ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HOÀNG HẢI
NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
1
CỦA PHÁP NHÂN BỊ TRUY cứu TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỤ
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hĩnh sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC sĩ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYÊN VĂN TUÂN
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tơi, các kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa được công hố
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn bảo đàm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả
các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chỉnh theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đê tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tỏi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Hải
DANH MUC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
•
Viết tắt
Viết đầy đủ
BLHS
Bơ• lt
• Hình sư•
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng Hình sự
PLHS
Pháp luật Hình sự
PLTTHS
Pháp luật Tố tụng Hình sự
THTT
Tiến hành tố tụng
TNHS
Trách nhiêm
• hình sư•
TPHS
Tư pháp hình sự
TTHS
Tố tụng Hình sự
CSĐT
Cảnh sát điều tra
CQĐT
Cơ quan điều tra
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
i
Danh mục các chữ viết tắt
ii
Mục lục
iii
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT sô VÀN ĐÉ LÝ LUẬN VÊ
NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
PHÁP NHÂN BỊ TRUY cứu TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỤ
1.1.
Cơ sở lý luận vê trách nhiệm hình sự của pháp nhân
9
thương mại
1.1.1.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
9
1.1.2.
Học thuyết về mơ hình truy cứu trách nhiệm hình sự
20
pháp nhân
1.1.3.
Mục đích, ý nghĩa của chế định trách nhiệm hình sự
25
của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam
1.2.
Khái niệm, đặc điểm người đại diện theo pháp luật
27
của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự và
mối liên hệ với pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm
hình sự
1.2.1.
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy
27
cứu trách nhiệm hình sự
1.2.2.
Mối liên hệ giữa người đại diện theo pháp luật đối
33
với pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
1. 3.
Pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới về
36
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự và người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân
1. 3.1.
Cộng hồ Pháp
36
1. 3.2.
Nhât
• bản
38
1. 3.3.
Thái lan
40
1. 3.4.
Australia
41
1. 3.5.
Hoa kỳ
43
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TUNG
HÌNH
SƯ
VIÊT
NAM
VÈ
NGƯỜI
ĐAI
•
•
•
•
DIÊN
• THEO PHÁP LUẢT
• CỦA PHÁP NHÂN
THƯƠNG MAI
• BI• TRUY cúu TRÁCH NHIÊM
•
HÌNH SƯ
• VÀ THƯC
• TIỄN ÁP DUNG
•
2. 1.
Địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật của
47
pháp nhân thương bị truy cứu trách nhiệm hình sự
2. 1.1.
Căn cứ xác định địa vị pháp lý của người đại diện
47
theo pháp luật của pháp nhân bị truy cửu trách nhiệm
hình sư•
2. 1.2.
Căn cứ pháp lý xác định người đại diện theo pháp
49
luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
2. 1.3.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật
50
của pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm
hình sư•
2. 2.
Sự tham gia của người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm hình
iv
57
r
sự trong tơ tụng hình sự
2.2. 1.
Sự tham gia của người đại diện theo pháp luật của
57
pháp nhân thương mại trong giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố
2.2. 2.
Sự tham gia cùa người đại diện theo pháp luật của
64
pháp nhân thương mại trong giai đoạn xét xử.
2.3.
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về người
65
đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu
trách nhiệm hình sự
2.3. 1.
Một số vụ án pháp nhân thương mại phạm tội
65
2.3. 2.
Thuận lợi và khó khăn
72
Chương 3: U CẦU HỒN THIỆN VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO CHÁT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG TIẾN HÀNH TÓ TỤNG ĐÓI VÓI
NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
PHÁP NHÂN BỊ TRUY cúu TRÁCH NHIỆM
HÌNH Sự
3.1.
u cầu hồn thiện quy định pháp luật về pháp nhân
79
và người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị
truy cứu trách nhiệm hình sự
3.1. 1.
Yêu cầu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
79
3.1. 2.
Yêu cầu cải cách tư pháp
80
3.1. 3.
Yêu cầu phòng, chống tội phạm
81
3.2.
r
.
r
ĩ
Giải pháp nâng cao chât lượng hoạt động tiên hành tơ 82
tụng hình sự đối với người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
3.2. 1.
