Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THEO HỒ SƠ TÌNH HUỐNG KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.58 KB, 9 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THEO HỒ SƠ TÌNH HUỐNG

KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ THAM GIA GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

HỒ SƠ LS.DS 01/B1.TH1 và HỒ SƠ LS.DS 06/3B.TH1_DA2/DS
CƠ BẢN/ KỲ THI CHÍNH

Họ và tên : NGUYỄN KIM OANH
Sinh ngày :24/7/1999

SBD 150 Lớp 23.2B.HNToi Khóa 23 tại Hà Nội

Hà nội, ngày 25 tháng 3 năm 2022


Câu 11: Theo anh (chị) cần làm rõ những nội dung gì trong phần trình bày của
ơng Bùi Sơn Đơng? Giải thích lý do vì sao?
Trả lời:
Trong phần trình bày của ông Bùi Sơn Đông, cần phải làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, ơng Đơng có quyền khởi kiện vụ án dân sự.
Để xác định ơng Đơng có qun khởi kiện vụ án dân sự, cần làm rõ vấn đề sau:
-

Thửa đất của ơng Đơng có GCNQSDĐ chưa? Nếu có rồi thì đứng tên ai?
Nếu chưa có GCNQSDĐ thì có đủ điều kiện cấp GCN khơng?

Bởi việc xác định ông Đông có quyền sử dụng đối với phần đất bị thu hồi và phần


đất đang canh tác là để xác định quyền sở hữu tài sản trên đất. Khi tài sản trên đất bị gây
thiệt hại, quyền lợi của ơng Đơng bị xâm phạm thì mới có quyền khởi kiện.
Thứ hai, làm rõ các nội dung khởi kiện của ông Đông là hợp pháp và có căn cứ.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định
tại Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
“Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Theo đó, để phát sinh trách nhiệm bồi thường thì phải đảm bảo các điều kiện sau;
-

Có thiệt hại xảy ra;
Phải có hành vi trái pháp luật;
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra;

Vậy, để chứng minh các nội dung khởi kiện của ơng Đơng là có căn cứ thì cần
làm rõ những nội dung:
• Một là, có thiệt hại hay khơng? Thiệt hại là bao nhiêu?
• Hai là, việc ơng Đào Bá Dung tiến hành san ủi có phải là nội dung công việc
được Tổng công ty LICOGI giao cho không? Hay ông Đào Bá Dung tiến hành
việc san ủi là nhân danh Tổng cơng ty LICOGI hay nhân danh chính mình?
• Ba là, những thiệt hại của ơng Đơng có phải do hành vi san ủi gây ra không?

1



Câu 12: Xác định quan hệ tranh chấp? Giải thích lý do vì sao anh (chị) đưa ra
quan điểm như vậy?
Trả lời:
Thứ nhất, thửa đất đang có tranh chấp chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất;
Thứ hai, các bên đều cho rằng mình có quyền sử dụng đối với mảnh đất này.
Vậy, tranh chấp giữa ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Thanh với bà Đinh Thị Tám là
tranh chấp quyền sử dụng đất do chưa xác định được ai là người có quyền sử dụng đối
với thửa đất 777m này.
Căn cứ Khoản 24 Điều 3 Luật đất đai 2013: “24. Tranh chấp đất đai là tranh
chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai.”
Do đó, quan hệ tranh chấp được xác định là Tranh chấp đất đai.
Câu 13: Anh chị hãy trình bày những vấn đề cần phải chứng minh của vụ án?
Giải thích lý do?
Trả lời:
Trong vụ án, cần phải chứng minh những vấn đề sau:
Thứ nhất, chứng minh quyền sử dụng 777m2 đất là của cụ Trường và cụ Cúc.
Do cụ Trường và cụ Cúc đã mất nên việc chứng minh cụ Trường và cụ Cúc có
quyền sử dụng hợp pháp đối với thửa đất này là căn cứ xác định quyền sử dụng đối với
777m2 đất có phải là di sản thừa kế hay không.
Thứ hai, chứng minh thời hiệu mở thừa kế chia di sản của cụ Trường và cụ Cúc
vẫn còn.
Khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về
người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp khơng có người thừa kế đang quản
lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của
Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu khơng có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản
này.”
Hiện tại, bà Tám và con gái là Chu Thị Mai đang quản lý và sinh sống trên mảnh
đất thuộc di sản thừa kế của cụ Trường và Cụ Trường và cụ Cúc. Trong trường hợp đã
2


