Tải bản đầy đủ (.docx) (176 trang)

Thi hành án treo, án cải tạo không giam giữ (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 176 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận vãn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận vãn đảm bảo tỉnh chính xác, tin cậy và
trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chỉnh theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Văn Lũy

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt


Danh mục biểu đồ, sơ đồ
1.1.1.
1.1.2.Sửa đôi, bô sung một sô nội dung quy định của Luật Thi hành án hình


DANH MUC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
TAND
THAHS
UBND


VKSND

: Bơ lt hình sư



: Bộ luật tố tụng hình sự
: Tịa án nhân dân
: Thi hành án hình sư

: ủy ban nhân dân
: Viên kiểm sát nhân dân



DANH MỤC BIẾU ĐỊ, so ĐỒ

SỐ hiêu


-7

ỉ•A

A

-a-A

Tên biêu đơ


Trang

Biểu đồ 2.1

Tình hình tội phạm trên địa bàn TP. Hà Nội (2016-2020)

50

Biểu đồ 2.2

Số lượng người chấp hành án treo, CTKGG (2016-2020)

51

SỐ hiêu

Sơ đồ 1.1

Tên sơ đồ
Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ

Trang
38


MỒ ĐÀU
1.

Tính câp thiêt của đê tài


THAHS là một trong những hoạt động quan trọng nhằm đưa các bản án hình sự có
hiệu lực pháp luật và các quyết định THAHS ra thi hành trong thực tế. Việc đảm bảo
hoạt động THAHS trong thực tiễn góp phần giữ vững kỉ cương, trật tự an tồn xã hội,
từ đó đảm bảo an ninh quốc gia góp phần bảo vệ cơng lý, quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân phục vụ yêu cầu xây dựng và
1 9 _ _ _ ô rT^ ô ô

bảo vệ Tô quôc.
Hoạt động THAHS là khâu cuối cùng trong các hoạt động tố tụng hình sự. Nó có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng trong thực tiễn đấu tranh phịng, chống tội phạm thơng qua
việc đảm bảo hiệu quả của quyền tư pháp bằng việc hiện thực hóa cơng lý từ những
bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Việc thi hành án kịp thời, nghiêm
minh đối với những đối tượng phạm tội là một trong những biện pháp thực thi cơng lý,
khơi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của con người, công dân, các quyền của Nhà
nước, cá nhân, tổ chức bị xâm hại.
Càng ngày, nhà nước ta càng chú trọng đến công tác THAHS thể hiện ở việc ngày
càng có nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động liên quan đến
công tác này. Bên cạnh đó, Luật THAHS cũng ngày được chú trọng và đổi mới sao
6


cho phù họp với thực tiễn thi hành án tại Việt Nam. Tuy nhiên trong q trình thi hành
ln phát sinh những tình tiết mà các nhà làm luật khơng thể dự liệu hết được. Nhất là
những quy định liên quan đến thi hành án treo, cải tạo không giam giữ hiện vẫn còn
nhiều bất cập, chưa đồng bộ, một số nội dung chưa có các quy định cụ thể để điều
chỉnh nên cịn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong cơng tác THAHS. Bên cạnh đó,
thực tiễn vẫn cho thấy các cơ quan có thẩm quyền trong THAHS vẫn chưa thực sự
quan tâm, am hiểu về pháp luật về THAHS. Bên cạnh đó cơng tác phối hợp giữa các
cơ quan còn chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả và chưa phát huy đầy đủ vai trị, trách

nhiệm của mình trong quản lý, kiểm tra, giám sát nhất là vai trị trách nhiệm của
TAND, UBND các cấp ... Từ đó việc giám sát, giáo dục những người thi hành án chưa
thật sự hiệu quả, chưa đảm bảo được tính nghiêm minh của cơng tác THAHS cũng như
của pháp luật. Ngồi ra cũng có phần trách nhiệm của những cán bộ, công chức, viên
chức trong thực thi nhiệm vụ THAHS tại địa phương họ chưa nắm hết trách nhiệm của
mình trong việc quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo không
giam giữ ... Tất cả những hạn chế đó đã làm giảm đi hiệu quả của công tác thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Với sự phát triển của xã hội cũng như việc phát triển của pháp luật hình sự tại
Việt Nam hiện nay có thể thấy rõ xu hướng cải cách pháp luật hình sự theo BLHS
2015, BLTTHS 2015, Hiếp pháp 2013, Luật THAHS 2019 và thực hiện cải cách theo
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
7


tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 92-

KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị với nội dung như sau:
Coi trọng việc hồn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình
phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo khơng giam giữ đối với một
số loại tội phạm ... Xác định rõ trách nhiệm của ƯBND xã, phường, thị trấn và của cơ
quan chuyên môn của ƯBND tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt khơng
phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án hình sự của Tịa án. Từng bước
thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao tổ chức không
phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án ...
Việc tăng cường áp dụng các hình phạt khơng tước tự do, nhất là thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ thể hiện rõ nét nhất chính sách nhân đạo của luật hình sự

và đường hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam theo tư tưởng của các Nghị
quyết trên. Từ đó tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hồn lương mà khơng
phải cách ly khởi xã hội. Đồng thời giúp giảm bớt chi phí trong việc giam giữ người
phạm tội của nhà nước, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng, góp phần
hiệu quả trong việc phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ...
Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định pháp luật trong thực tiễn nhằm nâng cao
8


hiệu quả trong công tác thi hành án treo, cải tạo khơng giam giữ có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng. Từ những cơ sở trên người viết nhận thấy cần thiết nghiên cứu để tài “Thi
hành án treo, án cải tạo không giam giữ (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội”.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm qua, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về thi hành

án treo, thi hành án cải tạo không giam giữ đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu lý luận, các nhà nghiên cứu pháp luật cũng như cán bộ thực tiễn ở
nhiều mức độ khác nhau và ở những phương diện khác nhau.
Trước hết, hoạt động THAHS được phân tích trong một số giáo trình, luật và
sách tham khảo như: Luật THAHS 2019} Tài liệu tập huấn tạm giữ tạm giam, THAHS
2019; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung) của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội do Giáo sư Tiến sĩ khoa học Lê Văn Cảm là chủ biên; Giáo trĩnh Luật tố
tụng hĩnh sự Việt Nam của Đại học Quốc gia do Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí
và Tiến sĩ Lê Lan Chi là chủ biên; Giáo trình kiếm sát việc tạm giữ tạm giam và
THAHS Nxb Chính trị quốc gia do Tiến sĩ Mai Đắc Biên là chủ biên ...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một
số cơng trình nghiên cứu cơ bản về hệ thống hình phạt và THAHS nói chung cịn riêng

đối với thi hành án treo, cải tạo không giam giữ chưa được quan tâm nghiên cứu đúng
mức. Mặt khác, từ trước đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu nào đề cập tình hình
9


thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Do vậy, việc
nghiên cứu đề tài này khơng trùng với bất kì cơng trình nào đã được nghiên cứu trước
đây.
Căn cứ vào tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa khẳng định việc
nghiên cứu đề tài “Thi hành án treo, án cải tạo không giam giữ (trên cơ sở thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội” là cần thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3.

Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn

3.1.

Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực

tiễn thi hành án treo, cải tạo khơng giam giữ, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, cũng như đề xuất những giải pháp nâng
cao hiệu quả của này trong thực tiễn.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ

chính sau:
-Làm rõ một số nội dung cơ bản về lý luận khoa học và quy định của pháp luật

THAHS đối với thi hành án treo, cải tạo không giam giữ như: khái niệm, đặc điểm,
chủ thể, khách thể, nội dung, nguyên tắc, phương pháp, hình thức thi hành án treo,
cải tạo không giam giữ ...
-Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, trên cơ sở
10


so sánh, đối chiếu với tình hình thực tiễn thi hành án trên địa bàn thành phố Hà Nội.
-Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn trong
việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2016 đến năm 2020.
-Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ.
3.3.