Giải pháp hồn thiện pháp luật về pháp nhân và
V
82
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy
cứu trách nhiệm hình sự
3.2.2.
Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng
89
pháp luật đối với người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
KẾT LUẬN
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
vi
MỞ ĐÀU
1. Tính cấp thiết
Nằm trong định hướng chiến lược cải cách tư pháp, ngày 27/11/2015
Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được thông qua đánh dấu một sự kiện
quan trọng cho sự đổi mới về nền tư pháp hình sự nước nhà. Tuy còn nhiều
hạn chế về nội dung, kỹ thuật lập pháp dần đến sự kiện ban hành Luật số
12/2017/QH14 về sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự; nhưng
khơng thể phủ nhận những giá trị nền tảng được xác lập, đặc biệt là sự ghi
nhận của một thực thể pháp lý khác ngoài cá nhân, có khả năng gây nguy hại
đáng kể cho xã hội và cần phải xử lý hình sự - pháp nhân.
Pháp nhân - chủ thế đặc biệt tham gia các quan hệ pháp luật với địa vị
là một thực thể pháp lý tách biệt cơ thể sinh học. Sự khác biệt cơ bản với các
chủ thể truyền thống này, tạo nên hàng loạt những quan điểm, giả thuyết
nghiên cứu và khó khăn vướng mắc trong thực tiễn cần được đưa ra luận bàn
và giải quyết. Các thủ tục tố tụng, biện pháp điều tra truyền thống đều được
xây dựng trên nền tảng các đặc thù cùa dạng chủ thể "thể nhân"; chính vì vậy
nhằm kế thừa những giá trị tiến bộ và thành tựu của nền tố tụng hình sự thể
nhân là chủ thề tham gia quan hệ pháp luật hình sự duy nhất, chế định người
đại diện được đặt ra song song với trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Qua
khảo sát thực tiễn một số vụ án về pháp nhân phạm tội trong thời gian qua, có
thế thấy các thủ tục tố tụng được thực hiện chủ yếu vẫn trên nền tảng thủ tục
đối với cá nhân, đặc biệt là người đại diện theo pháp luật; tuy nhiên về vấn đề
này, vẫn tồn tại nhiều quan điểm chưa đồng nhất về mặt lý luận (như: về thuật
ngữ, về mơ hình trách nhiệm hình sự pháp nhân, về học thuyết, và về mối liên
hệ bản chất trách nhiệm hình sự của pháp nhân và người đại diện, .v.v...) dẫn
1
tới thực trạng "rụt rè" trong việc áp dụng trên thực tiễn hoặc áp dụng không
thống nhất.
Người đại diện theo pháp luật là một chế định xuất hiện sớm và phổ
biến trong các hệ thống pháp luật nói chung và được đặt ra mới các chủ thể
đặc thù trong pháp luật hình sự. Với pháp nhân, người đại diện theo pháp luật
cũng không phải là một chế định quá mới (đã được quy định trong Bộ luật
dân sự, luật doanh nghiệp, v.v...); tuy nhiên dưới góc độ luật hình sự người
đại diện theo pháp luật là một chế định khá mới và giữ một vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự do pháp nhân "thực hiện" ở
cả phương diện trách nhiệm hình sự và thủ tục tố tụng.
Cùng với đó là những yêu cầu mới về chính sách xừ lý đối với pháp
nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam là thành viên của các công
ước liên hợp quốc về chống tham nhũng, phịng chống rửa tiền v.v..; đặc biệt
là cơng ước liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, theo
đó: "quốc gia thành viên cần có những thiết chế phù hợp nhằm xác định rõ
trách nhiệm hình sự của pháp nhăn". Vì vậy, vai trị của người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình
sự và tố tụng hình sự cần nhanh chóng nghiên cứu sáng tỏ; nhằm tạo điều
kiện cho sự phát triển của các chế định pháp lý và các thú tục tổ tụng liên
quan đến pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mặt khác, khảo sát hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu nào hệ thống các
nội dung cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân dưới góc độ
người đại diện theo pháp luật của thực thế pháp lý này. Xuất phát từ những lý
do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự” làm luận văn cao học
•
X
X
•
•
V
•
chun ngành luật hình sự và tố tụng hình sự của mình.
