trường, nhưng việc phát triển máy quét
PET-MRI là một lĩnh vực nghiên cứu tích cực và đầy hứa hẹn
Chụp tim PET có thể đánh giá chính xác cả lưu lượng máu và sự trao đổi
chất. Ở những bệnh nhân bị tắc nghẽn, chụp PET tim có thể ảnh hưởng đến sự
lựa chọn giữa phẫu thuật bắc cầu và nong mạch . Quan trọng hơn, nó có thể được
sử dụng để dự đoán liệu chức năng tim bị suy nhược có thể cải thiện sau khi tái
thơng mạch hay khơng.
Đối tượng chỉ định chụp PET tim:

• Bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp , cholesterol cao ,
hút thuốc lá, đái tháo đường , béo phì , nghề nghiệp căng thẳng cao, tiền
sử gia đình bị nhồi máu cơ tim.
• Bệnh nhân khơng thể tập thể dục.
• Bệnh nhân nghi bị đau tim.
• Bệnh nhân mới được chẩn đoán suy tim.


• Bệnh nhân có điện tâm đồ bất thường hoặc máy chạy bộ.
Thông thường, chụp PET được kết hợp với chụp CT hoặc MRI để phát
huy tối đa các lợi thế về kỹ thuật.
5

Chụp hoặc quét tưới máu cơ tim(còn được gọi là MPI hoặc MPS).

Chụp hoặc quét tưới máu cơ tim là một quy trình y học hạt nhân minh họa
chức năng của cơ tim .
Nó đánh giá nhiều tình trạng bệnh tim, chẳng hạn như bệnh động mạch vành
(CAD), bệnh cơ tim phì đại và các bất thường về chuyển động của thành tim. Nó
cũng có thể phát hiện các vùng nhồi máu cơ tim bằng cách hiển thị các vùng
giảm tưới máu khi nghỉ ngơi. Chức năng của cơ tim cũng được đánh giá bằng
cách tính phân suất tống máu thất trái (LVEF) của tim. Quá trình quét này được
thực hiện cùng với một bài kiểm tra sức căng của tim . Thơng tin chẩn đốn được
tạo ra bằng cách kích thích thiếu máu cục bộ vùng có kiểm sốt ở tim với tưới
máu thay đổi .
Kỹ thuật phẳng, chẳng hạn như xạ hình thơng thường , hiếm khi được sử
dụng. Thay vào đó, chụp cắt lớp vi tính phát xạ đơn photon (SPECT) phổ biến
hơn. Với các hệ thống SPECT đa đầu, hình ảnh thường có thể được hồn thành
trong vịng chưa đầy 10 phút. Với SPECT, có thể xác định được các bất thường
phía dưới và phía sau và các vùng nhỏ của nhồi máu, cũng như các mạch máu bị

tắc và khối cơ tim bị nhồi máu và có thể sống được. Các đồng vị thông thường
cho các nghiên cứu như vậy là Thallium-201 hoặc Technetium-99m .

Hình 12: Quét tưới máu cơ tim

Chụp cắt lớp vi tính phát xạ đơn photon ( SPECT, hoặc ít phổ biến hơn
là SPET) là một kỹ thuật chụp ảnh chụp cắt lớp vi tính y học hạt nhân sử dụng tia
gamma. Nó rất giống với hình ảnh phẳng trong y học hạt nhân thông thường sử
dụng máy ảnh gamma (tức là xạ hình),nhưng có thể cung cấp thơng tin 3D thực
sự. Thơng tin này thường được trình bày dưới dạng các lát cắt ngang qua bệnh
nhân, nhưng có thể được định dạng lại hoặc thao tác một cách tự do theo yêu cầu.


Hình 13: Máy SPECT thực hiện quét tổng thể xương cơ thể. Bệnh nhân nằm trên bàn
trượt qua máy, trong khi một cặp camera gamma quay xung quanh.

