MỞ ĐẦU
Có thể nói nhân cách con người chính là kết quả của quá trình tác động bởi
nhiều yếu tố. Dưới góc độ nghiên cứu tâm lý học, các nhà tâm lý cho rằng trong
quá trình hình thành và phát triển nhân cách bị chi phối bởi các yếu tố như: di
truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động và giao tiếp. Mỗi yếu tố này đều mang
ảnh hưởng và đóng vai trị quan trọng trong q trình hình thành và phát triển nhân
cách con người đặc biệt là người phạm tội. Chúng ta thấy rằng hoàn cảnh bên
ngoài tác động vào cá nhân rất khác nhau, cùng với những sự tác động có mục
đích, có tổ chức thì cũng có khơng ít những tác động tự phát, ngẫu nhiên của hồn
cảnh xã hội. Trong những tác động đó thì giáo dục là sự tác động có mục đích, có
tổ chức nên nó là nhân tố chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Để nhận thức rõ
hơn về vai trị của giáo dục nhóm em xin đi sâu và phân tích đề bài số 5: “Yếu tố
giáo dục trong sự hình thành, phát triển nhân cách người phạm tội. Liên hệ thực
tiễn”.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC TRONG HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH NGƯỜI PHẠM TỘI
1. Khái niệm giáo dục
Theo nghĩa hẹp, giáo dục thường được hiểu là q trình tác động có ý thức,
có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ
em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục ngồi nhà trường.
Từ điển Bách khoa tồn thư mở Wikipedia giải thích nghĩa của từ giáo dục
như sau: Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập
theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo
dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thơng
qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta
suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo
dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu
học, giáo dục trung học, và giáo dục đại học.
Về mặt từ nguyên, "education" trong tiếng Anh có gốc La-tinh ēducātiō
("ni dưỡng, ni dạy") gồm ēdūcō ("tôi giáo dục, tôi đào tạo"), liên quan đến từ
đồng âm ēdūcō ("tôi tiến tới, tôi lấy ra; tơi đứng dậy").Trong tiếng Việt, "giáo" có
nghĩa là dạy, "dục" có nghĩa là ni (khơng dùng một mình); "giáo dục" là "dạy dỗ
gây ni đủ cả trí-dục, đức-dục, thể-dục."
Theo nghĩa rộng, giáo dục còn mang ý nghĩa rộng hơn giáo dục bao gồm cả
việc dạy học cùng với hệ thống tác động sư phạm khác, trực tiếp hay gián tiếp,
trong trường và ngồi trường, trong gia đình và ngồi xã hội. Là quá trình tác động
đến thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi nhằm hình thành thái độ, niềm tin,
thói quen cư xử đúng đắn trong gia đình, nhà trường và xã hội. (bao gồm cả dạy
học và cách tác động giáo dục khác đến con người).
2. Khái niệm nhân cách, nhân cách người phạm tội
a. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là một vấn đề trung tâm của tâm lý học. Tâm lý học có nhiệm vụ
tìm hiểu những đặc điểm, bản chất của nhân cách, nghiên cứu những qui luật hình
thành và phát triển nhân cách ở các lứa tuổi khác nhau.
Nhân cách con người là hệ thống những phẩm giá của một người được đánh
giá từ mối quan hệ qua lại của người đó với những người khác, với tập thể, với xã
hội và cả với thế giới tự nhiên xung quanh trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ,
hiện tại và tương lai. Nhân cách là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành
trong tồn bộ thời gian con người tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con
người nó thể hiện những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã
hội sâu sắc. Đây cũng là cách con người sống và thể hiện.
b. Khái niệm nhân cách người phạm tội
Dựa vào khái niệm nhân cách con người đã nêu trên, ta có thể định nghĩa
nhân cách người phạm tội như sau: Nhân cách người phạm tội là tổng hợp các
phẩm chất, các thuộc tính tâm lý cá nhân thể hiện xu hướng chống đối xã hội và
thái độ tiêu cực đối với các lợi ích, các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo
vệ, luôn lựa chọn ý đồ và thực hiện hành vi phạm tội.
Cấu trúc nhân cách của người phạm tội bao gồm:
Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách, nhân cách phát
triển từ đâu, theo chiều hướng nào là xu hướng quyết định. Xu hướng bao gồm yêu
cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan và niềm tin.