Phạm vi nghiên cún
Luận văn nghiên cứu, giải quyết những vấn đề xung quanh lý luận và thực tiễn

thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế để đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành trong thực tiễn.
về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn công tác thi hành án treo, án cải tạo
không giam giữ trong 05 năm (2016-2020)
4.

Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cửu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách nhân đạo đối với
người phạm tội, về vấn đề cải cách tư pháp, về cơng tác đấu tranh phịng chống

tội phạm và việc áp dụng án treo, cải tạo không giam giữ trong giai đoạn
THAHS.
11


Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể
và đặc thù của khoa học Luật THAHS và các phương pháp cụ thể khác như: Phương
pháp phân tích và tống hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch,
phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
Ngồi ra, việc nghiên cứu đề tài cịn dựa vào số liệu trong các báo cáo của
VKSND thành phố Hà Nội và thông qua các cuộc kiểm sát cơ quan THAHS - Công an
thành phố Hà Nội; kiểm sát ƯBND các xã, phường, thị trấn; kiểm sát quyết định thi
hành án của Tịa án ... Từ đó phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý luận và thực
tiễn xung quanh hoạt động thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
5.

Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần phát triển lý luận và nhận thức đúng

đắn, thống nhất áp dụng chính xác cơng tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
trong thực tiễn. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
-Hệ thống hóa các quy định của pháp luật làm rõ mục đích, cơ sở các quy định về thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ trong THAHS.
-Nghiên cứu, chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật về thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ trong THAHS thông qua thực tiễn áp dụng các quy định
này trong việc quán lý người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn
12



thành phố Hà Nội, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trong THAHS.
-Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các nhà
lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh,
học viên cao học, sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào
tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị thêm những
kiến thức cho các cán bộ thực tiễn đang cơng tác trong các cơ quan THAHS, Viện
kiểm sát, Tịa án và các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý, tổ chức THAHS
đảm bảo khách quan đúng pháp luật.
6.

Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương
Chương 7: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về thi hành án treo, án cải tạo không giam giữ.
Chương 2\ Thực trạng thi hành án treo, án cải tạo không giam giữ trên địa bàn
thành phố Hà Nội và một số khó khăn, vướng mắc.
Chương 3: Giải pháp thực thi pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo, án cải tạo khơng giam giữ.

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
13


VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THI HÀNH ÁN TREO, ÁN CẢI TẠO
KHÔNG GIAM GIỮ

1.1.

Khái niệm, đặc điếm và mối quan hệ của thi hành án treo, án cải tạo

không giam giữ
1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo
Theo cuốn từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thì: “An

treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện ”.
Theo BLHS 2015 thì án treo được quy định như sau:
1.

Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm

tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy khơng cần phải bắt chấp hành hình phạt tù,
thì Tịa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm
và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật THAHS.
2.

Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ

quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư
trú để giám sát, giáo dục. Gia đinh người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ
quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3.

Tịa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình


phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
4.

Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử
14


thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám
sát, giáo dục, Tịa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
5.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm

nghĩa vụ theo quy định của Luật THAHS 02 lần trở lên, thì Tịa án có thê quyêt định
buộc người đó phải châp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường
hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tịa án buộc người đó phải chấp hành hình
phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại
Điều 56 cùa Bộ luật này [36, Điều 65].
So với án treo quy định tại Điều 60 BLHS 1999 (bổ sung 2009) thì án treo theo
quy định tại Điều 65 ở BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) đã có điểm mới hon đó là
việc quy định chế tài đối với những trường hợp người chấp hành án vi phạm nghĩa vụ
theo Luật THAHS. Theo đó người chấp hành án treo mà vi phạm nghĩa vụ trong luật
THAHS từ 02 lần trở lên sẽ bị Tịa án xem xét quyết định áp dụng hình phạt tù của bản
án đã cho hưởng án treo. Việc quy định như vậy hoàn toàn họp lý và đảm bảo tính răn
đe đối với những người chấp hành án khơng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình trong
q trình chấp hành án. Đây cũng là một điểm mới được xem là tiến bộ hơn so với
Luật cũ đem lại sự thuận lợi cho những cán bộ thực hiện





