Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích pháp luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.28 KB, 8 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chứng cứ là thứ để tòa án căn cứ vào để xác định các tình tiết khách quan
của vụ việc dân sự, qua đó giải quyết vụ việc dân sự một cách khách quan, công
bằng. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình và các cơ quan tiến hành tố tụng cũng xem xét
được tính đúng đắn của sự việc để bảo vệ lợi ích của người dân và bảo vệ pháp
luật. Tuy nhiên chỉ những chứng cứ được rút ra từ nguồn chứng cứ theo quy định
của pháp luật mới được tòa án sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự. Với ý nghĩa
quan trọng của chứng cứ thì việc tìm hiểu về nguồn chứng cứ là điều rất cần thiết.
Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề số 8 để làm đề tài bài tập học kỳ
của mình: “Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
nguồn chứng cứ”.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát về chứng cứ
1. Khái niệm
Khái niệm chứng cứ được quy định tại Điều 93 BLTTDS năm 2015 như sau:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và các cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc
do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và được Tòa
án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”
2. Các thuộc tính của chứng cứ
Các thuộc tính của chứng cứ bao gồm tính khách quan, tính liên quan và tính
hợp pháp.
Về tính khách quan, chứng cứ phải là cái có thật, tồn tại ngồi ý muốn của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Trong quá trình tố
tụng, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng không thể tạo
ra chúng theo ý muốn chủ quan của họ mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá
và sử dụng chúng. Căn cứ vào tính khách quan của chứng cứ, tịa án loại bỏ được
những cái khơng có thật, đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh


chóng, đúng đắn.
Về tính liên quan, giữa chứng cứ và vụ việc dân sự có mối quan hệ nhất định.
Thông thường, chứng cứ bao gồm những tin tức liên quan trực tiếp đến vụ việc dân
sự. Thông qua nó tịa án có thể khẳng định ngay được có hay khơng tình tiết, sự
1


kiện của vụ việc dân sự nhưng trong nhiều trường hợp, chứng cứ còn bao gồm cả
những tin tức gián tiếp đến vụ việc dân sự và chúng vẫn có khả năng giúp tòa án
đưa ra những kết luận nhất định về vụ việc dân sự đang giải quyết.
Về tính hợp pháp, chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn nhất định do
pháp luật quy định; quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng phải được
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
Chứng cứ phải có đủ 3 thuộc tính trên mới được tịa án sử dụng để giải quyết
vụ án dân sự.
II. Nguồn của chứng cứ
1. Khái quát về nguồn chứng cứ
Nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp hay
rút ra cái gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi rút ra các chứng cứ.
Nguồn chứng cứ bao gồm người, vật, tài liệu mang các thông tin về vụ việc
dân sự. Nguồn chứng cứ có hai loại chủ yếu là người, vật và tài liệu. Thường thì
các chứng cứ rút ra từ vật, tài liệu thì việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng khơng
phức tạp vì chúng ít bị chi phối bởi ngoại cảnh. Còn với những chứng cứ được rút
ra từ con người thì việc nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chúng khá phức tạp bởi con
người bị chi phối rất lớn bởi yếu tố lợi ích, tâm lý, khả năng nhận thức, nhớ và
phản ánh lại những gì họ thấy, sự quan tâm của họ đối với sự kiện....
2. Các nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ được quy định tại Điều 94, Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) 2015, cụ thể:
“ Điều 94. Nguồn chứng cứ

Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.”
2


2.1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử
_ Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử được coi là chứng
cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có cơng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc là do
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp xác nhận
Những chứng cứ rút ra từ nguồn này đảm bảo được tính chính xác cao bởi
những chứng cứ đó do cơ quan, tổ chức đã xác nhận hay đã được công chứng,
chứng thức tức là đã được cơng chứng viên đảm bảo về tính xác thực, rất khó để
làm giả
Ví dụ: Giấy chứng nhận đăng ký kết hơn bản chính hay bản sao có cơng
chứng, chứng thực
_ Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình
kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ
tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người
xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu
âm, thu hình đó.
Việc có được chứng cứ rút ra từ nguồn này phải có tài liệu về xuất xứ đảm

bảo cho tính hợp pháp của chứng cứ. Những chứng cứ khơng có tài liệu chứng
minh về xuất xứ sẽ không được coi là chứng cứ mà chỉ là tài liệu liên quan đến vụ
án, có giá trị tham khảo chứ khơng có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ
án.
Ví dụ: Bản ghi âm lén hay ảnh chụp từ thám tử tư sẽ không được coi là
chứng cứ
_ Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu
điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương
tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
Đây là nguồn chứng cứ mới được thêm vào BLTTDS 2015. Theo em điều
này phù hợp với thời đại hội nhập bây giờ. Hiện nay các thiết bị điện tử ngày càng
phát triển, nhiều giao dịch được thực hiện thông qua email, bản fax....nếu khơng
cơng nhận đây là nguồn của chứng cứ có thể làm ảnh hưởng đến việc xác thực các
tình tiết trong vụ án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích các đương sự. Điều này cũng
phù hợp với quy định của Luật Giao dịch điện tử: “Thông điệp dữ liệu không bị
phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thơng điệp dữ liệu” (Điều 14)
2.2. Vật chứng
Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc. Nếu không
phải là hiện vật gốc hoặc khơng liên quan đến vụ việc thì khơng phải là chứng cứ
trong vụ việc dân sự đó
3


