Cơng trình được hồn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dân khoa học: PGS.TS NGUYEN NGỌC CHI
Phản biện 1: PGS.TS ĐỎ THỊ PHƯỢNG
Phản biện 2: TS. LÊ LAN CHI
Luận
• văn đưọ*c
• bảo vệ• tại
• Hội
• đông châm luận văn, họp
>
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi.... giỏ’...., ngày.... tháng...... năm 2022
Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT
SĨ
VÁN
ĐÈ
LÝ
LUẬN
VÀ
PHÁP
LUẬT
VÈ
•
•
•
THỰC HÀNH QUYỀN CƠNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
7
ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỤ CÔNG CỘNG
1.1.
Một số vấn đề lý luận.........................................................................7
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.........7
1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm trật tự công cộng...............................13
1.1.3. Đặc điểm thục hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
tội xâm phạm trật tự công cộng....................................................... 17
1.1.4. Các yếu tố ảnh huởng đến thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự công cộng.......................... 21
1.2.
Pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các tội
trật
• xâm
•
• tự
• cơng
~ cộng
• ơ ....................................... 28
1.2.1. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
28
1.2.2. Pháp luật về nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng...................... 32
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THựC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIÈU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT Tự CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG..... 39
2.1.
Thực trạng thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra
các tội xâm phạm trật tự cơng cộng trên địa bàn Hải Phịng ...39
2.1.1. Tình hình chung trên địa bàn thành phố Hải Phòng....................... 39
1
2.1.2. Thực trạng thực hành quyên công tô ở giai đoạn điêu tra các tội
xâm phạm trật tự công cộng trên địa bàn Hải Phịng..................... 41
2.2.
Kiến nghị hồn thiện pháp luật.................................................... 66
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện chế định Thực hành quyền cơng tố.............. 66
2.2.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm
trật tự cơng cộng.............................................................................. 68
Ạ
2.3.
r
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyên công tơ ở
giai
~ đoạn
• điều tra các tội
• xâm >phạm
• trật
• tự• cơng— cộng
• — trên
địa bàn Hải Phịng........................................................................... 69
2.3.1. Những giải pháp chung.................................................................... 69
2.3.2. Giải pháp cụ thể................................................................................74
KÉT LUẬN.................................................................................................. 81
DANH MỤC
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO
.................................................
83
•
•
2
MỞ ĐẦU
1. Tính câp thỉêt của đê tài
Thực hành quyền cơng tố trong việc giải quyết vụ án hình sự là một
trong những chức năng trọng tâm của Viện kiểm sát nhân dân, được ghi
nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND
phải thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra mới có thể đảm bảo mọi hành vi phạm tội và người phạm tội được phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
Trong những năm vừa qua, hoạt động thực hành quyền công tố trong
hoạt động điều tra được Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn thành
phố Hải Phịng đã được chú trọng, góp phần tích cực vào cơng tác đấu
tranh, phịng, chống tội phạm, ổn định an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội. Đặc biệt, khi giải quyết các vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự công cộng, hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra được đề cao và thu được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên hoạt
động thực hành công quyền công tố còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Những hạn chế này xuất phát từ những nguyên khách quan, chủ quan,
trong đó phải kể đến nguyên nhân pháp luật về thực hành quyền cơng tố và
pháp luật hình sự chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn cho Kiểm sát viên khi
thực hành quyền công tố giải quyết vụ án.
Trước yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu giữ vững trật tự an toàn xã
hội bảo đảm cho sự phát triển đất nước trong thời đại công nghệ lần thứ tư,
bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của cơng dân và sự ổn định, phát triển
của thành phố Hải Phịng học viên chọn đề tài: “Thực hành quyền cơng to
trong giai đoạn điều tra đổi với các tội xâm phạm trật tự công cộng trên
cơ sở thực tiễn địa bàn thành phổ Hải Phòng
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội xâm phạm trật tự
công cộng của VKSND. Phân tích, đánh giá thực trạng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội xâm phạm trật tự công cộng
3
của VKSND hai câp tại Hải Phòng giai đoạn từ năm 2016 đên năm 2020,
rút ra kết quả đạt được cũng như những hạn chế của công tác trên. Qua đó,
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội xâm phạm trật tự
công cộng của VKSND hai cấp tại Hải phịng.
3. Tính mói và những đóng góp của đề tài
3.1. Tính mới của đề tài
- Luận văn tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án các tội xâm phạm trật tự
công cộng của VKSND.
- Luận văn đánh giá một cách khách quan thực trạng, những khó
khăn, vướng mắc và nguyên nhân của thực trạng thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự công cộng của Viện kiểm
sát nhân dân cấp hai cấp tại Hải Phòng hiện nay.
- Luận văn đề xuất phương hướng và những giải pháp cụ thể để tiếp
tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các các tội xâm phạm trật tự công cộng
của Viện kiếm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn thành phố Hải Phịng.
3.2. Những đóng góp của đề tài
- Làm sáng tỏ vị trí, vai trị của ngành Kiếm sát trong hoạt động thực
hành quyền công tố, đặc biệt là vấn đề áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố của VKSND hai cấp tại Hải Phòng trong giai đoạn điều tra
các tội xâm phạm trật tự công cộng trong thời gian qua, nhằm đánh giá
một cách đầy đủ, tồn diện, khách quan thực trạng tình hình, từ đó đề ra
những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động này.
- Luận văn có thể được sử dựng làm tài liệu tham khảo cho Kiểm sát
viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp trong điều tra vụ án hình sự và những ai quan tâm lĩnh vực này. Đồng
thời, luận văn cũng là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về
pháp luật nói chung và về thực hành quyền công tố, kiếm sát các hoạt động
tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm, lý thuyết về thực
4
hành quyên công tô được công bô trên các ân phâm; hệ thông pháp luật
Việt Nam quy định về quyền công tố và thực hành quyền công tố; hoạt
động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
đối với các tội xâm phạm trật tự công cộng của VKSND hai cấp trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
- Đe tài nghiên cứu hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND
hai cấp trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong giai đoạn điều tra các tội
xâm phạm trật tự công cộng trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Tổng quan tài liệu
Có nhiều cơng trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp được đăng trên
sách, báo, tạp chí chuyên ngành, bao gồm:
Cuốn sách “Kỹ năng thực hành quyền công tổ và kiêm sát việc tuân
theo pháp luật trong tổ tụng hình sự” của Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội; “Thực hành quyền công tố và kiêm sát các hoạt động tư pháp trong
hoạt động điều tra ” của Lê Hữu Thể.