Kỹ thuật này cần cung cấp một đồng vị phóng xạ phát gamma (một hạt
nhân phóng xạ ) vào bệnh nhân, thơng thường thơng qua tiêm vào máu. Đơi khi,
đồng vị phóng xạ là một ion hòa tan đơn giản, chẳng hạn như đồng vị của gali
(III). Tuy nhiên, hầu hết thời gian, một đồng vị phóng xạ đánh dấu được gắn vào
một phối tử cụ thể để tạo ra một phối tử phóng xạ , có đặc tính liên kết nó với
một số loại mô nhất định. Sự kết hợp này cho phép sự kết hợp của phối tử và
dược phẩm phóng xạ được vận chuyển và gắn kết với một vị trí quan tâm trong
cơ thể, nơi nồng độ phối tử được máy ảnh gamma nhìn thấy.
6

Chụp não thất bằng hạt nhân phóng xạ.

Chụp não thất bằng hạt nhân phóng xạ (cịn được gọi là qt thu nhận
nhiều sóng hoặc qt MUGA) liên quan đến việc tiêm vào tĩnh mạch một đồng vị

phóng xạ nằm trong khơng gian mạch máu (thường là tecneti liên kết với các tế
bào hồng cầu) với phép đo những thay đổi về cường độ bức xạ được phát hiện
qua tâm thất trong chu kỳ tim. Máy ảnh gamma được sử dụng để thu được các
hình ảnh được thu thập (tức là, được định vị) tại các thời điểm khác nhau trong
chu kỳ tim.

Hình 14: Quét Normail MUGA

Chụp não thất phóng xạ được thực hiện để đánh giá bệnh động mạch vành
(CAD), bệnh van tim , bệnh tim bẩm sinh , bệnh cơ tim và các rối loạn tim khác.


7

Đặt ống thông mạch vành.

Đặt ống thông mạch vành là một thủ thuật xâm lấn tối thiểu để tiếp cận hệ
tuần hoàn mạch vành và các buồng chứa đầy máu của tim bằng cách sử dụng một
ống thơng. Nó được thực hiện cho cả mục đích chẩn đốn và can thiệp (điều trị).

Hình 15: Phịng thí nghiệm thơng tim

Đặt ống thông mạch vành là một trong những thủ thuật và xét nghiệm
chẩn đốn tim mạch. Cụ thể, thơng qua việc tiêm một chất điều khiển vô tuyến
lỏng và chiếu sáng bằng tia X, chụp mạch máu cơ tim cho phép xác định tình
trạng tắc, hẹp, tái hẹp, huyết khối hoặc phình động mạch vành trong lịng mạch
vành; kích thước buồng tim; hiệu suất co cơ tim; và một số khía cạnh của chức
năng van tim. Trái tim quan trọng bên trong và huyết áp phổi, không thể đo được
từ bên ngồi cơ thể nhưng có thể được đo chính xác trong quá trình thử nghiệm.
Các vấn đề liên quan mà xét nghiệm giải quyết thường xảy ra nhất là kết quả của

chứng xơ vữa động mạch tiên tiến - hoạt động của mảng xơ vữa trong thành động
mạch vành. Ít thường xuyên hơn là các vấn đề về van tim, cơ tim hoặc rối loạn
nhịp tim là trọng tâm chính của xét nghiệm.

Hình 16: Hình ảnh chụp mạch vành

2.2

Đo kích thích tim – Điện tâm đồ.


Ngày nay, để do kích thích tim người ta dùng máy điện tim.
8

Giới thiệu về máy điện tim

Máy điện tim là một thiết bị y tế dùng để đo tín hiệu điện tim là những
thay đổi rất nhỏ của dòng điện trong tim. Quả tim co bóp theo nhịp được điều
khiển của một hệ thống dẫn truyền trong cơ tim. Với mỗi nhịp đập của tim, tín
hiệu điện sẽ lan truyền từ đỉnh đến đáy tim. Những dòng điện tuy rất nhỏ, khoảng
1 phần nghìn volt, nhưng có thể dị thấy được từ các cực điện đặt trên tay, chân
và ngực bệnh nhân và chuyển đến máy ghi. Máy ghi điện khuếch đại lên và ghi
lại trên điện tâm đồ.