2
•
•
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp nhân, đặc biệt là pháp nhân thương mại - một chủ thể TNHS mới
được ghi nhận trong BLHS và BLTTHS năm 2015. Tiếp cận vấn đề này,
trong thời gian qua đã có một số sách, báo pháp lý ở nước ta tiến hành nghiên
cứu về các vấn đề như những vướng mắc về nội luật hay cách thức tổ chức,
vận hành hoạt động TPHS xoay quanh chủ thể pháp lý hình sự này. Có thể kể
đến các cơng trình nghiên cứu như sau:
* Ớ cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn và sách
chun khảo có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu sau:
- Sách chuyên khảo "trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật
hình sự", TS Trịnh Quốc Tốn, Nxb Chính trị Quốc gia- Sự thật, năm 2011;
- Sách chuyên khảo "thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự và những vấn
đề đặt ra khi thi hành Bộ luật tố tụng hình (hiện hành)", PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Chí (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm 2019;
- Luận văn thạc sĩ Luật học "trách nhiệm của pháp nhân thương mại
trong pháp luật Việt Nam", Nguyễn Thị Kim Lành, năm 2018.
* Ớ cấp độ các bài viết nghiên cứu khoa học trên các tạp chí chuyên
ngành có thể kể đến:
- Lê Cảm, "trách nhiệm hình sự của pháp nhân - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn", tạp chí tồ án nhân dân, số 4/2000;
- Nguyễn Khắc Hải, "Trách nhiệm hình sự pháp nhân trong pháp luật
Mỹ", tạp chí nghiên cứu lập pháp số ra ngày 01/02/2014;
- Kinh Thị Tuyết, "Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân theo pháp
luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề cần hồn thiện", tạp chí Cơng thương,
số ra ngày 28/02/2020;
3
Có thê thây, các cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu đưa ra những
khía cạnh khác nhau về chủ thể pháp nhân trong hệ thống pháp luật nói chung
và nền TPHS nói riêng; các cơng trình chù yếu luận giải về tư cách chủ thể,
thực tiễn và luật thực định của một số quốc gia nhằm tạo nền tảng nghiên cửu
chuyên sâu hơn về thực thế pháp lý hình sự này. Đặc biệt với sách chuyên
khảo "thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự và những vấn đề đặt ra khi thi
hành Bộ luật tố tụng hình (hiện hành)" do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ
biên, tập thể tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm học thuật và những đóng góp
mới thơng qua việc so sánh hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về
pháp nhân giữa các quốc gia khác nhau với nước ta; đồng thời tập thể tác giả
cũng chỉ ra những yếu điểm trong các quy định pháp luật tố tụng hình sự mà
khi vận hành sẽ gây vướng mắc.
Tuy nhiên, dưới góc độ luận văn thì chưa có đề tài nào nghiên cứu hệ
thống những vấn đề về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy
cứu trách nhiệm hình sự nhằm làm rõ vai trò của họ trong vụ án hình sự và
các thủ tục tố tụng có liên quan; mặt khác với sự ra đời của Bộ luật hình sự và
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tư cách chủ thể của pháp nhân được pháp
điến đánh dấu một bước tiến mới trong tư tưởng pháp lý; đồng thời cũng đưa
đến những thách thức, cùng với yêu cầu mới sự hoàn thiện hơn về chế định
pháp lý này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
•
•
•
C-J
- Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ một sô vân đê lý luận cân xác định khi tiên hành tô
tụng đối với pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong các giai đoạn tố
tụng hình sự cụ thế là thủ tục tố tụng đối với người đại diện của pháp nhân bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Tìm ra nét tương đồng, điếm khác biệt nào nên
4
đặc thù vê nội dung này trong pháp luật hình sự và tơ tụng hình sự của các
quốc gia, từ đó đánh giá nội luật đưa ra hạn chế, thiếu sót; nguyên nhân hạn
chế, thiếu sót và đề xuất, kiến nghị giài pháp.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt
được
mục
đích đề ra,7 luận
văn triển khai thực
hiện
các nhiệm
vụ•
•
•
•
•
•
•
•
cụ thể sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong tố tụng hình sự
và những vấn đề cần xác định khi tiến hành hoạt động này với người đại diện
của pháp nhân như khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa...