Một số luận án tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về áp dụng pháp
luật thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, như:
“Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết Hoa; “Áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiêm sát nhân
dãn ở Việt Nam hiện nay ” của Trịnh Duy Tám; “Chat lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hỉnh sự của Viện
kiêm sát nhân dãn tỉnh Hà Nam'” của Trần Thị Đông; “Áp dụng pháp luật
trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện Kiêm sát nhân dân
thành phố Hà Nội” của Nguyễn Duy Hưng; “Áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiêm sát nhân dân ở tỉnh n Bải ” của Hồng Xn Đản.
Có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn của
các tác giả đăng trên các tạp chí chuyên ngành: “Đặc trưng của áp dụng
pháp luật hình sự” của Chu Thị Trang Vân; “Cơ quan thực hành quyền
công tổ trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của tác giả Đỗ Văn
Đương; “Viện kiêm sát nhân dãn các cap cần làm tốt việc tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gan công tố với hoạt động
điều tra ” của tác giả Trần Công Phàn.
5
Các cơng trình nghiên cứu luận giải vê áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và áp
dụng pháp luật trong kiêm sát điều tra các vụ án hình sự nói riêng. Đây là
những cơng trình khoa học có giá trị tham khảo trong quá trình tác giả thực
hiện luận văn. Tuy vậy, đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu
chuyên sâu, toàn diện về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự công cộng của Viện kiểm sát
nhân dân hai cấp trên địa bàn thành phố Hải Phòng hiện nay.
6. Phuong pháp nghiên cứu
Học viên sử dụng các phưong pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, hệ thống hóa; trao đổi
nghiệp vụ với đội ngũ Kiếm sát viên hai cấp trên địa bàn thành phố Hải
phòng trực tiếp tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự công cộng.
7. Cơ cấu đề tài
Đe tài gồm lời nói đầu, kết luận và hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự công cộng.
Chương 2: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự cơng
cộng trên địa bàn Hải Phịng.
CHƯƠNG 1
MỘT SÓ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÃ PHÁP LUẬT VÈ THỤ C HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC
TỘI XÂM PHẠM TRẬT Tự CƠNG CỘNG
1.1. Một sơ vân đê lý luận
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
1.1.1.1. Khải niệm quyền công tố:
Ke từ khi xuất hiện trong Hiến pháp năm 1980 cùng những khái
niệm truyền thống như “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”, khái niệm
6
“qun cơng tơ” cho đên nay đã có nhiêu tác giả đua ra các quan điêm giải
thích cho khái niệm này. Có thể kể đến một vài cơng trình điển hình như:
Cơng trình nghiên cứu về “Những vấn đề lý luận về chế định công to” của
GS.TSKH Lê Văn Cảm; Luận án tiến sĩ “Quyền công tổ ở Việt Nam ” của
TS Lê Thị Tuyết Hoa; Cơng trình nghiên cứu về “Chế định Viện kiêm sát
nhân dân trong Hiến pháp Việt Nam” của GS.TSKH Đào Trí úc; Sách
chuyên khảo “Thực hành quyền công tố và kiêm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra ” của TS. Lê Hữu Thể. Thơng qua việc nghiên cứu
những quan điểm giải thích khái niệm quyền công tố, học viên cho rằng
khái niệm của quyền công tố như sau:
Quyền công tổ là quyền lực công thuộc về Nhà nước, được Nhà nước
giao cho một cơ quan Nhà nước độc lập (ở Việt Nam thì Viện kiêm sát
nhân dân là cơ quan Nhà nước được giao thực hành quyền công tổ) thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa
người đó ra xét xử trước tịa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó. Phạm
vỉ của quyền công tổ bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc
bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công to
Quyền công tố là quyền lực công của Nhà nước, gắn liền bản chất
Nhà nước. Để đảm bảo thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm
tội, Nhà nước thể chế những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tố vào luật TTHS và giao cho CQCT thực hiện các quyền năng đó để
phát hiện và thực hiện truy cứu TNHS đối với người phạm tội. CQCT thực
hành quyền công tố phải là một cơ quan nhà nước và là một cơ quan độc lập
với CQĐT và Toà án. VKSND đã được Nhà nước giao cho thực hiện chức
năng cơng tố “truy tố trước Tồ án nhân dân những người phạm pháp hình
sự”, bên cạnh chức năng chủ yếu khi đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nhằm đảm bảo tính thống nhất của pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Pháp luật TTHS của nước ta hiện nay quy định phạm vi của THQCT
bắt đầu kể từ giai đoạn tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm THQCT như sau:
Thực hành quyền công to là việc sử dụng quyền năng pháp lý trong to tụng
hình sự của cơ quan cơng tổ (tại Việt Nam là Viện kiểm sát nhân dân) để
7
truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ra xét xử trước tòa án và
đồng thời bảo vệ sự buộc tội đỏ.
1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm trật tự cơng cộng
Dưới góc độ khoa học, khái niệm các tội xâm phạm TTCC được đề
cập dưới nhiều quan điểm nhưng chủ yếu các quan điểm đó thường gộp
chung khái niệm của các tội xâm phạm TTCC với các tội xâm phạm an
tồn cơng cộng mà khơng định nghĩa riêng về các tội xâm phạm TTCC.