Hình 17: Máy điện tim

Cơ tim ví như một tế bào, lúc nghỉ: các Ion dương ở ngoài màng tế bào còn
các Ion âm bị giữ ở trong màng để cân bằng lực hút tĩnh điện; một tế bào như
thế gọi là có cực. Khi cơ tim bị kích thích sẽ xuất hiện sự khử cực trong đó các
ion âm khuyếch tán ra ngồi màng, cịn các ion dương khuyếch tán vào trong

màng. Tiếp theo các hiện tượng khử cực, lại đến sự tái cực cho điện dương xuất
hiện trở lại ngoài mặt tế bào, điện âm ở mặt trong như lúc đầu. Hai hiện tượng
khử cực và tái cực đều xuất hiện trong thì tâm thu, cịn trong kỳ tâm trương, cơ
tim ở trong trạng thái có cực như đã nói trên.
Điện tâm đồ được sử dụng trong y học để phát hiện các bệnh về tim như
rối loạn nhịp tim, suy tim, nhồi máu cơ tim v.v
Nhiều loại bệnh tim thay đổi hoạt động điện học của tim theo những cách
khác nhau. Điện tâm đồ có thể giúp phát hiện ra khá nhiều những vấn đề của tim.
Điện tâm đồ giúp bác sĩ chẩn đoán được cơn nhồi máu cơ tim đang xảy ra
hoặc đã xảy ra trong quá khứ. Điều này đặc biệt đúng nếu bác sĩ có thể so sánh
những điện tâm đồ hiện tại với những điện tâm đồ cũ hơn.
Điện tâm đồ cũng có thể cho thấy:
• Giảm máu đến ni cơ tim.
• Tim đập q nhanh, q chậm, hoặc khơng đều (loạn nhịp tim)
• Tim khơng bơm máu đủ mạnh (suy tim)
• Cơ tim quá dày hoặc một phần của tim quá lớn.







Dị tật bẩm sinh ở tim
Những bệnh của van tim
Viêm bao bao bọc xung quanh tim (viêm màng ngoài tim)
Cường độ và độ dài của các tín hiệu điện khi chúng đi qua từng phần của
tim bệnh nhân
Điện tâm đồ cũng có thể xác định xem nhịp đập của tim có điểm bắt đầu từ
phần phía trên bên phải của tim như bình thường hay khơng. Nó cũng có thể xác

định khoảng thời gian tín hiệu điện lan hết tim. Sự chậm trễ trong thời gian di
chuyển của tín hiệu điện có thể là dấu hiệu của block tim hoặc hội chứng QT kéo
dài.
9

Cơ chế hoạt động của điện tâm đồ

ECG bình thường bao gồm một sóng P, một phức bộ QRS và một sóng T.
Phức bộ QRS thường có, nhưng khơng phải ln ln, ba sóng riêng biệt: sóng
Q, sóng R, và sóng S.
Khi xung động tim xuyên qua tim, dòng điện cũng lan truyền từ tim vào
trong các mơ lân cận xung quanh tim.
Một phần nhỏ của dịng điện lan truyền theo tất cả các đường đến bề mặt
của cơ thể. Nếu các điện cực được đặt trên da ở hai phía đối diện của tim, điện
thế tạo ra bởi dịng điện có thể được ghi lại; việc ghi này được biết như là một
điện tâm đồ (ECG). Một ECG bình thường cho hai nhịp đập của tim được thể
hiện trong hình.

Hình 18: Sóng điện tâm đồ

ECG bình thường bao gồm một sóng P, một phức bộ QRS và một sóng T.
Phức bộ QRS thường có, nhưng khơng phải ln ln, ba sóng riêng biệt: sóng
Q, sóng R, và sóng S.


Sóng P được gây ra bởi điện thế phát ra khi tâm nhĩ khử cực trước khi tâm
nhĩ bắt đầu co bóp. Phức bộ QRS được gây ra bởi điện thế phát ra khi tâm thất
khử cực trước khi co bóp, tức là, cũng như sóng khử cực lan truyền qua các tâm
thất. Do đó, cả sóng P và các thành phần của phức bộ QRS là các sóng khử cực.
Sóng T được gây ra bởi điện thế phát ra khi tâm thất phục hồi từ trạng thái

khử cực. Quá trình này thường xảy ra trong cơ tâm thất 0,25 đến 0,35s sau khi
khử cực.
Sóng T được biết như là một sóng tái phân cực.
Như vậy, điện tâm đồ bao gồm cả sóng khử cực và tái phân cực. Việc phân
biệt giữa các sóng khử cực và các sóng tái phân cực là rất quan trọng trong điện
tâm đồ mà làm sáng tỏ hơn nữa là cần thiết.
Hình biểu diễn một sợi cơ tim đơn lẻ trong bốn giai đoạn của sự khử cực
và tái phân cực, với màu đỏ ký hiệu sự khử cực. Trong suốt quá trình khử cực,
điện thế âm bình thường bên trong sợi đảo chiều và trở nên hơi dương bên trong
và âm ở bên ngồi.