Trong nhân cách người phạm tội thiếu sự cân bằng giữa các loại nhu cầu và
hứng thú là một đặc trưng cơ bản. Nhu cầu và hứng thú vật chất cao hơn, chiếm ưu
thế hơn nhu cầu và hứng thú về tinh thần, về xã hội. Nói cách khác, trong nhân
cách của họ nhu cầu cấp thấp phát triển hơn nhu cầu cấp cao và chiếm vị trí chủ
đạo, lấn át nhu cầu tinh thần và xã hội. Đây là điểm đặc trưng tiêu biểu ở sự suy
thoái nhân cách người phạm tội.
Thế giới quan, niềm tin của người phạm tội phát triển lệch lạc, khác với con
người bình thường trong xã hội. Người phạm tội thường có lối sống khơng lành
mạnh, tơn thờ chủ nghĩa vật chất ích kỷ, mang nặng chủ nghĩa cá nhân.
Tính cách: Đó là hệ thống thái độ biểu hiện qua hệ thống hành vi quen
thuộc. Tính cách người phạm tội, nhất là của những đối tượng phạm tội chuyên
nghiệp, tái phạm nguy hiểm thường bao gồm các nét xấu xa, tiêu cực. Thái độ của
người phạm tội đối với xã hội thường là lệch lạc. Họ sốngchà đạp lên đạo đức và
dư luận xã hội, bị chi phối và điều chỉnh bởi các mục đích phản xã hội. Sống
buông thả, tự do, coi thường đạo đức, coi thường pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên
dư luận, bất chấp lẽ phải, kỷ cương.
Năng lực: Hệ thống kĩ năng, kĩ xảo thể hiện tập trung, biểu hiện rõ nhất
năng lực cá nhân - thành tố trong cấu trúc của nhân cách. Trong lĩnhvực kĩ năng, kĩ
xảo, người ta cịn nói đến các yếu tố sở trưởng, sở đoản củacá nhân. Năng lực của
cá nhân phát triển theo chiều hướng để đạt hiệu quảtrong hoạt động phạm tội, cho
nên năng lực của người phạm tội phát triển ởcả những lĩnh vực liên quan tới hoạt
động phạm tội. Đối với hoạt động phạmtội thì kĩ năng, kĩ xảo phạm tội rất phát
triển, vì thế những hành vi phạm tộiđược thực hiện chuẩn xác mau lẹ, kín đáo và
thuần thục.
Khí chất: Đây được xem là yếu tố liên quan chặt chẽ với kiểu thần kinh của
con người. Tính ổn định tương đối của khí chất đãlàm cho nó ít chịu tác động trước
hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên trong quátrình thực hiện phạm tội với những tình
huống “căng thẳng” cản trở việc thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải “điều tiết”
liên tục hệ thần kinh, khí chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực.
Về tình cảm và ý chí: Khác với những người bình thường, đời sốngtình
cảm của người phạm tội thường nghèo nàn, các tình cảm cao cấp nhưtình cảm đạo
đức, tình cảm thẩm mĩ và tình cảm trí tuệ kém phát triển.Trong đó tình cảm đạo
đức bị suy thối nghiêm trọng, mất chức năng độngcơ thúc đẩy các hành vi xã hội
và hoạt động tích cực của con người. Các đối tượng phạm tội ln có ác cảm với
cácc lực lượng chun chính, thù ghétchế độ... Cái thiện bị thay thế dần dần bởi cái
ác. Các phẩm chất ý chí tíchcực ở người phạm tội kém phát triển bị lấn át bởi các
phẩm chất ý chí tiêu cực.
3. Mối quan hệ giữa giáo dục và nhân cách người phạm tội.
Thứ nhất, giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách. Qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm xã
hội – lịch sử đó được kết tinh trong các sản phẩm văn hố vật chất và tinh thần của
nhân loại. Thế hệ trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm đó để biến chúng thành kinh
nghiệm của bản thân, tạo nên nhân cách của mình. Đối với những người phạm tội
thì việc họ tiếp thu giáo dục có thể chưa đúng, khơng có người chỉ dẫn, dạy bảo
nên sai lầm, phạm lỗi, trở thành tội phạm.
Thứ hai, giáo dục có thể đem lại cho con người những cái mà yếu tố bẩm
sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Nhưng nếu con
người mà không nhận được một nền giáo dục tử tế thì rất dễ dẫn tới hành vi phạm
tội.