GS.TS Võ Khánh Vinh và GS.TS Trần Minh Hưởng có quan điểm
tương đồng: các tội xâm phạm an tồn, trật tự cơng cộng có đầy đủ những
đặc điểm chung của tội phạm đó là tính nguy hiểm cho xã hội, tính lồi và
trái với luật hình sự. Tuy nhiên, đề đưa ra khái niệm riêng về các tội xâm
phạm
1 • TTCC thì cần đi sâu hơn nữa về “độ• tỉ chịu
• trách nhiệm
• hình sự
• ”
bởi tội dụ dồ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp và
tội mua dâm người dưới 18 tuổi được quy định ở các Điều 325, 327 Bộ
luật hình sự 2015 đều có chủ thể thực hiện tội phạm phải là người trên 18
tuổi. Tác giả Triệu Văn Nam có quan điểm về khách thể mà các tội xâm
phạm trật tự công cộng tác động đến là “hoạt động bình thường, ổn định xã
hội ở những nơi cơng cộng”, nhưng học viên cho rằng khách the chính bị
các tội xâm phạm TTCC xâm phạm phải là “hoạt động binh thường, ổn
định xã hội ở những nơi công cộng”, những thiệt hại về tài sản của Nhà
nước, tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân chỉ là những khách thể
phụ nhằm phân biệt giữa các tội trong nhóm tội xâm phạm TTCC.
Đồng thời, qua nghiên cứu tính lỗi của các tội xâm phạm TTCC, học
viên thấy lồi của các tội này phải là lồi cố ý bởi lẽ người thực hiện hành vi
phạm tội có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức, điều
khiển hành vi của mình, bản thân người phạm tội cũng nhận thức rõ hành
vi phạm tội của mình gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu
quả nhưng mong muốn hậu quả xảy ra hoặc không mong muốn hậu quả
xảy ra nhưng có thái độ để mặc cho hậu quả xảy ra.
Theo quan điểm của học viên, khái niệm của các tội xâm phạm
TTCC như sau: “Các tội xâm phạm trật tự công cộng là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cổ ý trực tiếp, xâm phạm
8
vào các quy định của Nhà nước vê trật tự cơng cộng, xâm phạm đên hoạt
động bình thường, ơn định xã hội ở những nen công cộng gây thiệt hại về
tài sản Nhà nước, thiệt hại về tỉnh mạng, sức khỏe, tài sản của công dân. ”
Các tội xâm phạm TTCC gồm 12 tội danh được quy định từ Điều
318 đến Điều 329 Bộ luật Hình sự 2015. Dựa theo tiêu chí khách thể
trực tiếp bị xâm hại, có thể phân chia các tội xâm phạm TTCC thành hai
nhóm, đó là:
Thứ nhất, nhóm các tội xâm phạm TTCC liên quan đến tệ nạn xã hội:
Tội hành nghề mê tín, dị đoan (Điều 320); Tội đánh bạc (Điều 321); Tội tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322); Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi
trụy (Điều 326); Tội chứa mại dâm (Điều 327); Tội môi giới mại dâm
(Điều 328); Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329).
Thứ hai, nhóm các tội xâm phạm TTCC liên quan đến trật tự xã hội:
Tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318); Tội xâm phạm thi thể, mồ mả,
hài cốt (Điều 319); Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có (Điều 323); Tội rủa tiền (Điều 324); Tội dụ dồ, ép buộc
hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325).
1.1.3 Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các tội xâm phạm trật tự công cộng
Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra các tội xâm phạm
trật tự công cộng có những đặc điểm chung của thực hành quyền cơng tố
của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra đó là:
- Trong khi hoạt động điều tra có nhiệm vụ chứng minh toàn bộ việc
phạm tội một cách khách quan, toàn diện, cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ
gỡ tội thì hoạt động cơng tố nhằm thực thi quyền truy cứu trách nhiệm hình
sự, quyết định việc buộc tội, việc gỡ tội; quyết định việc hạn chế các quyền
công dân như bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác;
quyết định việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
- Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra bao gồm hành vi
và các quyết định tố tụng mang tính cơng khai theo trình tự, thủ tục, thẩm
quyền tố tụng do pháp luật quy định. Các quyết định cơng tố thể hiện dưới
dạng văn bản của người có thẩm quyền như quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can; quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố
9
bị can. Các quyêt định tô tụng của VKSND đêu được gửi cho những người
có liên quan theo quy định của pháp luật.
- Các hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
đều nhân danh nhà nước, chịu sự lãnh đạo tập trung của Viện trưởng
VKSND mỗi cấp và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng
VKSNDTC. VKSND cấp trên có quyền rút, hủy bở các quyết định cơng tố
khơng có căn cứ và trái pháp luật của VKSND cấp dưới và yêu cầu ra
quyết định đúng pháp luật. Điều này khác với tổ chức hoạt động điều tra,
CQĐT cấp trên khơng có quyền rút hoặc hủy bỏ các quyết định tố tụng của
CQĐT cấp dưới.
- Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra có đặc điểm khác
với hoạt động kiểm sát điều tra. Tuy cùng một chủ thể tiến hành là VKS
nhưng đổi tượng của thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra là
sự việc phạm tội, hành vi phạm tội và người phạm tội, còn đối tượng của
hoạt động kiểm sát điều tra là các chủ thể tiến hành hoạt động điều tra (Cơ
quan điều tra, Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra), nếu
phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, VKS có quyền kiến nghị, yêu cầu
các chú the chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật bị vi phạm.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, song song với
việc xem xét đánh giá những tài liệu, chứng cứ để buộc tội, VKSND cũng
phải xem xét, đề ra các yêu cầu điều tra đe tìm kiếm, xem xét, đánh giá
những tinh tiết gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Đây là đặc trưng của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra với hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử bởi trong giai đoạn xét xử, khi thực hành quyền công tố, VKS chỉ thực
hiện nhiệm vụ quan trọng nhất là bảo vệ bản cáo trạng và đề nghị mức
hình phạt đối với người phạm tội.