••





V—'







cơng tác THAHS trong việc quản lý, giám sát, giáo dục đối với những đối tượng chấp
hành án bướng bỉnh không thực hiện nghĩa vụ trong quá trình thi hành án.
Theo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm
15


phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo: “An treo là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tịa án áp dụng đối với
người phạm tội không quả 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các
tình tiết giảm nhẹ, xét thấy khơng cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù ” [31, Điều
1 ].
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu án treo là “biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện, được ấp dụng cho người bị kết án phạt tù không quá ba
năm, không buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khỉ có đầy đủ những căn cứ và điều
kiện nhất định do phấp luật hình sự quy định nhằm khuyến khích họ cải tạo để trở

thành cơng dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng cảnh cáo họ nếu phạm tội mới hoặc
vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách thì họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù
nhưng được hưởng án treo của bản án trước đó ”.
Trên cơ sở đó, tác giả rút ra nhận xét vê đặc điêm hình phạt tù nhưng cho
hưởng án treo:
Thứ nhất, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Án
treo khơng phải là một loại hình phạt, đây là điểm cần lưu ý để phân biệt với các loại
hình phạt được quy định trong Điều 32 BLHS 2015;
Thứ hai, người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách bằng
hai lần mức hình phạt tù, nhưng khơng được dưới 01 năm và không quá 05 năm. Trong
thời gian thử thách, người chấp hành án phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan,
tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo dục nêu trong bản án hình sự và
16


quyết định THAHS.
Thứ ba, trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới hoặc vi phạm
nghĩa vụ được quy định trong Luật THAHS thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
bị xóa bở. Người được hưởng án treo buộc phải chấp hành tồn bộ hình phạt tù trong
bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của bản
án về tội phạm mới thực hiện hoặc buộc phải chấp hành tồn bộ hình phạt tù của bản
án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng án treo do vi phạm nghĩa vụ theo quy định của
Luật THAHS.
Theo nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ về thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo:
Việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người
được hưởng án treo làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hồn lương
của mình ngay trong mơi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo
dục của cơ quan, tồ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc
ƯBND xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo làm việc, công

tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người đó. Người được hưởng án
treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức
giám sát, giáo dục và gia đinh của người đó [26].
Theo luật THAHS 2010 và 2019:
Thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của
Luật này giám sát, giáo dục người bị phạt tù cho hưởng án treo trong thời
17


gian thử thách [43]; [44].
Từ những quy định trên tác giả nhận thây, khái niệm thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo và thi hành án treo là một, cách giải thích đặt vấn đề trong Luật THAHS
có cơ đọng, ngắn gọn hơn nhưng về bản chất không thay đổi so với quy định tại Nghị
định số 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ.
Bên cạnh những đặc điểm chung của THAHS, thi hành án treo có một số đặc
điểm cơ bản:
Thứ nhất, thi hành án treo là một bộ phận của công tác THAHS, nó là hoạt
động hành chính - tư pháp của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa các bản án hình sự, quyết định THAHS
của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và
cơng dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, thi hành án treo là một trong những hoạt động thi hành án khơng giam
giữ, có tính nhân đạo sâu sắc, xuất phát từ bản chất của chế định án treo trong pháp
luật hình sự Việt Nam, kết hợp giữa trừng trị và giáo dục; người chấp hành án treo
khơng bị cách ly hồn tồn khỏi đời sống xã hội, vẫn có quyền tự do thân thể, họ chỉ bị
hạn chế một số quyền nhất định do pháp luật quy định. Ngồi ra, họ cịn nhận được sự
quan tâm tạo điều kiện tối đa để làm ăn, sinh sống và chứng tở sự hối cải, hồn lương
của mình ngay trong mơi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của
gia đình, UBND cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội nơi người được
18