Thứ ba, giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác
chi phối sự hình thành nhân cách (yếu tố sinh thể, hồn cảnh sống…). Thiếu giáo
dục một cách đúng nghĩa, những mặt mạnh không thể phát huy tác dụng, mà các
mặt yếu của nhân cách con người có thể trỗi dậy, điều khiển con người hoạt động
sai lệch, vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật, trái với xã hội.
Thứ tư, giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm
sinh – di truyền khơng bình thường, hồn cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây nên.
Vì thế, khơng có giáo dục con người sẽ hạn chế về tư duy, về hiểu biết, nhất là hiểu
biết pháp luật, từ đó hình thành nên nhân cách người phạm tội.
Thứ năm, giáo dục có thể đón trước sự phát triển, “hoạch định nhân cách
tương lai” để tác động hình thành và phát triển phù hợp với sự phát triển của xã
hội.
II. GIÁO DỤC TRONG SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
NGƯỜI PHẠM TỘI.
1.
Giáo dục trong sự hình thành nhân cách người phạm tội.
Mỗi con người ngay sau khi sinh ra là một thành viên của xã hội. Tuy nhiên,
con người đó chưa có tri thức, kinh nghiệm, chưa lĩnh hội được ngôn ngữ và các
chuẩn mực xã hội, chưa có những kỹ năng và kỹ xảo cần thiết. Trong quá trình
sống và hoạt động, nhờ tiếp xúc với thế giới xung quanh, nhờ được nuôi nấng, dạy
dỗ, cá nhân dần có tri thức, đầu tiên là về các sự vật, hiện tượng của thế giới xung
quanh và sau đó là chính bản thân mình. Cùng với thời gian, họ biết phân biệt được
cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai…Hệ thống thái độ của họ
đối với thế giới quan xung quanh và đối với bản thân cũng được hình thành và bộc
lộ: họ biết yêu thương và căm thù, biết trân trọng và kinh bỉ,… Cùng với việc nắm
bắt được kỹ năng, kỹ xảo cần thiết học đi tới những hành động cụ thể nhằm biến
đổi nó theo ý muốn của mình.
Giáo dục là một hoạt động chun mơn nhằm hình thành nhân cách con
người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Chính mơi trường xã hội tác động đến q trình hình thành nhân cách người phạm
tội, sự ảnh hưởng của việc giáo dục ở gia đình (điều kiện sinh hoạt vật chất, cơ cấu
của gia đình, phương pháp giáo dục của gia đình), những thiếu sót trong việc giáo
dục của Nhà trường, trong mơi trường sản xuất (tình hình tổ chức sản xuất, công
tác kế hoạch, công tác kiểm tra, thống kê, kỷ luật lao động, công tác tổ chức cán
bộ, cơng tác văn hóa giáo dục với quần chúng, thái độ của lãnh đạo, tập thể đối với
quyền lợi chính đáng của nhân viên…). Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng mạnh
mẽ đến nhân cách của người phạm tội. Có thể rằng con người tồn tại trong xã hội,
mỗi cá nhân là một thành tố của xã hội. Xã hội chính là mơi trường cho việc phát
triển của con người. Mơi trường sẽ có những ảnh hưởng tích cực tới việc hình
thành nhân cách của con người và ngược lại.
Ví dụ: Một người sống trong gia đình có cơ cấu gia đình khơng đầy đủ có
thể hình thành nên yếu tố tiêu cực trong nhân cách người phạm tội. Chỉ có bố hoặc
chỉ có mẹ, hoặc mồ cơi cả cha mẹ cũng có thể ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc hình
thành nhân cách con người. Con người khi lớn lên thiếu sự giáo dục, giám sát của
bố mẹ, thiếu tình cảm dẫn đến những sai lầm trong hành vi và xử sự. Nói về
phương diện giáo dục của gia đình, đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới việc hình
thành nhân cách của từng cá nhân trong xã hội.