Ngồi những đặc điểm trên, thực hành quyền cơng tố ở giai đoạn
điều tra các các tội xâm phạm trật tự cơng cộng cịn có những đặc điểm
riêng như sau:
- Nhóm các tội xâm phạm trật tự cơng cộng thường phức tạp, khó
phân loại hành vi phạm tội của những người thực hiện hành vi phạm tội
bởi các vụ án thường có nhiều đối tượng, cùng thực hiện một hoặc nhiều
10
hành vi vi phạm pháp luật (tội gây rối trật tự công cộng, tội đánh bạc, tội
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, tội môi giới mại dâm, tội chứa mại dâm,
tội rửa tiền), trong quá trình điều tra, các đối tượng tìm mọi cách để đổ lỗi
cho nhau hoặc che giấu hành vi phạm tội của người khác. Do đó, khi thực
hành quyền cơng tố, Kiểm sát viên được phân công trước hết phải phối
hợp với cán bộ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đảm bảo các đối tượng bị
tạm giữ, tạm giam riêng rẽ, tránh việc các đối tượng thông cung, cản trở
hoạt động điều tra. Đồng thời, Kiểm sát viên phải phối hợp với Điều tra
viên hỏi cung các bị can để đánh giá tính trung thực trong lời khai cùa các
đối tượng, qua đó phân loại mức độ nguy hiểm, tính chất đồng phạm của
các đối tượng.
- Nhóm các tội xâm phạm trật tự cơng cộng xảy ra trên địa bàn quận,
huyện đa số thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng
do đó, khi thực hành quyền cơng tố, Kiểm sát viên phải phối họp cùng với
Cơ quan Cành sát điều tra trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
các bị can để vừa đảm bảo việc các bị can khai báo đúng sự thật, không bỏ
trốn trong suốt quá trình giải quyết vụ án, vừa đảm bảo quyền con người
của các bị can bởi lẽ, đối với các bị can phạm tội thuộc trường họp ít
nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng thi việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam đối với bị can phải thỏa mãn những quy định tại khoản 2 Điều 119
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Thơng qua những đặc điểm đã phân tích trên, theo quan điểm của
học viên: “Thực hành quyền công to trong giai đoạn điều tra các tội xâm
phạm trật tự công cộng là việc sử dụng quyền năng pháp lỷ mang tính
quyền lực Nhà nước trong tổ tụng hình sự. Trong đó, Viện kiểm sát nhân
dân ban hành các văn bản cả biệt có tác dụng làm phát sinh, thay đôi hay
chẩm dứt quan hệ pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án, bảo đảm cho
việc truy cứu trách nhiệm đủng pháp luật hình sự đối với người thực hiện
hành vi phạm tội xâm phạm đen trật tự công cộng ”.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền cơng tố trong
giai
đoạn
điều tra các tội
trật
O
•
• xâm phạm
•
• tự
• cơng
O cộng
• O
1.1.4.1. yếu tố về mặt pháp lý
Thực hành quyền công tố ở giai đoạn VKSND kiểm sát nhân dân là
11
hoạt động tơ tụng hình sự, phải được tn theo trình tự, thủ tục tơ tụng
nghiêm ngặt giữa một bên là tội phạm và người phạm tội với một bên là các
cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước trao quyền xử lý TNHS đối với
người phạm tội. Cơ sở pháp lý để áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
cơng tố là Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn
bản pháp luật khác có liên quan. Cơ sở pháp lý càng hồn thiện thì cơng tác
thực hành quyền cơng tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và
với các tội xâm phạm trật tự công cộng nói riêng càng được bảo đảm.
Hiến pháp, đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất khẳng định việc tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tất cả mọi
trường hợp. Mặt khác, việc kết tội phải đúng theo trình tự luật định và chỉ
do cơ quan có thẩm quyền thực hiện.
về Bộ luật Hình sự: Hiện nay Bộ luật Hình sự là văn bản pháp luật
duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt đối với mọi tội phạm nói
chung và các tội xâm phạm trật tự cơng cộng nói riêng. Đây là cơ sở pháp
lý quan trọng trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra đối với
các tội xâm phạm trật tự cơng cộng. Khi xây dựng pháp luật nói chung hay
pháp luật hình sự nói riêng, nhà làm luật ln cố gắng dự trù các tình
huống, mối quan hệ có thể xảy ra trong đời sống xã hội thực tế để đưa ra
các quy định pháp luật phù họp để điều chỉnh những tình huống, mối quan
hệ đó. Tuy nhiên, đời sống xã hội luôn biến đổi, diễn ra phức tạp, hành vi
phạm tội ngày càng tinh vi, khó phát hiện do đó để đảm bảo cơng tác đấu
tranh phịng ngừa tội phạm nói chung và hoạt động thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm trật tự cơng cộng có hiệu quả
pháp luật hình sự ở mồi giai đoạn phát triển của xã hội phải phù hợp với
thực tiễn, mức độ của hành vi phạm tội. Từ năm 1985 đến nay đã 03 lần
pháp điển hóa với 03 Bộ luật Hình sự, trải qua 08 lần sửa đổi, bổ sung đã
kịp thời đáp ứng được cơng tác đấu tranh, phịng chống tội phạm nói
chung và tội phạm xâm phạm trật tự cơng cộng nói riêng.
về Bộ luật Tố tụng hình sự, đây là văn bản quy phạm pháp luật quy
định các vấn đề liên quan đển thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng pháp
luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có thực hành
quyền cơng tố ở giai đoạn điều tra của VKSND. Bộ luật Tố tụng hình sự
12
quy định một cách toàn diện những vân đê liên quan đên thủ tục tơ tụng
giải quyết án hình sự.
Ngồi ra cịn có các văn bản hướng dẫn việc áp dụng pháp luật, các
quy định tại chương về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, xâm
phạm trật tự xã hội, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự, Bộ
luật Tố tụng hình sự, nhất là các văn bản của các cơ quan tư pháp ở Trung
ương như Thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, thông tư
liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân... Tuy là văn bản dưới
luật nhưng đây chính là hành lang pháp lý để định hướng cho hoạt động
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đúng thẩm quyền,
trình tự, thủ tục, trên cơ sở đó đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật về nội
dung đầy đủ giá trị pháp lý.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thể
hiện sự cải tiến trong kỹ thuật lập pháp, thay thế nhũng điều luật chung
chung bằng những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết
vụ án hình sự cũng như các dấu hiệu tội phạm một cách khoa học, mang
tính khái quát cao, quy định chặt chẽ yếu tố định tội, định khung hình phạt,
đảm bảo thống nhất trong áp dụng pháp luật. Sự cải tiến của Bộ luật Tố
tụng hình sự và Bộ luật Hình sự 2015 góp phần đảm bảo cơng tác đấu
tranh, phịng chống tội phạm nói chung và hoạt động thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm trật tự công cộng nói
riêng có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở mối quan hệ công tác giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong việc xác định tội danh, áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
1.1.4.2. Yeu tổ về mặt tổ chức, nhân sự
VKSNDTC trong thực tiễn chỉ đạo điều hành đã luôn chú ý xây dựng
và hồn thiện bộ máy, trong đó xác định rõ, cụ thể cơ cấu, chức năng
nhiệm vụ của các cục, vụ, việc... thích ứng với từng giai đoạn lịch sử, phù
hợp với Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND mỗi khi Quốc hội, Nhà nước
ban hành mới hoặc sửa đối bố sung các văn bản đó. VKSNND cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương được bảo đảm về tố chức, cơ cấu tố chức
hồn chỉnh, trong đó có vai trò của lãnh đạo Viện, lãnh đạo các phòng
nghiệp vụ cũng như của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên có năng lực chun
mơn nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị vững vàng, trong sáng.