hưởng án treo cơng tác, cư trú. Tính nhân đạo trong thi hành án treo còn thể hiện ở
phương pháp thi hành án là lấy giáo dục, thuyết phục cảm hóa, động viên, khuyến
khích là chính, hạn chế việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hoặc mệnh lệnh hành
chính, giúp người bị kết án nhận ra lỗi lầm, tự nguyện sửa chữa, cải tạo thành người có
ích cho xã hội và được thể hiện rất rõ tại Điều 65 Luật THAHS
• • • • • • 2010 và Điều 88 Luật THAHS 2019.
Thứ ba, thi hành án treo có ý nghĩa xã hội to lớn, thể hiện chính sách nhân đạo

của Đảng, Nhà nước, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tại Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đề ra: “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tu pháp,

đề cao hiệu quả phòng ngừa và tỉnh hướng thiện trong việc xử lỷ người phạm tội” [7].
Tại bộ các quy tăc chuân, tôi thiêu của Liên hợp quôc vê các biện pháp khơng giam
giữ, cịn gọi là các quy tắc Tokyo năm 1990, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua bằng Nghị quyết số 45/110 ngày 14/12/1990 khẳng định:
Các quốc gia thành viên phải xây dựng những biện pháp không giam giữ
trong hệ thống pháp luật của nước mình nhằm đưa ra các cách lựa chọn
khác, từ đó giảm sử dụng biện pháp cầm tù và nhằm tạo co sở hợp lý cho
những chính sách tư pháp hình sự, thơng qua việc giám sát các quyền con
người, các yêu cầu công bằng xã hội cũng như nhu cầu phục hồi của người
phạm tội [28].
19


Thứ tư, khác với các hình phạt tù, việc thi hành án treo không giao cho một cơ
quan chuyên trách thực hiện mà nó liên quan đến rất nhiều các cơ quan như TAND,
VKSND, cơ quan THAHS, ƯBND ... Điều này làm nổi bật chính sách xã hội hóa cơng
tác THAHS của Đảng và Nhà nước ra trong những năm gần đây. Trong đó, UBND cấp

xã hoặc đơn vị quân đội giữ vai trò quan trọng, là cơ quan trực tiếp được giao nhiệm
vụ giám sát, giáo dục người chấp hành án. Sự phối họp đồng bộ giữa các cơ quan, đơn
vị, tố chức xã hội, Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở và gia đình người bị kết án là điều cần
thiết để nâng cao hiệu quả của việc thi hành án treo.
Thứ năm, quá trình thi hành án treo diễn ra trong thời gian thử thách nhất định.
Tòa án ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù nhưng khơng được
dưới 1 năm và khơng q 5 năm, thời điểm tính thời gian thử thách bắt đầu ngay từ sau
khi Tòa án tuyên bản án hình sự cho hưởng án treo. Trong thời gian thử thách, nếu
người được hưởng án treo lại phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ theo Luật THAHS
thì biện pháp tha miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ. Người được hưởng án treo
buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án đã cho hưởng án treo trước đó cộng với
hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện hoặc buộc phải thực hiện hình phạt tù
của bản án đã tuyên cho hưởng án treo do vi phạm nghĩa vụ theo Luật THAHS.
Thứ sáu, so với thi hành hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân, rõ ràng quá
trình thi hành án treo đã góp phần làm giảm bớt chi phí cho xã hội và đạt được hiệu
quả cao hơn. Đôi với thi hành hình phạt tù thi người châp hành án sẽ bị mât các khoản
20