2. Giáo dục trong phát triển nhân cách người phạm tội .
Sự phát triển nhân cách của con người bao gồm sự phát triển về mặt thể chất
(thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng, sự hoàn thiện các giác quan...),
sự phát triển về mặt tâm lý (thể hiện ở những biến đổi cơ bản trong q trình nhận
thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu...sự hình thành các thuộc tính tâm lý...) và sự phát
triển về mặt xã hội (biểu hiện ở sự tích cực tham gia vào các hoạt động XH, các
mối quan hệ giao tiếp, kỹ năng thích ứng...).Như vậy sự phát triển nhân cách được
hiểu là một quá trình biến đổi tổng thể, cải biến toàn vẹn sức mạnh về thể chất, tinh
thần cũng như các năng lực của con người có tính đến lứa tuổi. Sự phát triển nhân
cách người không phải là sự tăng trưởng về lượng mà trước hết đó là sự biến đổi về
chất.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự tác động của
các nhân tố sau: Yếu tố di truyền; Yếu tố môi trường; Yếu tố giáo dục; Yếu tố tính
tích cực hoạt động của cá nhân. Trong 4 nhân tố nêu trên thì nhân tố giáo dục giữ
vai trị chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người,
trong đó có cả người phạm tội.
Giáo dục khơng chỉ định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
của con người mà còn tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách đó
theo chiều hướng đã hoạch định.
Một đứa trẻ khi sinh ra chưa nhận thức được những mặt tốt đẹp hay xấu xa
của thế giới, chúng chưa hình thành khái niệm về điều thiện điều ác cũng chưa hiểu
đâu là những giá trị nhân văn tốt đẹp mà con người ta cần hướng tới. Và giáo dục,
chính là cách nhanh nhất, chính xác nhất để dẫn dắt sự hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ em theo chiều hướng đó.
Đối với người phạm tội, họ được giáo dục theo định hướng sai lệch nên đã
dẫn đến hành vi phạm tội.
Ví dụ: Gia đình em A có bố là người chuyên đi trộm cắp, chính bố A cho
rằng việc trộm cắp là cách nhanh nhất để kiểm tiền nên từ nhỏ A cũng cho rằng để
có tiền thì có thể đi trộm cắp. A không hề được bố giáo dục theo hướng đúng đắn
rằng việc trộm cắp là hành vi vi phạm pháp luật, ngồi việc trộm cắp ra thì cịn có
nhiều cách khác để có được tiền. Vì thế sau này A có hành vi trộm cắp có thể nói
nguyên nhân lớn nhất là do việc giáo dục theo định hướng sai lầm của bố A.
Giáo dục có thể đem lại cho con người những cái mà yếu tố bẩm sinh – di
truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được.
Con người trong quá trình lớn lên có thể tự nhận thức, tự học hỏi những điều
trong cuộc sống xung quanh. Những yếu tố bẩm sinh – di truyền giúp con người
tồn tại và duy trì sự sống như các quá trình sinh lý, cảm xúc, khả năng tự vệ,...
Những yếu tố môi trường tự nhiên cũng dần tác động hình thành nên nhân cách
con người như phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa,... Bên cạnh đó, có
những yếu tố con người chỉ có được nhờ vào quá trình giáo dục, nhờ vào quá trình
hướng dẫn, chỉ dạy của người khác. Nếu khơng có việc giáo dục, con người nhất
định không thể học được những kỹ năng này, bởi những kỹ năng, kiến thức đó
khơng tự nhiên mà có, con người phải trải qua q trình giáo dục và tự giáo dục.
Đối với người phạm tội, có một số trường hợp có người thực hiện hành vi
phạm tội là do xem trên phim ảnh, đọc sách báo,... Đây chính là q trình tự giáo
dục của người phạm tội nhưng việc tự giáo dục này lại có định hướng sai lầm mới
dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội.
Ví dụ: Vụ án mạng kinh hoàng xảy ra ngày 24/1/2014 tại thị trấn Oxted,
quận Surrey, nước Anh. Hung thủ là Steven Miles, 17 tuổi, dùng dao đâm chết bạn
gái và chặt xác thành nhiều mảnh. Sau khi đâm dao vào đầu nạn nhân là Elizabeth
Thomas, hung thủ tiếp tục dùng cưa và các dụng cụ phẫu thuật của cha để cắt rời
hai chân và một bên tay của cơ gái. Sau đó, hắn gói các phần cơ thể trong túi nilon.
Trong phiên xét xử tại tịa án Guildford hơm 2/10, báo cáo của cảnh sát cho thấy
Miles rất đam mê xem thể loại phim kinh dị, rùng rợn, giết người hàng loạt. Những
cảnh tượng trong phim ảnh hưởng lớn tới hành vi của hung thủ. "Đây là một vụ
giết người man rợ mà hung thủ chìm đắm trong sự ám ảnh nặng nề bởi những
hành động của nhân vật mà anh ta thần tượng trong một bộ phim truyền hình. Sự
việc là một minh chứng đáng buồn về những hành động nguy hiểm của giới trẻ
hiện nay. Chúng phụ thuộc và ảnh hưởng quá nhiều vào các bộ phim bạo lực, sau
đó tái hiện những cảnh tượng trong phim ở cuộc sống thực", công tố viên Philip
Bennetts nói.