Ví dụ: chiếc xe máy bị ơ tơ đâm phải thì chiếc xe máy sẽ là vật chứng.
Trên thực tế, vật chứng ít xuất hiện trong khi tịa án giải quyết vụ việc dân
với tư cách là vật chứng vì thông tin của vật chứng thường được thể hiện qua kết
luận giám định hay các nguồn khác của chứng cứ.
2.3. Lời khai của đương sự
Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu
cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Lời khai của đương sự được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản,
băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh,
hình ảnh (nếu là thu âm, thu hình thì cần có văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu
hoặc văn bản về sự liên quan đến việc thu âm thu hình đó) hoặc khai bằng lời tại
phiên tòa.
Việc lấy lời khai của đương sự phải được thực hiện đúng quy định tại Điều
98 BLTTDS. Tòa án khi nghiên cứu, sử dụng lời khai của đương sự cần phải đặt
lời khai của đương sự trong mối quan hệ với các chứng cứ khác vì khơng phải lời
khai nào của đương sự cũng đúng sự thật, việc liên hệ lời khai với các chứng cứ
khác giúp tịa án có thể nhận ra được tính chính xác trong lời khai của đương sự,
góp phần giải quyết vụ việc dân sự một cách chính xác.
2.4. Lời khai của người làm chứng
Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ
việc được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người
làm chứng.
Tương tự lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là
chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa
ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh (nếu là thu âm, thu hình thì cần có
văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu hoặc văn bản về sự liên quan đến việc thu âm
thu hình đó) hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
Việc lấy lời khai của người làm chứng phải được thực hiện đúng quy định tại
Điều 99 BLTTDS. Lời khai của người làm chứng là chứng cứ được rút ra từ con
người nên việc nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chúng cũng khá phức tạp. Có nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến lời khai của người làm chứng như trí nhớ, tình cảm, suy nghĩ
của bản thân,...thậm chí có trường hợp người làm chứng bị một bên đương sự mua
chuộc mà cho lời khai giả. Vì thế khi sử dụng lời khai của người làm chứng, tòa án
cũng cần xem xét một cách kỹ lưỡng tính chân thực cùa lời khai.
4



Trường hợp người làm chứng cố ý khai báo gian dối mà cấu thành tội phạm
thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Hình sự.
Quy định này có tính chất răn đe với mong muốn người làm chứng sẽ cung cấp
những thông tin chính xác, giúp tịa án giải quyết vụ viêc dân sự.
2.5. Kết luận giám định
Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến
hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định (Luật Giám định tư pháp năm 2012
và Nghị định số 85/3013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết
và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp)
Việc giám định có thể do thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định hoặc
đương sự tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định
nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự.
Người giám định sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám
định. Nếu người giám định cố tình kết luận sai mà cấu thành tội phạm thì sẽ phải
chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Hình sự. Quy định này
cũng phần nào khiến cho người giám định e ngại, từ đó đưa kết luận trung thực,
khách quan, giúp tòa án giải quyết vụ việc dân sự một cách nhanh chóng, chính
xác.
2.6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm
định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ được quy định tại Điều 101, BLTTD:
“1. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có
mặt của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng
cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương
sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó;
2. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản
phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mơ tả rõ hiện trường, có chữ ký của người

xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của đại
diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét,
thẩm định và những người khác được mời tham gia việc xem xét, thẩm định. Sau
khi lập xong biên bản, người xem xét, thẩm định phải yêu cầu đại diện Uỷ ban
nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định ký
tên và đóng dấu xác nhận”
Có thể nói chứng cứ từ biên bản thẩm định tại chỗ có tính hợp pháp và khách
quan cao vì việc thẩm định do thẩm phán tiến hành dưới sự chứng kiến của nhiều
5


người khác như đại diện ủy ban nhân dân cấp xã, tổ chức nơi có đối tượng cần
thẩm định, đương sự (nếu có mặt) vì vậy chứng cứ này có mức tin cậy khá cao.
2.7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ
nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy
định.
Kết quả định giá tài sản là kết quả xác định giá tài sản đang tranh chấp do
Hội đồng định giá đưa ra, nếu việc định giá tài sản được thực hiện theo đúng thủ
tục quy định tại khoản 4, Điều 104, BLTTDS. Hội đồng định giá do Tòa án thành
lập gồm Chủ tịch Hội đồng định giá là đại diện cơ quan tài chính và thành viên là
đại diện các cơ quan chun mơn có liên quan
Kết quả thẩm giá tài sản là kết quả xác định giá tài sản đang tranh chấp do tổ
chức thẩm định giá tài sản tiến hành thẩm định giá đưa ra, nếu việc thẩm định giá
tài sản được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Nghị định 89/2013/NĐ-CP
ngày 6/8/2013 của Chính phủ
2.8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng
lập.
Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ
được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được

tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ
có thế là vi bằng nếu việc lập vi bằng được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại
Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Vi bằng là văn bản
do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét
xử và trong các quan hệ pháp lý khác
Ngoài ra, biên bản khám nghiệm hiện trường do cơ quan điều tra lập cũng là
nguồn của chứng cứ nếu được tiến hành theo đúng thủ tục được quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự.
Đây là nguồn chứng cứ mới được quy định trong BLTTDS 2015. Việc quy
định thêm nguồn này là điều rất phù hợp, bởi thừa phát lại là một chế định mới
trong pháp luật Việt Nam, trong đó một trong những chức năng của thừa pháp lại là
lập vi bằng ghi nhận các sự kiện, hành vi. Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng
minh thuộc về các đương sự, việc quy định nguồn chứng cứ này trong luật đã tăng
sự chủ động của đương sự, giúp cho người dân chủ động bảo vệ quyền lợi của
mình, làm phong phú nguồn chứng cứ cho tịa án.
6


Trong các vụ án hình sự, có nhiều trường hợp đặt ra nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại, thậm chí vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cịn có thể được tách ra để
xem xét như một vụ án độc lập. Khi ấy, biên bản khám nghiệm hiện trường được
thực hiện theo quy định trong bộ luật tố tụng hình sự lại được xem là nguồn chứng
cứ trong vụ án dân sự.
2.9. Văn bản công chứng, chứng thực
Văn bản công chứng được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực
được thực hiện theo đúng thủ tục do luật Công chứng 2016 quy định.
Văn bản chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực
được thực hiện theo đúng thủ tục quy định tạo Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày

16/2/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực.
Đây là nguồn chứng cứ mới được quy định trong luật. Trong đời sống xã hội
nói chung, giao dịch dân sự nói riêng, do nhu cầu nên văn bản cơng chứng, chứng
thực được thực hiện phổ biến. Vì vậy, việc bổ sung nguồn văn bản công chứng,
chứng thực là cần thiết. Việc thực hiện công chứng, chứng thực do người của cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện nên tính xác thực cao, có ý nghĩa quan trọng
bảo đảm quyền lợi trong đời sống xã hội nói chung, trong giao dịch dân sự nói
riêng, là cơ sở quan trọng để Tịa án có được quyết định chính xác trong bản án,
quyết định
2.10. Các nguồn khác mà pháp luật quy định
Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo
điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
Ngoài những nguồn chứng cứ trên đây Tịa án khơng được sử dụng thêm bất
cứ nguồn nào khác để thu thập làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự.
Tại khoản 10 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Các nguồn khác
mà pháp luật có quy định” cần được hiểu đây là một quy định dự phòng của pháp
luật chứ khơng phải là một quy định mở để Tịa án áp dụng trong quá trình thu thập
chứng cứ giải quyết vụ án. Do vậy, cho đến khi pháp luật có quy định thêm một
nguồn chứng cứ nào đó thì Tịa án chỉ được phép thu thập chứng cứ theo qui định
từ khoản 1 đến khoản 10 Điều 94 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các
nguồn chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải
quyết vụ án mà các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản
của chứng cứ, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
7


xác định chứng cứ thì mới được tịa án sử dụng để giải quyết vụ việc dân. Và không
phải mỗi vụ việc dân sự đều cần tất cả chứng cứ từ những loại nguồn chứng cứ

trên.

KẾT LUẬN
Trong tố tụng dân sự, việc thu thập chứng cứ do nhiều chủ thể thực hiện. Nếu
muốn chứng cứ của mình được tịa án sử dụng để giải quyết vụ việc, bảo vệ quyền,
lợi ích đáng của mình thì chứng cứ ấy phải được rút ra từ những nguồn chứng cứ
do pháp luật tố tụng dân sự quy định và chứng cứ ấy phải có đủ những thuộc tính
cơ bản của chứng cứ. Vì vậy việc tìm hiểu về chứng cứ và nguồn chứng cứ là điều
vô cùng quan trọng. Trên đây là những gì em nhận thức được nguồn chứng cứ
trong tố tụng dân sự, với lượng kiến thức ít ỏi nên trong q trình làm bài khơng
thể tránh được những thiếu sót, mong thầy, cơ góp ý để em hồn thiện được kiến
thức của bản thân, em xin chân thành cảm ơn

8



×