thu nhập từ các công việc mà họ đang làm trước khi phạm tội và mất đi nguồn thu
nhập cũng như cơ hội phát triển trong thời gian bị cách ly khởi xã hội. Ngồi ra, kinh
phí hàng năm của Nhà nước cho công tác tổ chức thi hành án phạt tù cũng là tương đối
lớn, bao gồm các nguồn đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ làm công
tác quản lý, bảo vệ, y tế, thực hiện chế độ chính sách, đảm bảo điều kiện ăn, mặc, sinh
hoạt, y tế, giáo dục cho phạm nhân... Có thể dễ dàng nhận thấy đây là một phần gánh
nặng cho đất nước, trong điều kiện chúng ta vẫn cịn nhiều khó khăn. Cịn thi hành án
treo, Nhà nước chỉ mất một phần kinh phí nhỏ phát sinh liên quan đến việc quản lý,
giáo dục người chấp hành án ở địa phương; một phần hỗ trợ đào tạo, học nghề, hướng
nghiệp, khắc phục khó khăn ... Do đó sẽ tiết kiệm được rất nhiều so với thi hành án
phạt tù. Mặt khác, người chấp hành án treo có nhiều điều kiện thuận lợi để tìm kiếm

việc làm và gia tăng thu nhập, đặc biệt có ý nghĩa đối với những bị án có hồn cảnh
khó khăn, lao động chính duy nhất trong gia đình ...
Thứ bảy, cần hết sức quan tâm đến cơng tác tái hịa nhập cộng đồng đối với
người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ. Bởi lẽ, ý nghĩa của việc thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ là tạo điều kiện tối đa cho người bị kết án. Đe họ có điều
kiện thuận lợi nhất sớm tái hòa nhập cộng đồng ngay từ sau khi tuyên án, chứ không
chỉ là nằm trong giai đoạn sau khi chấp hành xong bản án, như thi hành án phạt tù. Do
đó, việc thi hành án treo địi hỏi sự gắn bó hết sức chặt chẽ giữa công tác giám sát,
quản lý, giáo dục với tạo điều kiện cho người bị kết án được tái hòa nhập cộng đồng.
21


Đây là hai vấn đề có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tái hòa nhập cộng đồng tốt sẽ tạo
điều kiện, làm giảm áp lực, khó khăn cho việc quản lý, giáo dục người chấp hành án
treo, phòng ngừa họ tái phạm tội. Đồng thời quản lý, giám sát, giáo dục tốt sẽ tạo điều
kiện cho việc tái hòa nhập cộng đồng của những người thi hành án treo được thuận lợi
hơn. Người chấp hành án treo có thể nhanh chóng tái hịa nhập xã hội trong điều kiện
cuộc sống bình thường ngay sau khi bị kết án, có được điều kiện tốt nhất để cải tạo trở
thành người lương thiện, có ích cho xã hội. Có như vậy thì bản án hình sự, qut định
THAHS của Tịa án và công sức THAHS mới thực sự đạt được hiệu quả cuối cùng.
Từ kết quả phân tích những đặc điểm trên, tác giả rút ra khái niệm của thi hành
án treo là một bộ phận của THAHS; có tính nhân đạo sâu sắc; do các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật
quy định; kết hợp giữa trừng trị - giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện để người chấp
hành án treo tự học tập, lao động và cải tạo để trở thành người lương thiện, nhanh
chóng tái hóa nhập cộng đồng; nhằm đưa các bản án hình sự, quyết định THAHS của
Tòa án ra thực hiện trên thực tế và đạt được hiệu quả cao; bảo đảm được lợi ích của
Nhà nước, tổ chức và cơng dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.


Khái niệm, đặc điểm thi hành án cải tạo không giam giữ
Theo Từ điển Luật học: ‘‘cải tạo không giam giữ là việc buộc người phạm tội

phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tô chức xã hội nơi họ làm
việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định ”. Từ sau năm
22


1945, cải tạo không giam giữ được đề cập đầu tiên trong Luật nghĩa vụ quân sự được
Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981. Lần đầu được coi là hình phạt ở BLHS năm
1985, tiếp đó được cải thiện bổ sung ở BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) và nay là
BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017). Hiện nay hình phạt cải tạo không giam giữ được
quy định tại Điều 36 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) nội dung như sau:
(1)

Đối tượng được áp dụng: đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc

phạm tội nghiêm trọng có nơi làm việc ốn định hoặc có nơi cư trú rồ ràng (tương tự
cũng được quy định ở BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009);
(2)

Thời gian cải tạo không giam giữ được quy định: từ sáu tháng đến ba năm

(tương tự cũng được quy định ở BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009);
(3)