13
u tơ vê mặt tơ chức có ảnh hưởng trong công tác thực hành quyên
công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND đối với các tội xâm phạm trật tự
cơng cộng cịn được the hiện ở mức độ hồn thiện và đồng bộ về tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp khác, đặc biệt là Cơ quan điều tra, Tòa
án các cấp cũng như cơ chế phối họp giữa VKSND với các cơ quan này.
Ngoài ra, trong giải quyết án hình sự về các tội xâm phạm trật tự
cơng cộng cịn có vai trị tham gia hết sức quan trọng của các cơ quan hỗ
trợ tư pháp như hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, tổ chức giám định
cũng như chất lượng giám định viên, luật sư...
1.1.4.3. Các yếu tố khác
- Sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng như các tổ chức
xã hội và của nhân dân đối với công tác thực hành quyền công tố
- Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và công tác thanh tra, kiểm tra
trong ngành Kiểm sát nhân dân.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị của Kiểm sát viên:
- Ngoài ra cịn có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Đó là việc
tăng cường và hồn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của ngành Kiểm sát nói
chung, hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra nói riêng;
tăng cường mối quan hệ phối họp liên ngành trong giải quyết án hình sự.
1.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các tội
trật
• xâm >phạm
•
• tự
• cơng
~ cộng
~
1.2.1. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Bộ luật TTHS năm 2003 thể chế các quan điểm của Đảng về đấu
tranh phòng chống tội phạm được the hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ X và các nghị quyết khác của Ban chấp hành Trung ương và Bộ
Chính trị, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm
2011). Tuy nhiên sau hơn 15 năm thực hiện đã bộc lộ một số khó khăn,
vướng mắc. Cụ thể:
- Không quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra.
14
- Chưa quy định cụ thê nhiệm vụ, quyên hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với hoạt động điều tra và các
quyết định tố tụng của CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một sổ hoạt động điều tra.
Bộ luật TTHS năm 2015 được ban hành đã quy định cụ thể và rõ
ràng hơn về THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự so với BLTTHS
năm 2003.
- BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND khi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án.
- Bổ sung các quy định nhàm bảo vệ quyền cơng dân, quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị nghi thực hiện tội phạm, bị can trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự. Thay đổi thủ tục bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, theo đó một người chỉ bị bắt khẩn cấp khi VKS phê chuẩn lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của CQĐT.
1.2.2. Pháp luật về nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng
- Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985: Những năm 60 của thế kỷ XX,
TANDTC đã ban hành các báo cáo tổng kết, các chỉ thị hướng dẫn về
đường lối xử lý một số tội phạm nguy hiểm và phổ biến, tuy nhiên các tội
phạm liên quan đến trật tự, an tồn cơng cộng chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể. Đến ngày 15/3/1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa
miền nam Việt Nam đã ban hành sắc luật 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy
định “Các tội và hình phạt”. Trong đó, nhóm tội phạm xâm phạm đến trật
tự công cộng được quy định tại Điều 9. Tháng 4/1976, Bộ Tư pháp ban
hành thông tư số 03-BTP hướng dẫn cụ thể hơn các hành vi xâm phạm đến
trật tự công cộng.
- Giai đoạn áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1985: Bộ luật Hình sự năm
1985 có hiệu lực từ ngày 01/01/1986, được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào
các năm 1989, 1991, 1992 và năm 1997. Nhóm tội xâm phạm trật tự cơng
cộng được quy định tại Mục B Chương VIII, gồm: ‘Tộ/ gây rối trật tự
cơng cộng; Tội hành nghề mê tín, dị đoan gây hậu quả nghiêm trọng; Tội
đảnh bạc, tô chức đảnh bạc hoặc gả bạc; Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà cỏ; Tội chứa mại dâm, tội môi giới mại
15
dâm; Tội tô chức dùng chât ma túy; Tội xâm phạm mơ mả, hài cót". Bộ
luật Hình sự năm 1985 đã tương đối hồn thiện, góp phần khơng nhỏ vào
cơng tác đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm nói chung cũng như
đảm bảo trật tự cơng cộng nói riêng.