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC.
1.
Liên hệ thực tiễn.
Ví dụ 1 :
Ngày 25/10/2011, TAND tỉnh Nghệ An mở phiên toà xét xử Mộng Thế Dương
(sinh năm 1996, trú tại xã Yên Hoà, Tương Dương, Nghệ An) về tội giết người,
cướp tài sản. Tại thời điểm phạm tội, Xương mới được 14 tuổi 7 tháng 19 ngày.
Chiều 23/5/2011, Xương rủ cháu Lô Ánh Như (sinh năm 2004, trú cùng bản)
và một đứa trẻ khác đến khu vực khe Đông Mô hái quả dâu da để ăn. Đến khe
Đông Mô, Xương lớn tuổi nhất nên trèo lên cây dâu da hái quả rồi ném xuống cho
hai cháu bé phía dưới. Một lát sau, cháu bé đi cùng về trước, lúc này chỉ còn lại
Xương và Như. Ở trên cây cao nhìn xuống, Xương phát hiện Như có đơi bơng tai
bằng vàng và nảy sinh ý định cướp. Xương bẻ một chùm dâu da rồi tụt xuống nhử
Như đi về phía khe suối. Lúc đi qua một tảng đá lớn, Xương đẩy cháu bé ngã
xuống khiến đầu cháu bé đập vào tảng đá rồi tháo đôi bông tai cho vào túi quần.
Thấy như vẫn còn cử động, sợ về sẽ mách người lớn, Xương cúi xuống suối nhặt
một hòn đá đập vào gáy, đầu cháu Như cho đến khi cháu khơng cịn cử động nữa.
Sau đó Xương về nhà, lấy kéo cắt 2 chiếc bông tai thành những mảnh nhỏ r gói vào
tờ giấy giấu kín trong khe tủ. Khơng thấy cháu Như về nhà, gia đình đổ xơ đi tìm
và phát hiện cháu bất tỉnh dưới suối. Mặc dù được đưa đi cấp cứu nhưng cháu Như
đã chết do chấn thương sọ não, nứt vỡ xương hộp sọ, chảy máu nội sọ. Mộng Thế
Xương bị cơ quan điều tra bắt sau 20 giờ gây án.
Qua điều tra cho thấy, bố mẹ Xương đã li hôn, Xương ở với bố. Mẹ lấy chồng
mãi trong vùng lòng hồ thuỷ điện Bản Vẽ, không mấy khi về thăm. Bố đi bước
nữa, mẹ kế sinh thêm em. Người lớn mải mê làm ăn, mải mê vun vén cho tổ ấm
của mình, Xương thiếu người bảo ban, chỉ dạy. Từ một đứa trẻ ngoan, học khá,
Xương trốn học đi chơi điện tử rồi ham mê những trò đánh đấm trên mạng lúc nào
không hay. Thiếu tiền trả cho chủ quán game, Xương rủ bạn đi đãi vàng nhưng sức
yếu không làm được. Khơng có tiền đi chơi nhưng những trị chơi điện tử lại có
sức hấp dẫn ghê gớm đối với Xương. Bởi vậy khi nhìn thấy đơi bơng tai vàng của
Như, Xương mới nảy ra ý định cướp để bán lấy tiền.
Ví dụ 2 :
Ngày 11/5/2017, tại một địa điểm hoang vắng ở khu công nghiệp thuộc thành
phố Rohtak, miền bắc Ấn Độ, người dân vơ tình phát hiện thi thể biến dạng của
một phụ nữ bị vứt bỏ tàn nhẫn. Ngay sau khi nhận được tin báo, cảnh sát Haryana
lập tức có mặt tại hiện trường.
Từ những gì cịn sót lại ở hiện trường, kết hợp khám nghiệm tử thi, cảnh sát đã
phát hiện dấu vết xâm hại tình dục dã man trên cơ thể nạn nhân khoảng 20 tuổi
này. Ngoài ra, nạn nhân cũng bị tra tấn bằng vật sắc nhọn trước khi bị sát hại. Kinh
khủng hơn, hung thủ còn dùng nhiều cách để hủy hoại cơ thể nạn nhân, có thể
nhằm mục đích để khơng ai có thể nhận dạng được.