Thứ hai, phân tích so sánh các quy định trong luật hình sự và tố tụng
hình sự của Việt Nam và một số quốc gia khác về người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự và những vấn đề cần xác
định khi tiến hành tố tụng hình sự.
Thứ ba, đề xuất giải pháp góp phần hồn thiện hơn các quy định pháp
luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự khi tiến
hành tố tụng đối với pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong tố tụng
hình sự; đồng thời đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp mà pháp nhân cùng người
đại diện của họ trong các giai đoạn tố tụng cụ thể.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đoi tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề về địa vị pháp lý và
quyền, nghĩa vụ của người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm
hình sự trong tổ tụng hình sự Việt Nam và một sổ quốc gia trên thế giới; đồng
5
thời, kêt hợp việc nghiên cứu, đánh giá những ưu điêm cân phát huy, hạn chê
cần khắc phục và học hỏi những kinh nghiệm của các nước có nền lập pháp
tiến bộ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn đi sâu nghiên cửu pháp luật thực định về địa vị pháp lý và
quyền, nghĩa vụ của người đại diện của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, quy trình tiến hành tố tụng và những vấn đề cần làm rõ trong q
trình; đồng thời nghiên cứu trong tính thống nhất của pháp luật về người đại
diện.
- về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2018 đến tháng 06 năm 2021.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận vãn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận cùa chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác-Lênin; Các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đường lối xử lý
hình sự đối với pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Lý luận về thực
thể pháp lý - pháp nhân và tính đặc thù của nó trong từng giai đoạn tố tụng cụ
thể.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu điển hình, .v.v...
6. Điểm mới đóng góp của luận văn
Thứ nhất, luận văn tổng hợp lại một cách hệ thống các quy định pháp
luật tạo nên hành lang pháp lý vận hành quy trình tiến hành tố tụng đối với
6
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong tơ tụng hình sự thơng qua
người đại diện và những vấn đề cần xác định khi tiến hành hoạt động này
Thứ hai, luận văn phân tích các quan điểm một cách khách quan các
vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu
trách nhiệm hình sự trong tố tụng hình sự và những vấn đề cần xác định khi
tiến hành tố tụng hình sự với chủ thể này.
Thứ ba, qua việc nghiên cứu luật thực định của Việt Nam và một số
quy định về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự của quốc gia khác tác giả đưa ra những hiện trạng, vướng mắc
chung, v.v... và những khó khăn thường mắc phải trong q trình tiến hành tổ
tụng đối với người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự trong tố tụng hình sự.
Thứ tư, đề tài đi theo hướng so sánh luận giải vướng mắc, tập trung xây
dựng giải pháp, từ đó đóng góp ý kiến bản thân vào việc hoàn thiện các quy
phạm pháp luật về nội dung này.
7. Ý nghĩa nghiên cứu
- Ỷ nghĩa lý luận:
Luận văn làm rõ các khái niệm, phạm trù liên quan tới người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong tố tụng
hình sự và các quy định liên quan những vấn đề cần xác định khi tiến hành
hoạt động này.