- Giai đoạn áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999: Bộ luật Hình sự năm
1999 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2000. Đến năm 2009, Bộ luật Hình sự
năm 1999 được sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường sự đấu tranh của Nhà
nước trước những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của tội phạm, đảm bảo ổn
định xã hội và sự phát triến chung của nền kinh tế. Đã lượng hóa việc xử
lý hình sự đối với hành vi phạm tội (đánh bạc trái phép từ hai triệu đồng
đến dưới năm mươi triệu đong); lượng hóa tình tiết tăng nặng (từ năm
mươi triệu đồng trở lên); sửa đối tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội
mà có thành tội rửa tiền theo tinh thần của Công ước chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia và các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung các dấu hiệu định tội, định
khung tăng nặng TNHS cũng như hình phạt đối với nhóm tội xâm phạm
trật tự công cộng đã khắc phục được những hạn chế, bất cập của những
quy định về nhóm tội này trong Bộ luật Hình sự năm 1999, đồng thời tạo
điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật thống nhất, có thể
ngăn ngừa sự tùy tiện hoặc thậm chí là tiêu cực trong hoạt động đấu tranh
chống tội phạm.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT Tự CƠNG CỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHỊNG
2.1. Thực trạng thực hành quyền cơng tố ở giai đoạn điều tra các
tội
trật
• xâm lphạm
e
• tự
• cơng
“ cộng
• ” trên địa
• bàn Hải Phịng
~
2.1.1. Tình hĩnh chung trên địa bàn thành phổ Hải Phịng
a. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội
16
Hải Phịng là thành phơ cảng quan trọng, trung tâm cơng nghiệp,
cảng biển lớn nhất phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là trung tâm kinh
tế, vàn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và công nghệ của Vùng
duyên hải Bắc Bộ. Đây là thành phố lớn thứ 3 cả nước, lớn thứ 2 miền Bắc
sau Hà Nội. Hải Phòng còn là một trong 5 thành phố trực thuộc trung
ương, đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia. Tính đến tháng 12/2020, dân số
Hải Phịng là 2.053.493 người, trong đó dân cư thành thị chiếm 40,73% và
dân cư nơng thơn chiếm 59,27%. Đến nay, Hải Phịng đã có quan hệ xuất
nhập khẩu hàng hố với trên 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trung
tâm Hội chợ triển lãm quốc tế Hải Phòng là trung tâm hội chợ lớn nhất của
Việt Nam hiện nay. Hải Phòng đang phấn đấu để trở thành một trong
những trung tâm thương mại lớn nhất của cả nước.
b. Cơ cẩu tô chức của Viện kiếm sát nhân dân thành pho Hải Phòng
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng gồm có 01 Viện trưởng
và 03 Phó Viện trưởng.
- 12 phịng nghiệp vụ và Văn phòng
- 15 Viện kiểm sát quận, huyện gồm 07 quận: Hồng Bàng, Ngô
Quyền, Lê Chân, Kiến An, Dương Kinh, Hải An, Đồ Sơn; 08 huyện: An
Dương, Thủy Nguyên, Kiến Thụy, An Lão, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Cát Hải,
Bạch Long Vĩ.
Viện kiểm sát hai cấp thành phố Hải phịng có tổng số 278 biên chế,
trong đó có 01 Kiểm sát viên cao cấp; 58 Kiểm sát viên trung cấp và 110
Kiểm sát viên sơ cấp.
2.1.2. Thực trạng thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các
tội
trật
• xâm ±phạm
•
• tự
• cơng
ơ cộng
• O trên địa
• bàn Hải Phòng
O
2.7.2.7. Ket quả đạt được
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tại Hải Phịng đã thực hiện có hiệu
quả chức năng nhiệm vụ của Ngành nói chung và cơng tác thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra nói riêng, cùng với các cơ quan tố tụng
ở địa phương góp phần giữ vững ổn định về an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội ớ địa phương góp phần tích cực vào cơng cuộc đấu tranh
17
phịng chơng tội phạm. Khi thực hành qun cơng tơ ở giai đoạn điêu tra
các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp
tại Hải Phịng ln chủ động tham gia nghiên cứu hồ sơ ngay từ ban đầu,
bám sát quá trình tố tụng, phối hợp chặt chẽ với các cấp các ngành ở địa
phương đế hoàn thành chức năng nhiệm vụ được giao.
Bảng 2.1: Thống kê tội phạm xâm phạm trật tự cồng cộng ở Hải Phòng
từ năm 2016 đến năm 2020
Năm
2016
2017
2018
2019
2020
Khỏi tố
Kết thúc điều tra
Bỉ• can
Vu•
Bi• can
Vu•
160
561
167
588
178
176
648
653
752
188
752
188
140
140
589
589
592
168
593
166
Truy tố
Vu•
Bi• can
165
581
175
649
189
758
140
589
592
166
Xét xử
Bi• can
Vu•
162
573
171
638
752
188
141
598
167
598
Việc điêu tra, truy tô và xét xử luôn kịp thời đảm bảo tính khách
quan, cơng bằng, đúng người, đúng tội, khơng có vụ án nào đình chỉ điều
tra vì khơng có hành vi phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.
Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị cơ bản phù họp với quyết định
của Hội đồng xét xử, với mức hình phạt nghiêm khắc và tương xứng với
tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đáp ứng được yêu
cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm trật tự cơng cộng trong
tình hình hiện nay. Do vậy, trong thời gian qua riêng các loại tội phạm
xâm phạm trật tự công cộng không có trường hợp nào Cơ quan điều tra
khởi tố, Viện kiểm sát truy tố mà Tịa án tun vơ tội, khơng có vụ án nào
bị hủy án, oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
Từ năm 2016, để nâng cao chất lượng cơng tác của ngành kiểm sát
Hải Phịng, Kiểm sát viên tham gia hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, hởi cung
bị can ... trước khi phê chuẩn khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn
là yêu cầu nghiệp vụ bắt buộc. Nhờ vậy, đã đảm bảo việc khởi tố đúng đối
tượng và tội danh, không để lọt người phạm tội, số lượng các vụ án và bị
can đã khởi tố điều tra sau đó phải đình chỉ vì khơng đủ căn cứ buộc tội.
18
Bảng 2.2: Thông kê BPNC áp dụng đôi với bị can phạm tội xâm phạm
đến trật tự công cộng ở Hải Phịng
Năm
2016
2017
2018
2019
2020
Tạm
giam
50
65
57
45
54
Đặt tiền để
bảo đảm
0
0
0
0
0
Bảo lĩnh
CĐKNCT
22
17
28
21
25
444
566
667
523
514
Tam
• hỗn
xuất cảnh
15
20
18
19
21
Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chê theo Bộ luật Tô tụng hình sự
được sự chỉ đạo thường xuyên sát sao của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
nên trong những năm qua Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tại Hải Phịng đã
đạt được nhiều kết quả tích cực trong cơng tác áp dụng thay đối huỷ bỏ
quyết định phê chuấn, huỷ bỏ các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn
của Cơ quan điều tra, nhất là đối với các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam.