Quy định về cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và sự phối hợp của gia

đình trong việc giám sát giáo dục người chấp hành án (tương tự cũng được quy định
ở BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009);

(4)

Quy định về việc khấu trừ phần trăm thu nhập (tương tự cũng được quy

định ở BLHS 1999, sửa đôi bô sung 2009). Tuy nhiên ở BLHS 2015 (sửa đôi bô
sung 2017) quy định cụ thể hơn về việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng
tháng. Ngoài ra người chấp hành án bị mất việc hoặc khơng có việc làm phải thực
hiện những cơng việc lao động cơng ích phục vụ cộng đồng.
Từ những quy định của pháp luật có thể thấy: Cải tạo khơng giam giữ là loại
hình phạt không tước tự do, không buộc người phạm tội phải cách ly khỏi gia đình, nơi
23


làm việc cũng như xã hội nói chung. Nội dung chính của hình phạt này là việc buộc
một người bị kết án phải chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ chức. Người bị
kết án phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm định kỳ và có thể phải nộp 5%
đến 20% thu nhập hàng tháng để sung quỹ nhà nước hoặc phải lao động cơng ích phục
vụ cộng đồng. Thời hạn cải tạo khơng giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm. Hình phạt này
được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm
việc hoặc nơi thường trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho thấy họ có thể tự cải
tạo, giáo dục mà khơng cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội. Thi hành hình phạt cải tạo
khơng giam giữ và thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo có đặc điểm chung là
không phải cách ly người chấp hành án ra khỏi xã hội. Tuy nhiên cần khắng định cải
tạo không giam giữ và án treo là hai loại chấp hành án hồn tồn khác nhau. Cải tạo
khơng giam giữ là hình phạt chính cịn án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện. Trên cơ sở nội dung đã phân tích, tác giả rút ra nhận xét về đặc điểm
của hình phạt cải tạo khơng giam giữ như sau:
Thứ nhất, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính mà Tịa án có thể lựa chọn
và áp dụng đối với các trường hợp phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc
phạt tiền thì chưa đủ để trừng trị, giáo dục, răn đe người phạm tội nhưng xét thấy chưa

đến mức phải sử dụng hình phạt tù. Là hình phạt chính nên khi Tịa án tuyên áp dụng
cải tạo không giam giữ cho người phạm tội có thể đồng thời tun một hoặc nhiều
hình hình phạt bổ sung kèm theo;
24


Thứ hai, bản chất của hình phạt cải tạo khơng giam giữ vẫn là sự hạn chế tự do
thế hiện ở việc người bị kết án dù được cải tạo, giáo dục tại địa phương nhưng bản
thân họ tự hiểu rằng mọi việc làm của họ đều bị theo dõi, giám sát, hồn tồn khồng
được tự do như bình thường.
Thứ ba, cải tạo khơng giam giữ có nội dung, điêu kiện và giới hạn áp dụng cụ
thể riêng so với các hình phạt khác. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ
theo các quy định về cải tạo không giam giữ, bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến
20% để sung quỹ nhà nước hoặc phải lao động cơng ích phục vụ cộng đồng.
Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật về hình phạt cải tạo không giam
giữ, xuất phát từ bản chất của loại hình phạt cải tạo khơng giam giữ, có thể đưa ra khái
niệm cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt; tạo điều kiện
cho người bị phạt tù được cải tạo, học tập trong mơi trường xã hội bình thường,
khuyến khích họ cải tạo thành người có ích; được áp dụng đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng đang có nơi làm việc ổn định hoặc thường
trú rõ ràng và xét thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội.
Có quan điếm cho rằng nên bỏ loại hình phạt cải tạo khơng giam giữ vì cho
rằng điều kiện áp dụng, tố chức thi hành giống với hình phạt tù cho hưởng án treo như:
(1) về điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo khơng giam giữ và hình phạt tù cho hưởng
án treo là: Người phạm tội nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và xét thấy không cần thiết phải cách ly
25



×