- Ỷ nghĩa thực tiễn:
Trên cơ sở phân tích đánh giá, luận văn đưa ra những giải pháp, kiến
nghị mang tính khoa học và khả thi, giúp cán bộ làm công tác thực tiễn tháo
gỡ một cách hiệu quả những hạn chế, thiếu sót về việc thực hiện chức năng,
7
nhiệm vụ cùa mình trong hoạt động tiên hành tơ tụng đơi với pháp nhân bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thề được sử dụng làm tài liệu tham
khảo đối với công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở giáo dục
và đào tạo chuyên ngành Luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu làm 03 chương.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự và thực
tiễn áp dụng
Chương 3. Yêu câu hoàn thiện và giải pháp nâng cao chât lượng hoạt
động tiến hành tố tụng đối với người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị
truy cứu trách nhiệm hình sự
8
Chương 1:
MỘT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẠT Của pháp nhân bị truy Cứu TRACH nhiệm hình sự
1.1. Cơ sở lý luận về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1.1.1. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1.1.1.1. Khái quát lịch sử sự ra đời của pháp nhân trong pháp luật hình sự
Pháp nhân là một thực thể pháp lý được ghi nhận khá sớm trong lịch sử
thế giới và từng được đưa ra luận bàn với những quan điểm trái chiều trong
giới khoa học hình sự, đặc biệt là trong các hệ thống pháp luật khác nhau.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil law)
Ớ thời kỳ pháp luật La Mã, các quan niệm về pháp nhân đã dần manh
nha và hình thành. Thủa ban đầu, tư cách pháp nhân được xác lập duy nhất
với thực thể nhà nước; tuy nhiên trong quá trình phát triển, pháp nhân nhà
nước được gắn thêm một số chế định công như thành, bang, các khu vực tự
quản, hay thuộc địa. Chế định TNHS của pháp nhân trong thời La Mã tuy
chưa được ghi nhận trong luật thực định, tuy nhiên những ghi chép của nhà sử
Dionysius of Halicarnassus cho thấy sự tồn tại cùa pháp nhân với tư cách là
chủ thể của TNHS với các ví dụ về tổ chức bị trừng phạt do bản thân liên
quan tội ác cụ thể, hình phạt được áp dụng thậm chí cịn cho tồn bộ thành
phố, như thanh phố Capua vì đã đầu hàng Hannibal [45], Ớ thời kỳ cuối, pháp
luật thực định mở rộng phạm vi cùa chế định pháp nhân đồng thời phân thành
hai loại: universitates personarum - nhóm hoạt động trong phạm vi tơn giáo,
hành chính, tài chính và kinh tế; universitates bonorum - nhóm hoạt động
trong phạm vi lĩnh vực từ thiện và phúc lợi. Đồng thời luật cũng ghi nhận sau
9
khi được tạo lập, các thực thê này có danh tính riêng, tài sản tách biệt với
người sáng lập và có quyền và nghĩa vụ [51].
Dưới thời phong kiến dưới sự ảnh hưởng của luật La Mã, các quan
niệm về TNHS của pháp nhân trở nên phổ biến trong thế kỷ XII đến thế kỷ
XIV; tuy nhiên, việc áp đặt TNHS cho thực thể này (universitates) chỉ xảy ra
khi hành động phạm tội mang tính chất tập thể từ thành viên. Các quan niệm
về ý chí phạm tội hay lỗi (men rea) của pháp nhân nảy sinh và được bàn luận
nhiều hơn khi giáo hoàng Innocent IV cho rằng pháp nhân là thực thể khơng
có thật do khơng tồn tại linh hồn và thể xác.
Từ sau thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII, các học thuyết bắt đầu công nhận
ý chí riêng của pháp nhân thơng qua các quyết định mang tính tập thế, đồng
thời cũng giới hạn phạm vi TNHS của pháp nhân các loại tội phạm mà chì có
thể nhân mới có thể thực hiện được.
Cuối thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX, với sự kiện Pháp quốc hữu hố và bán
tồn bộ tài sản của Giáo hội (tháng 11 năm 1789) và tiếp sau đó là các pháp
nhân khác; thành phần kinh tế khác nhà nước bị loại - lợi ích của pháp nhân
và nhà nước được đồng nhất, do đó các học thuyết trở nên khơng phù hợp.
Chính vì vậy, trong BLHS Pháp năm 1810, TNHS của pháp nhân khơng cịn
được ghi nhận. Dưới sự ảnh hưởng to lớn của Pháp, phần lớn các quốc gia
Châu Âu lục địa thay đổi quan điểm về TNHS của pháp nhân. Các quốc gia
đưa ra các học thuyết khác nhau về TNHS của pháp nhân tuy vậy chủ yếu vẫn
xoay quanh các nội dung về cơ thể, linh hồn, ý định phạm tội và cách thức
thực hiện hành vi của pháp nhân .v.v... và các vấn đề về xung đột nội luật
quốc gia về nguyên tắc cá thể hoá TNHS [58]. Cuộc tranh luận về pháp nhân
trở nên sôi nổi và kéo dài sang thế kỷ XX.