Khi bị can phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, Viện kiếm sát nhân
dân hai cấp tại Hải Phịng sẽ khơng phê chuẩn quyết định áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam nếu khơng có căn cứ vững chắc xác định bị can
thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm đ
khoản 1 Điều 119 BLTTHS 2015.
Số bị can do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải đình chỉ sau khi
đã khởi tố (kể cả vì lý do không tội hoặc không đủ căn cứ cấu thành tội)
ngày một giảm, số vụ án đã đình chỉ nhưng sau đó phải phục hồi điều tra
do đình chỉ sai hầu như khơng có. Viện kiểm sát đã kiểm sát 100% các
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ của Cơ quan điều tra. Tất cả các quyết
định đó đều đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật. Thực tế, như đã phân tích
ở trên, do đã làm tốt việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra đối với các tội xâm phạm trật tự công cộng, trong giai đoạn năm 2016
- 2020, Cơ quan điều tra chỉ đình chỉ 01 vụ án/01 bị can do có sự thay đối
về quy định pháp luật dẫn đến hành vi phạm tội của bị can không đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Từ năm 2016 đến năm 2020, đối
với các tội xâm phạm trật tự công cộng, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp
19
tại Hải Phịng đã truy tơ 835 vụ/3169 bị can, khơng đình chỉ, tạm đinh chỉ
trường hợp nào.
2.1.2.2. Những bất cập, hạn chế
a. Những bất cập, hạn chế trong việc áp dụng thống nhất pháp luật
hình sự:
Thứ nhất, vướng mắc trong xử lý hành vi có dấu hiệu phạm tội Gây
rối trật tự công cộng: BLHS năm 2015 đã quy định mở rộng về điều kiện
truy cứu TNHS đối với tội gây rối trật tự công cộng, nhung việc quy định
như vậy lại dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng lúng túng trong việc hiểu thế nào là “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an tồn xã hội”. Có ý kiến cho rằng do chưa có hướng dẫn về tình
tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” nên vẫn áp
dụng hướng dẫn của Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của
Hội đồng thẩm phán để xác định những thiệt hại nghiêm trọng đến mức bị
truy cứu TNHS về tội gây rối trật tự cơng cộng. Có ý kiến lại cho ràng các
hành vi gây rối xâm phạm đến các quy định của Nhà nước, địa phương về
bảo đảm an ninh, trật tự, an tồn xã hội (ví dụ: phòng chống pháo nổ dịp
Tet Nguyên đán) dù chưa gây ra hậu quả thiệt hại về sức khỏe, tài sản
những cũng đã đủ dấu hiệu pháp lý cấu thành tội gây rối trật tự công cộng
và phải bị truy cửu TNHS.
Thứ hai, vướng mac trong xử lý hành vi có dấu hiệu phạm tội Tơ
chức đánh bạc hoặc gá bạc: Trên địa bàn thành phố Hải Phòng chưa thống
nhất nhận thức khi truy cứu TNHS đối với người phạm tội về tội Đánh bạc
theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 hay cả hai tội Đánh bạc theo Điều 321
Bộ luật Hình sự 2015 và Gá bạc theo Điều 322 Bộ luật Hình sự trong
trường hợp người phạm tội vừa có hành vi cho 09 người khác đánh bạc tại
nhà của mình, có thu tiền “hồ” của những người tham gia đánh bạc, đồng
thời đối tượng đó cũng tham gia đánh bạc tại đây, với số tiền chứng minh
cả đám bạc sử dụng để đánh bạc trên 05 triệu đồng và dưới 20 triệu đong.
b. Một số Kiểm sát viên chưa nhận thức nghiêm túc về yêu cầu nghiệp
vụ này nên dần tới tinh trạng nội dung bản yêu cầu điều tra chưa bám sát vụ
án, thiếu cụ thể, khơng có giá trị nhiều cho việc điều tra. Việc Kiểm sát viên
kiểm tra tiến độ giải quyết vụ án, đôn đốc thực hiện yêu cầu Điều tra đôi khi
20
cịn chưa được thực sự chú trọng. Điều đó dẫn tới việc thời gian giải quyết
vụ án kéo dài, cá biệt có vụ án phải gia hạn điều tra nhiều lần vì Điều tra
viên chậm tố chức hoặc khơng thực hiện những yêu cầu đề ra làm cho quan
hệ công việc căng thẳng, phải báo cáo lãnh đạo can thiệp.
c. Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án xâm phạm trật tự công cộng đôi khi chưa kịp thời, thiếu đầy đủ, đôi khi
chưa chủ động, tích cực và hiệu quả chưa cao. Dần đến việc khởi tố vụ án,
khởi tố bị can tại một số quận huyện chưa được chặt chẽ, kịp thời, còn bỏ
lọt tội phạm, nhiều vụ án chậm khởi tố.
d. Việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cịn bộc
lộ những thiếu sót ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng, tiến độ giải quyết
vụ án.
e. Tình trạng Viện kiểm sát trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung cho
Cơ quan điều tra còn nhiều.
Nguyên nhân bất cập, hạn che của trong công tác thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm trật tự công cộng của Viện
kiểm sát nhân dân hai cấp tại Hải Phòng thường xuất phát từ yếu tố chủ
quan từ chính những cán bộ, Kiểm sát viên được phân công trực tiếp thực
hiện hoạt động và mối quan hệ phối họp công tác giữa CQĐT và VKS.
Ngồi ra, cịn có thể kể đến một số ngun nhân khách quan như: dấu hiệu
pháp lý của một số tội phổ biến cịn mang tính khái qt cao, có nhiều
cách hiểu, lý giải khi định tội danh; điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện
làm việc của Kiểm sát viên còn thiếu thốn, lạc hậu, chưa đáp ứng được u
cầu cơng tác.
2.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật
2.2.1. Kiến nghị hồn thiện chế định Thực hành quyền cơng tố theo
hướng (1) tăng thấm quyền cùa Viện kiếm sát khi giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm từ giai đoạn tiếp nhận của lực lượng Công an xã,
phường, thị trấn; (2) đưa Viện kiểm sát là cơ quan có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp ngăn chặn trên cơ sở đề nghị của CQĐT; (3) bổ sung cơ
chế đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu kiểm tra, xác minh, yêu cầu điều tra
của Viện kiếm sát.