Ngay sau đó, danh tính nạn nhân đã được làm rõ. “Chúng tôi đã nhận dạng được
nạn nhân và xác định nạn nhân 23 tuổi đang sống cùng với mẹ tại khu vực Kalupur
Chungi thuộc thành phố Rohtak. Cô ấy đã rời khỏi nơi làm việc vào khoảng 7 giờ
sáng ngày 9/5/2017 và từ đó, gia đình khơng thể liên lạc với cô”, Cảnh sát Ajay
Kumar tiết lộ.
Ngày 13/5, nghi phạm Sumit Kumar (24 tuổi) và Vikas (28 tuổi) đã bị bắt giữ với
tội danh hiếp dâm, giết người và bắt cóc. Tại trụ sở cảnh sát, cả 2 tên này đã thừa
nhận tồn bộ tội lỗi.
Theo đó, kẻ chủ mưu Sumit đã cùng với đồng bọn là Vikas bắt cóc nạn nhân và
cho lên ơ tơ. Tại đây, hắn đã hỏi nạn nhân có đồng ý lấy hắn hay khơng nhưng cơ
đã từ chối. Điều đó khiến hắn tức giận và quyết định giết hại sau khi hãm hiếp cô.
"Tôi đã yêu cô ấy và cô ấy cũng yêu tôi. Chúng tôi đã cãi nhau và tôi đã giết cô ấy
bằng một viên gạch”, Bị cáo Sumit đã thú nhận tội ác của mình.
Gia đình của nạn nhân cũng đã đến xác nhận thi thể. Họ cho biết cách đây khơng
lâu, khoảng cuối năm ngối, Sumit đã từng ép nạn nhân phải kết hơn nhưng cơ ấy
từ chối vì hắn cịn thất nghiệp. Kể từ đó, Sumit nhiều lần kéo 6, 7 người đàn ông
khác đến nhà quấy phá và đe dọa.
"Gia đình nạn nhân cho biết có sáu nghi phạm khác cũng có dính líu trong vụ
án. Trong số sáu người này, năm người là họ hàng của Sumit. ", đại diện cảnh sát
cho biết.
Như vậy, từ vụ án nêu trên ta có thể nhận thấy hồn cảnh gia đình của người
phạm tội : Sống trong gia đình nghèo khó ở khu ổ chuột, có 5 anh em trong nhà,
cuộc sống thiếu thốn vật chất, bố mẹ thì không quan tâm tới giáo dục con cái, sống
trong môi trường xung quanh là những người nghèo khổ, thường xuyên xảy ra
trộm cướp, có trình độ nhận thức thấp và Sumit không được học tập tử tế, bỏ học
từ trung học, làm cơng nhân tại khu cơng nghiệp. Hồn cảnh và quá trình phát triển
cho thấy nhân cách phạm tội của Sumit đã bị ảnh hưởng và khơng thể hình thành
nhân cách như người bình thường.
Hồn cảnh xã hội: sống trong môi trường xung quanh là những người nghèo
khổ, thường xun xảy ra trộm cướp, có trình độ nhận thức thấp. Mặt khác thì văn
hóa cũng như phong kiến của nước Ấn Độ, coi thường phụ nữ, thiếu bình đẳng
giới.
2.
Giải pháp khắc phục.
Giáo dục là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của con người nói chung và người phạm tội nói riêng. Vì thế, để
yếu tố giáo dục thực sự thể hiện được vai trò tích cực trong việc hình thành và phát
triển nhân cách của người phạm tội thì giáo dục phải được đặt đúng chỗ, đúng lúc
và có chất lượng. Để làm được điều đó, chúng ta cần có những giải pháp nâng cao
chất lượng của hoạt động giáo dục để hạn chế sự hình thành và phát triển tâm lý
tiêu cực ở người phạm tội.