Hình 19: Bản ghi sóng khử cực (A và B) và sóng tái phân cực (C và D) từ một sợi cơ
tim.

Trên hình A, quá trình khử cực, thể hiện bởi các điện tích dương màu đỏ
bên trong và điện tích âm màu đỏ ở bên ngồi, được di chuyển từ trái sang phải.
Nửa đầu tiên của sợi đã khử cực, trong khi nửa còn lại vẫn đang phân cực. Do đó,
điện cực bên trái trên mặt ngồi của sợi là trong một vùng của điện âm, và điện


cực bên phải là trong một vùng của điện dương, khiến đồng hồ ghi lại một điện
dương. Ở bên phải của sợi cơ thể hiện một bản ghi của những thay đổi về điện
thế giữa hai điện cực, như đã được ghi bởi một đồng hồ tốc độ cao. Lưu ý rằng
khi sự khử cực đã đạt một nửa đích ở hình A, ghi được sự tăng điện dương đến
mức tối đa.
Trên hình B, sự khử cực đã kéo dài trên tồn bộ sợi cơ, và bản ghi phía
bên phải đã trở lại với đường đẳng điện vì cả hai điện cực bây giờ đang ở khu
vực có điện âm bằng nhau. Sóng hồn chỉnh là một sóng khử cực vì nó là kết quả
từ sự lan truyền của khử cực dọc theo màng tế bào sợi cơ.
Hình C biểu diễn sự tái phân cực nửa chừng vẫn của sợi cơ trên, với sự trở

lại ra bên ngoài điện dương của sợi. Tại thời điểm này, điện cực bên trái là trong
một vùng của điện dương và điện cực bên phải là trong một vùng của điện âm.
Chiều phân cực này là ngược lại với chiều phân cực trong hình A. Do đó, bản
ghi, như thể hiện bên phải, trở thành âm.
Trên hình D, sợi cơ đã hồn thành tái phân cực, và cả hai điện cực bây giờ
đang ở vùng của điện dương do đó khơng có điện thế nào khác được ghi lại giữa
chúng. Như vậy, trong bản ghi bên phải, điện thế một lần nữa quay trở lại về 0.
Sóng âm hồn chỉnh này là một sóng tái phân cực vì nó là kết quả từ sự lan
truyền của tái phân cực dọc theo màng tế bào sợi cơ.
Mối quan hệ của điện thế hoạt động một pha của cơ tâm thất với sóng T và
phức bộ QRS trong điện tâm đồ tiêu chuẩn:
Điện thế hoạt động một pha của cơ tâm thất, bình thường tồn tại giữa 0,25
và 0,35s.
Hình biểu diễn một điện thế hoạt động một pha ghi lại từ một vi điện cực
chèn vào bên trong của một sợi cơ tâm thất đơn độc. Sự tăng lên của điện thế
hoạt động gây ra bởi sự khử cực, và sự trở lại của điện thế về đường cơ sở là do
sự tái phân cực.

Hình 20: Điện thế hoạt động một pha ghi lại từ một vi điện cực chèn vào bên trong của
một sợi cơ tâm thất đơn độc


Hình trên, điện thế hoạt động một pha từ sợi cơ tâm thất khi chức năng
tim bình thường cho thấy khử cực nhanh và sau đó tái cực xảy ra chậm trong giai
đoạn cao nguyên nhưng nhanh chóng về cuối. Dưới, điện tâm đồ ghi đồng thời.
Nửa dưới của hình biểu diễn một ghi chép đồng thời của ECG từ cùng tâm
thất này. Lưu ý rằng các sóng QRS xuất hiện vào lúc bắt đầu của điện thế hoạt
động một pha và sóng T xuất hiện ở cuối. Lưu ý đặc biệt là khơng có điện thế
được ghi lại trong ECG khi cơ tâm thất hoặc hoàn thành phân cực hoặc hoàn
thành khử cực.