21
2.2.2. Kiên nghị hồn thiện pháp luật hình sự vê các tội xâm phạm
trật tự công cộng
Thứ nhất, cần thiết phải ban hành hướng dẫn thống nhất, cụ thể đối
với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội ” của
tội Gây rối trật tự cơng cộng (Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015) và tình tiết
“sử dụng mạng intermet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử để phạm tội” của tội Đánh bạc (điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật
Hình sự 2015) nhằm đảm bảo việc áp dụng quy định pháp luật được thống
nhất, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc có nhiều dấu hiệu khách
quan tương đồng dẫn đến gây lúng túng trong việc định tội danh đối với
người phạm tội. Khơng ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng có
quan điểm khác nhau trong việc xử lý hành vi phạm tội. Do đó, cần phân
biệt hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc và gá bạc bằng cách quy định cụ
thể yếu tố định tội trong Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015 hoặc tách tội tổ
chức đánh bạc và gá bạc ra thành 02 Điều luật riêng biệt.
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền cơng tố ờ giai
đoạn
điều
tra
các
tội
xâm
phạm
trật
tự
cơng
cộng
trên
địa
bàn
Hải
Phịng
•
•
1.
•
•
•
~ • ơ
•
~
2.3.1. Những giải pháp chung
Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của
đội ngũ Kiếm sát viên. Nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền
công tổ trong việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm trật tự
công cộng của Viện kiểm sát nhân dân. Nâng cao hiệu quả hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can có
căn cứ, đúng pháp luật và thực hiện các giải pháp nhằm khắc phục tinh
trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Phối
họp chặt chẽ với Cơ quan điều tra và các cơ quan chuyên môn khác cùng
cấp, giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và Viện kiểm sát nhân dân cấp
dưới trong công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Ban
hành văn bản pháp luật hướng dẫn, tố chức thực hiện Bộ luật Hình sự, Bộ
luật Tố tụng hình sự và những văn bản có liên quan.
2.3.2. Giải pháp cụ thể
Thường xuyên tống kết, rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ công
22
tác thực hành quyên công tô trong giai đoạn điêu tra các vụ án xâm phạm
trật tự công cộng. Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của Viện
kiếm sát nhân dân thành phố. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của ngành Kiểm sát trong giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ
án xâm phạm trật tự cơng cộng nói riêng. Đổi mới về nội dung và phương
pháp công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án
xâm phạm trật tự công cộng. Thường xuyên xin ý kiến chỉ đạo của cấp
trên. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ của ngành kiểm sát.
KÉT LUẬN
Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, Viện kiểm sát nhân
dân được giao cho chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Đây là một nhiệm vụ rất vinh dự nhưng cũng rất nặng
nề mà Viện kiểm sát nhân dân được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho
gánh vác. Đến nay, công tác kiểm sát đã đạt được những kết quả tốt, góp
phần khơng nhỏ vào sự nghiệp đối mới của đất nước song cũng vẫn cịn
những hạn chế tồn tại mà tồn ngành kiểm sát phải xác định để có hướng
phấn đấu khắc phục nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; công tác kiểm
sát được tạo nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng cịn gặp khơng ít những
khó nhăn, vướng mắc trên các phương diện cả về lý luận và thực tiễn. Để
góp phần vào việc tháo gỡ những khó khăn đó, học viên đã cố gắng đi sâu
nghiên cứu một số vấn đề lý luận về Thực hành quyền công tố ở giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự nói chung, các vụ án xâm phạm trật tự cơng
cộng nói riêng của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tại Hải Phòng. Đồng
thời trên cơ sở sử dụng kết họp các phương pháp nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội của thành phố Hải Phòng, các ảnh hưởng của chúng đến hoạt động
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm trật tự
công cộng của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tại Hải Phòng.
Trong thực hiện quyền năng tố tụng của mình, Viện kiểm sát nhân
dân hai cấp tại Hải Phòng đều quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng
là, “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
23
với hoạt động điêu tra, góp phân giữ vững ơn định chính trị, an ninh trật tự
ở địa phưong, bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân trong tố tụng
hình sự”. Bên cạnh đó hoạt động thực hành quyền cơng tố ở giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm trật tự cơng cộng
nói riêng vẫn cịn bộc lộ hạn chế, thiếu sót, như: Áp dụng pháp luật chưa
chính xác; có trường họp truy tố chưa đúng tội danh; có trường họp bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội; tinh trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung vẫn
xảy ra phổ biến; việc kiến nghị vi phạm thiếu sót trong quản lý nhà nước,
quản lý xã hội về an ninh trật tự qua công tác áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền cơng tố cịn hạn chế. Vì vậy, để bảo đảm hoạt động thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ
án xâm phạm trật tự cơng cộng nói riêng cần phải đối mới và nâng cao
chất lượng của bộ máy tổ chức cán bộ và hoạt động của Viện kiểm sát;
nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực chun
mơn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, Kiếm sát viên; nâng cao trách nhiệm
và năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm
sát; đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách nhiệm
trong công tác thực hành quyền công tố và kiếm sát điều tra; nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng; tăng cường sự phối hợp
giữa Viện kiếm sát với các phịng ban, đơn vị khác trong cơng tác đấu
tranh phịng chống tội phạm; hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ sở pháp lý
của hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và tăng cường
công tác giải thích, hướng dẫn luật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng
cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát và hoàn
thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên.
Trên đây là toàn bộ nội dung luận văn mà học viên đã trình bày, tuy
cịn những hạn chế nhất định do bước đầu làm quen với việc nghiên cứu
khoa học, bản thân cịn nhiều hạn chế về trình độ kiến thức, khả năng diễn
đạt, cũng về thời gian nghiên cứu, điều kiện thâm nhập thực tiễn... nên luận
văn chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy học viên
rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô, các bạn đồng nghiệp và
những ai quan tâm đến đề tài này, giúp học viên nâng cao hơn nữa, hoàn
thiện hơn nữa kỹ năng nghiên cứu phục vụ cho công việc sau này.
24