Trước hết là yếu tố giáo dục từ gia đình. Trong những năm qua, vấn đề giáo
dục con cái trong nhiều gia đình chưa thật sự được chú trọng hoặc giáo dục sai
cách. Gia đình là cái nơi nâng đỡ và phát triển nhân cách của mỗi con người, do đó
gia đình phải quan tâm, giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho một người ngay từ
khi còn nhỏ. Khi con người biết sống phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội
thì sẽ hạn chế được nguy cơ phạm tội. Vì thế, các bậc cha mẹ cần dành thời gian
quan tâm, giáo dục con cái cách làm người, cách đối nhân xử thế, giáo dục cách
sống tốt đẹp, đúng chuẩn mực. Gia đình tốt sẽ là mơi trường để đứa trẻ hình thành
và phát triển nhân cách tốt. Do đó, gia đình cần có lối sống lành mạnh, người thân
trong gia đình trước hết phải là tấm gương tốt để đứa trẻ noi theo. Bên cạnh đó, gia
đình phải trang bị cho người chưa thành niên kiến thức pháp luật cần thiết để từ đó
giáo dục, định hướng nhằm giúp cho con cái có nhận thức đúng đắn, có hành vi
phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc giới thiệu các kiến thức pháp
luật cần có chọn lọc, có hệ thống phù hợp với từng độ tuổi. Như vậy, sẽ hình thành
cho các em ý thức tránh xa hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội sau này.
Đối với bất kì ai, sự tác động giáo dục từ gia đình là vơ cùng quan trọng, nó
chính là một trong những yếu tố quyết định đến việc hình thành nhân cách người
phạm tội. Tuy nhiên, giáo dục từ gia đình thơi chưa đủ mà cần phải kết hợp với
giáo dục từ nhà trường. Nhà trường đóng vai trị quan trọng khơng kém trong việc
giáo dục một con người, nhất là ở độ tuổi vị thành niên. Bên cạnh việc trang bị
kiến thức cho học sinh thì các nhà trường cũng chú trọng đến việc giáo dục thẩm
mỹ, đạo đức, lối sống tuân thủ pháp luật, tổ chức các buổi ngoại khóa phổ biến
pháp luật. Làm tốt cơng tác này sẽ tạo điều kiện cho các em chấp hành kỷ luật với
ý thức từ thấp đến cao, tạo thành ý thức tự giác cho các em ngay từ khi còn nhỏ.
Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trị, trách nhiệm của các thầy, cơ giáo trong việc
chăm sóc, giáo dục học sinh bởi hình ảnh của các thầy, cơ giáo có ảnh hưởng, tác
động rất lớn đến sự hình thành nhân cách, trạng thái tâm lý của học sinh. Ngoài ra,
cần phải sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với gia đình trong việc trao
đổi thơng tin để cùng quản lý giáo dục các em phát triển toàn diện.
Mặt khác, môi trường xã hội cũng cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên
truyền thông qua các phương tiện thơng tin đại chúng để có thể đưa các thơng tin
giáo dục xã hội tới mọi người. Các thông tin, thơng điệp cần truyền tải cần có chọn
lọc, hạn chế sự phản tác dụng của những thông tin thực tế đến nhận thức của mọi
người, chẳng hạn như việc đưa đến thông tin chi tiết các vụ án sẽ dẫn đến hình
thành đặc điểm tâm lý dễ kích động, tập nhiễm hành vi bạo lực.
Nhìn chung, cần có sự kết hợp giáo dục từ gia đình – nhà trường- xã hội một
cách hợp lý để đem lại hiệu quả cao trong việc hình thành, phát triển nhân cách của
người phạm tội, hạn chế tối đa sự hình thành các đặc điểm tâm lý tiêu cực và dẫn
đến hành vi phạm tội.
KẾT LUẬN
Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực
hiện có hiệu quả các mục đích đã đề ra. Giáo dục cịn có thể uốn nắn những phẩm
chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
Vì vậy, chúng ta phải đẩy mạnh giáo dục để hạn chế những tiêu cực hình thành
trong tâm lý con người đặc biệt là người chưa thành niên. Ngoài ra, xã hội cần phải
nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc những người
phạm pháp. Tạo cho họ một môi trường mới khi tái hoàn nhập cộng đồng để hạn
chế việc tiếp tục phạm tội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trần Trọng Thủy (chủ biên), Tâm lí học đại cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000.
2.
Bùi Kim Chi - Phan Cơng Luận, Tâm lí học đại cương - Hướng dẫn trả lời lí
thuyết, giải bài tập tình huống và trắc nghiệm, Nxb. Chính trị - hành chính, Hà Nội,
2010.
3.
Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ biên), Một số vấn đề nghiên cứu nhân
cách. Nxb. Giáo dục, Hà Nội 2004.
4.
Website : />
5.
Bài báo: "Tỷ lệ người được đặc xá tái phạm thấp", Báo Quân đội nhân dân.
Link: />