hết thời hiệu chia di sản thừa kế và việc chiếm hữu và sử dụng mảnh đất này ngay tình,
liên tục và cơng khai trong thời hạn 30 năm thì bà Tám có quyền xác lập quyền sử dụng
đối với thửa đất 777 m này theo Điều 236 Bộ luật dân sự 2015: “Người chiếm hữu,
người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công
khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành
chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.”
Do vậy, cần chứng minh thời hiệu mở thừa kế của cụ Trường và cụ Cúc vẫn còn
để xác định quyền của các đương sự.
Thứ ba, cụ Trường và cụ Cúc chết không để lại di chúc.
Di chúc thể hiện ý chí của người đã chết định đoạt phần di sản thừa kế của mình.
Do vậy, khi cụ Trường và cụ Cúc để lại di chúc thì việc định đoạt di sản thừa kế phải
tuân theo nội dung của di chúc, trong trường hợp khơng có di chúc thì các con của cụ
Trường và cụ Cúc sẽ là đồng thừa kế và cùng có quyền đối với di sản của cụ là quyền
sử dụng với 777m2 đất và tài sản trên đất.
Thứ tư, đơn chuyển quyền thừa kế giữa ông Sinh và ông Thun khơng có giá
trị pháp lý.
Ngày 20/01/1994 ơng Sinh có đơn chuyển quyền thừa kế cho ơng Thun có sự
chứng kiến của trưởng họ và có xác nhận của UBND xã Phù Vân. Mặc dù hình thức là
Đơn chuyển quyền thừa kế nhưng nội dung của Đơn chuyển quyền này như một hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Do vậy, cần chứng minh giá
trị pháp lý của Đơn chuyển quyền này.
Thứ tư, giấy giao quyền trơng nom có làm mất đi quyền ngun đơn đối với tài

sản hay không?
Ngày 15/4/1994, bà Chu thị Thanh và Chu Thị The có giấy giao quyền trơng nom
nhà đất là di sản của bố mẹ cho ông Chu Khắc Thuyên. Do vậy, phải chứng minh việc
giao quyền này không làm mất đi quyền của chị em bà Thanh với tài sản đã giao.
Câu 14: Là luật sư của Nguyên đơn, anh (chị) cần thu thập hoặc đề nghị Tịa án
thu thập những chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách
hàng?
Trả lời:
Với tư cách là Luật sư của Nguyên đơn, học viên cho rằng cần thu thập/đề nghị
Tòa án thu thập các chứng cứ sau để bảo vệ cho khách hàng của mình:
Thứ nhất, đối với việc chứng minh thửa đất 777m2 là của cụ Cúc và cụ Trường,
cần thu thập thêm:
3


• Biên lai nộp thuế đất hoặc xác nhận nộp thuế đất của cụ Cúc hoặc các con của
cụ;
• Xác nhận của UBND xã về việc gia đình cụ Cúc sinh sống ổn định trên thửa đất
số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù vân, thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam.
Thứ hai, chứng minh cụ Trường và cụ Cúc có 4 người con là Chu Thị Thanh,
Chu thị Loan, Chu văn sinh và Chu Thị The cần thu thập;
• Sổ hộ khẩu của gia đình cụ Cúc hoặc Sơ yếu lý lịch/giấy khai sinh của 4 người
con.
Câu 15: Anh (chị) trình bày kết quả nghiên cứu hồ sơ về các vấn đề nội dung và
tố tụng của vụ án?
Trả lời:
a. Vấn đề về tố tụng:
Thứ nhất, quan hệ tranh chấp: Tranh chấp đất đai.
Thứ hai, thủ tục tiền tố tụng:

Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định:
“Điều 3. Về chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
2. Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202
Luật đất đai 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.”
Các bên trong tranh chấp đã tiến hành hòa giải cơ sở tại UBND xã Phù Vân vào
ngày 19/6/2016 nhưng khơng thành (Có biên bản hịa giải). Do vậy, đã đáp ứng đủ điều
kiện về thủ tục tiền tố tụng và có thể khởi kiện ra Tịa án.
Thứ ba, thẩm quyền của Tòa án.
Căn cứ Khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền
loại việc của Tòa án:
“Điều 26: Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
9. Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở
hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.Thứ tư, tư
cách đương sự”
Do đó, tranh chấp đất đai phát sinh giữa ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Thanh
và bà Đinh Thị Tám thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
4


Điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 quy định: “1. Tòa án nhân
dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ
luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;”
Bởi vậy, Tịa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nêu
trên.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
tại điều 39 như sau:

“Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tịa án nơi có bất động sản có thẩm
quyền giải quyết.”
Hiện nay, thửa đất đang có tranh chấp thuộc tờ bản đồ số 2, thửa số 40 có địa chỉ
tại thơn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Tóm lại, thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên thuộc Tòa án nhân dân thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Thứ tư, tư cách đương sự.
Theo Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015: “Đương sự trong vụ án dân sự là cơ
quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan”. Trong đó:
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân
sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Trong vụ án dân sự, ông Chu Văn Sinh và bà Chu Thị Thanh là cá nhân, đứng
đơn khởi kiện ngày 05/11/2016 yêu cầu Tòa án buộc bà Tám trả lại đất cùng toàn bộ tài
sản trên đất là di sản của cụ Trường và cụ Cúc đồng thời cũng yêu cầu bà Tám phải hoàn
trả 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994 .
Như vậy, nguyên đơn trong vụ án tranh chấp đất đai được xác định là ông Chu
Văn Sinh và bà Chu Thị Thanh.
Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm
phạm.

5


Bà Đinh Thị Tám là cá nhân, bị ông Chu Văn Sinh và bà Chu Thị Thanh khởi

kiện để đòi quyền sử dụng đối với thửa đất 777m tại thôn 6 xã Phù Vân, thành phố Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam. Do đó, bà Tám được xác định là Bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không
khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được
Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
Bà Chu Thị Loan, bà Chu Thị The và bà Chu Thị Mai là các đồng thừa kế cùng
ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Thanh đối với di sản thừa kế của cụ Trường và cụ Cúc tài sản đang tranh chấp. Do vậy, việc giải quyết tranh chấp giữa ông Sinh, bà Thanh với
bà Tám có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Nên bà Chu Thị Loan, bà Chu Thị
The và bà Chu Thị Mai được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Chị Chu Thị Mai, anh Chu Khắc Hồng và các người con khác của ông Thuyên bà Tám. Ông Thuyên và bà Tám cùng thu lợi, hoa màu trên phần đất đang tranh chấp,
do đó khi giải quyết vụ án thì có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của ông Thuyên. Tuy
nhiên, nay ông Thuyên đã mất do vậy, việc giải quyết vụ án có ảnh hưởng đến quyền
lợi, nghĩa vụ của các đồng thừa kế, trong đó có bà Tám đã tham gia vụ án với tư cách bị
đơn. Vậy chị Chu Thị Mai, anh Chu Khắc Hồng và các con của ông Thuyên được xác
định là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Chị Trần Thị Đắc – là vợ của anh Chu Khắc Hồng đã thực hiện nghĩa vụ đóng
thuế với phần đất đang có tranh chấp. Do đó việc giải quyết vụ án có ảnh hưởng đên
quyền lợi, nghĩa vụ của chị Đắc nên chị được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Thứ năm, thời hiệu khởi kiện.
Theo Điều 155 bộ luật tố tụng dân sự thì thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong
trường hợp sau đây:
“1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.
2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.
3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
4. Trường hợp khác do luật quy định.”
Đồng thời Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP Quy định về hướng dẫn thi hành một

số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của bộ luật tố tụng dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự
“2. Đối với các tranh chấp dân sự sau đây thì khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện:
6


a) Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản đó;
b) Tranh chấp về địi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài
sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản
lý, chiếm hữu tài sản đó;
c) Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh
chấp ai có quyền sử dụng đất đó.”
Như vậy, tranh chấp giữa ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Thanh với bà Đinh Thị
Tám thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu nên có thể khởi kiện.
b. Vấn đề về nội dung
* Yêu cầu khởi kiện và chứng cứ chứng minh:
Nguyên đơn có các yêu cầu cùng với các tài liệu chứng minh như sau:
Yêu cầu 1: Yêu cầu bà Tám trả lại diện tích 777m tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số
2 lập năm 1998 địa chỉ Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà Chu
Thị Thanh, ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị The, bà Chu Thị Loan.
Thứ nhất, nguồn gốc đất là của cụ Trường và cụ Cúc.
• Tờ bản đồ năm 1990 đứng tên cụ Cúc với 777,4m2 (BL 21-24);
• Xác nhận của hàng xóm ngày 6/6/2016 (BL 16);
• Xác nhận của Trưởng thơn tại Biên bản làm việc của TAND thành phố Phủ Lý
ngày 27/11/2016 (BL 62);
• Biên bản xác minh của Kiểm Sát Viên ngày 27/6/2017 (BL 102);
• Lời khai của người khởi kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Thứ hai, Hợp đồng chuyển quyền giữa ơng Sinh và ơng Thun vơ hiệu.
• Đơn chuyển quyền thừa kế ngày 20/01/1994 (BL 7);

• Thơng báo số 05/TB-UB ngày 10/4/1994 của UBND xã Phù Vân về việc đình
chỉ việc chuyển quyền thừa kế;
Thứ ba, bà Tám sử dụng đất dựa trên việc giao quyền của chị em bà Thanh.
• Giấy giao quyền trơng nom nhà đất và tài sản trên đất ngày 15/4/1994 do bà
Thanh, bà The lập.
Thứ tư, cụ Trường mất năm 1945 và cụ Cúc mất năm 1990 đều không để lại di
chúc. Những người con của cụ Trường và cụ Cúc là các đồng thừa kế cùng có quyền đối
với phần đất này.
• Giấy xác nhận việc ơng trường chết năm 1945;
• Giấy chứng tử của cụ Cúc;
• Bản trích lục gia phả, tổ tiên;
7


• Biên bản hòa giải ngày 25/10/2016 của UBND xã Phù Vân
Yêu cầu 2: Yêu cầu bà Tám tháo dỡ nhà, cơng trình xây dựng trái phép trên đất.
Ngun đơn đã đưa ra chứng cứ chứng minh bị đơn xây dựng nhà khi khơng có sự đồng
ý của các con cụ Cúc và cụ Trường.
• Giấy giao quyền trơng nom nhà đất và tái sản trên đất ngày 15/4/1994;
• Biên bản hịa giải ngày 19/6/2016;
• Biên bản làm việc với trưởng thôn ngày 27/11/2016;
Yêu cầu 3: Yêu cầu bà Tám trả 50% tổng giá trị thu nhập cây lâu năm kể từ ngày
15/4/1994 - 15/4/1999 cho bà Chu Thị Thanh, ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị The và bà
Chu Thị Loan.
• Giấy giao quyền trơng nom nhà đất và tái sản trên đất ngày 15/4/1994;
* Ý kiến của bị đơn:
Bị đơn khơng đồng ý với tồn bộ u cầu khởi kiện của nguyên đơn vì vợ chồng
bà Tám đã thỏa thuận với ông Chu Văn Sinh để nhận chuyển quyền toàn bộ di sản theo
Đơn chuyển quyền thừa kế ngày 20/01/1994, dưới sự chứng kiến của trưởng họ và được
UBND xã xác nhận. Vợ chồng bà Tám đã thanh tốn cho ơng Sinh số tiền 500.000đ trên

tổng số tiền thỏa thuận là 1.500.000đ, số tiền còn lại chưa trả cho ơng Sinh vì ơng Sinh
chưa về. Gia đình bà Tám cũng là người nộp thuế đất liên tục từ năm 1990 đến nay.
Do bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố nên việc xem xét tính hợp pháp của yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn cũng đồng thời là xem xét tính hợp pháp của ý kiến của bị
đơn.
Chứng cứ chứng minh cho ý kiến của nguyên đơn






Đơn chuyển quyền thừa kế ngày 20/01/1994;
Giấy biên nhân tiền ngày 24/01/1994;
Giấy biên nhận về việc nộp thuế của bà tám ngày 22/11/2016;
Biên nhận về nộp thuế ngày 25/6/2016

* Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
-

Bà Chu Thị The, bà Chu Thị Loan có cùng yêu cầu của nguyên đơn.

-

Chị Chu Thị mai và anh Chu Khắc Hồng, chị Trần Thị Đắc cs ý kiến như bị đơn.

8




×