10
Trong quá trình cuộc tranh luận kéo dài các pháp nhân dưới dạng các
tập đoàn tăng trưởng mạnh, trở nên quan trọng và có tầm ảnh hưởng nhất định
đến đời sống kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Pháp luật lúc này cũng trở
nên linh hoạt hơn nhằm kiểm soát hậu quả do pháp nhân gây ra. Các quốc gia
thuộc hệ thống pháp luật Civil law chia làm 02 nhóm:
Một là, nhóm ủng hộ TNHS pháp nhân
Đặc biệt với sự kiện, tháng 02 năm 1988, Hội đồng Châu Âu khuyến
nghị với nội dung: "those member States whose criminal law had not yet
provided for corporate criminal liability to reconsider the matter. " [62]; Pháp
thừa nhận TNHS của pháp nhân và ghi nhận trở lại trong lần pháp điển năm
1992 và tiếp tục hoàn thiện hơn trong BLHS năm 1994; và các quốc gia khác
thừa nhận TNHS cùa pháp nhân như Bỉ (năm 1999), Hà Lan (năm 1976), Đan
Mạch (năm 2002), .v.v...
Hai là, nhóm từ chối TNHS pháp nhân
Các quốc gia này gồm Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha do ảnh hường bởi
mơ hình hành chính - hình sự, các học thuyết và các luận điểm cho rằng: pháp
nhân không phải là chủ the của hành vi, không thế là tội phạm; hay tội phạm
chỉ dành cho con người. [54]
Thứ hai, hệ thống pháp luật Anh Mỳ (Common law)
Trái lại với Civil law, Anh không công nhận TNHS đối với pháp nhân
do số lượng pháp nhân rất ít và ảnh hưởng của họ đối với xã hội rất hạn chế.
Điển hình sự kiện năm 1701, chánh án của quan tồ Lord Holt tun bố:
"Doanh nghiệp khơng bị truy tổ hình sự".[39]
11
Thê kỷ XVI - thê kỷ XVII, cùng với sự phát triên cùa chủ nghĩa tư bản
pháp nhân là các tập đồn trở nên phổ biến và có sức ảnh hưởng lớn đến nền
kinh tế - xã hội. Cùng với đó là việc pháp luật cho phép việc cơng nhận pháp
nhân là một thực thể độc lập về tài sản. Anh quyết định đưa pháp nhân vào
kiểm soát bàng các thiết chế hình sự thơng qua việc sử dụng lý thuyết về
TNHS thay thế (vicarious liability) - pháp nhân phải liên đới chịu TNHS bởi
hành vi Ẫphạm
tội
của một
số thành viên đặc
biệt.
•
•
•
•
•
Đe luận giải cặn kẽ hơn, năm 1972 các học giả Anh đưa ra lý thuyết
đồng nhất, nhằm áp đặt TNHS đối với pháp nhân thông qua việc thuyết phục
cấu trúc của pháp nhân tương đồng với cấu tạo cơ thể của một con người.
Ở Mỹ, các thiết chế về TNHS của pháp nhân được quan tâm và phát
triến theo hướng khác. Trong thế kỷ XIX, trách nhiệm của pháp nhân được
pháp luật Mỹ ghi nhận khái niệm "vi phạm trật tự công cộng" với nội hàm là
các hành vi gây nguy hiểm lớn cho xã hội; mặc dù đưa vào kiểm sốt nhưng
các "vi phạm trật tự cơng cộng" vần nhanh chóng tăng lên. Đáp lại điều này,
pháp luật Mỹ bắt đầu cho phép truy cứu TNHS đối với pháp nhân với các sự
kiện như năm 1852, Tòa án bang New Jersey phán quyết đã truy cứu TNHS
với một số cơng ty đường sắt; năm 1854, Tịa án ở bang Massachusetts đã
phán quyết về khả năng truy tố hình sự đối với một tập đoàn xây dựng. [391
Cho tới nay, việc truy cứu TNHS một pháp nhân trong PLHS đã trở
thành một chế định khá phổ biến và được quy định trong BLHS và TTHS của
nhiều quốc gia trên thế giới như pháp, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Singapore, Thái Lan, Indonesia, Campuchia, Việt Nam, .v.v... Điều này cho
thấy một xu hướng khách quan và sự cần thiết phải kiểm sốt hoạt động của
pháp nhân thơng qua các thiết chế hình sự và TTHS.