Chỉ khi nào cơ một phần được phân cực và một phần khử cực thì có dịng
điện đi từ một phần của tâm thất đến một phần khác, và do đó cũng có dịng điện
đi tới bề mặt của cơ thể để tạo ra ECG.
CHƯƠNG 3. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO VÀ CHỤP CHIẾU PHỔI
3.1

Kĩ thuật hình ảnh

10 Kỹ thuật sử dụng tia X
Chụp X-quang phổi là phương pháp sử dụng máy chụp X- quang để quan
sát và tái tạo hình ảnh cấu trúc bên trong của phổi, nhờ đó giúp phát hiện những
tổn thương và các bệnh lý ở phổi. Máy chụp X quang sẽ phát ra tia bức xạ tia X
có bước sóng ngắn đi xuyên qua các tế bào mô mềm và dịch bên trong cơ thể để
ghi lại hình ảnh của phổi trên phim chụp.
X quang phổi bao gồm nhiều kỹ thuật như chiếu, chụp X - quang phổi
thẳng, chụp X - quang phổi nghiêng, chụp cắt lớp vi tính, chụp phế quản có bơm
cản quang, chụp điện áp cao ....
Chụp X - quang phổi thẳng là phương pháp chụp bệnh nhân ở tư thế đứng và
chiều chụp là từ sau ra trước. Trường hợp người bệnh khơng thể đứng được thì
nên chụp ở tư thế nửa nằm nửa ngồi (hay còn gọi là tư thế Fowler) và không nên
chụp bệnh nhân ở tư thế nằm vì hạn chế trong chẩn đốn một số tổn thương ở
phổi như tràn dịch hoặc tràn khí màng phổi.

Hình 21: Hình ảnh chụp X-Quang phổi thẳng


Chụp X-quang phổi thẳng cho phép đánh giá tổn thương nhu mô phổi. Chụp phổi
thẳng cần đảm bảo đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật sau:
• Chụp lấy hết cả hai trường phổi.
• Chụp hai xương bả vai tách với trường phổi hai bên.

• Hình ảnh cho thấy được 5 đốt sống từ D1-D5 và khoang liên sườn 6 trên
vịm hồnh.
Để thu được hình ảnh rõ nét cần hướng dẫn bệnh nhân hít thật sâu và nín thở khi
chụp phế trường.
Chụp X-quang phổi nghiêng là phương pháp chụp bệnh nhân ở tư thế đứng và
chiều chụp là từ trái sang phải hoặc ngược lại, tùy vào tổn thương nghi ngờ nằm
ở bên nào.

Hình 22: Chụp X- quang phổi nghiêng

Chụp X-quang phổi nghiêng cũng cho phép phân tích nhu mơ phổi và
giúp làm rõ các trường hợp tổn thương nghi ở dạng khối mà chụp X-quang phổi
thẳng không xác định được. Mục đích của chụp X-quang phổi nghiêng là phân
vùng khu trung thất và xác định khu tổn thương ở thuỳ hoặc phân thuỳ phổi.
Chụp X-quang phổi nghiêng cần đảm bảo đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật sau:
• Chụp rõ hai vịm hồnh, nếu chụp nghiêng phải thì hai vịm hồnh phải
song song, nếu chụp nghiêng trái thì hai vịm hồnh cắt nhau ở 1⁄3 sau.
• Chụp cung sườn bên đối diện cách CSL 1,5cm.
• Chụp thấy rõ khoảng trước và sau tim.
Chụp cắt lớp vi tính (CT)
Chụp CT nhận định cấu trúc, bất thường bên trong ngực tốt hơn x quang
rất nhiều. Chụp CT truyền thống cung cấp những hình ảnh ngực cắt ngang với lát
cắt dày 10 mm. Ưu điểm chính của nó là tính khả dụng rộng rãi. Nhược điểm là
tạo tác chuyển động và hạn chế về chi tiết do tính trung bình thể tích của mơ
trong mỗi lát cắt 10 mm.
CT ngực thường được thực hiện ở thì hít vào tối đa. Thơng khí phổi trong q
trình chụp hình giúp cung cấp hình ảnh tốt nhất về nhu mơ phổi, đường dẫn khí,
hệ thống mạch máu, và những bất thường như khối u, rị rỉ khí - dich, sự xơ hóa.



×