12
1.1.1.2. Cơ sở cho ra đời của pháp nhân và trách nhiệm hình sự của pháp nhân
thương mại
- Cơ sở lý luận cho ra đời của pháp nhân
Thứ nhất, quyền tự do ý chí và tự do tiếp nhận ý chí (The principle of
freedom of will and of choice)
Tự do ý chí là học thuyết phát triển mạnh mè ở Pháp vào thế kỉ XVIII
với nội dung chú yếu cá nhân chỉ bị rằng buộc bới ý chí của bản thân. Các
quan niệm học thuật về mặt triết học, chính trị học cũng được Thomas
Hobbes và John Locke đưa ra về việc con người từ bở trạng thái tồn tại tự
nhiên thông qua việc thoả thuận nhằm xây dựng đời sống cộng đồng và đặc
biệt là trong giới hạn là sự tồn tại của văn bản khế ước là bản thỏa hiệp của
các thành viên cộng đồng. Jean-Jacques Rousseau sau đó đã tiếp nối Thomas
Hobbes và John Locke đồng thời đưa quan điểm riêng giúp "tự do ý chí" tiến
xa hơn nữa, khi dần luận về việc quyền lực phải được trao cho những người
đại diện cho ý chí nguyện vọng của cộng đồng. [53]
Sự thể hiện của tự do ý chí được cụ thể hơn với ba phương diện: về
mặt triết học, xuất phát từ quyền tự do cá nhân, tự do ý chí cho rằng khơng ai
có thể bị ép buộc làm hay khơng làm một việc gì đó ngồi ý muốn của họ.về
mặt đạo đức, khơng ai có thể bị ép buộc làm hay khơng làm một cơng việc mà
khơng xuất phát từ lợi ích cùa họ; đồng thời đây cũng chính là động lực thúc
đẩy các hoạt động thành lập pháp nhân nhằm mục đích tìm kiếm lợi ích vật
chất như hội, nhóm, doanh nghiệp, v.v... Các thành viên của có sự độc lập về
ý chí và thề hiện sự ràng buộc này thông qua quyền và nghĩa vụ trong các văn
bản như điều lê.
13
Pháp nhân thơng qua đó mà có ý chí riêng, tham gia các quan hệ kinh
doanh và pháp luật một cách độc lập khơng hồn tồn đồng nhất với bất kỳ
thành viên nào.
Thử hai, quyền tự do lập hội
Các học giả và hệ thống pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới nói
chung đều có cái nhìn đồng nhất về quyền thành lập các tổ chức có sự liên kết
chặt chẽ giữa các thành viên hoạt động vì lợi ích chung. Cụ thể: Tòa án Tối
cao Hoa Kỳ coi lập hội là một phần của tự do ngôn luận đối với công dân;
Điều 18 Hiến pháp Italia năm 1947 cho phép cơng dân thành lập hội nhóm
nhưng khơng đi ngược lại các quy định pháp luật, đặc biệt pháp luật hình sự;
Ba Lan đặc biệt hơn khi có riêng luật về Hội năm 1989.
Xuất phát trên cơ sở tự do ỷ chí và được pháp luật cơng nhận rộng rãi,
quyền tự do lập lập hội góp phần quan trọng trong việc nhân rộng mơ hình
pháp nhân.
- Cơ sở cho chế định TNHS của pháp nhân thương mại trong PLHS
Việt Nam
Thứ nhất, do xu hướng vận động tội phạm
Ớ góc độ xã hội, tội phạm được coi là một hiện tượng xã hội tiêu cực
gây ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Cùng với đó, sự thay đổi về chính
sách phát triển kinh tế - xã hội và sự cần thiết phối hợp kinh doanh, tìm kiếm
lợi nhuận, tạo điều kiện cho sự tăng lên nhanh chóng về mặt số lượng pháp
nhân thương mại. Các hành vi vi phạm và phạm vi ảnh hưởng của chủ thế này
cũng ngày càng trở nên phổ biến. Các thiết chế phi hình sự khơng đủ khả
năng giáo dục nhóm đối tượng này do chế tài thường không đáng kể so với lợi
nhuận thu về. Các loại tội phạm có tổ chức thậm chí cịn thơng qua vỏ bọc
14
pháp nhân thương mại hợp pháp thực hiện hành vi nguy hiêm cho xã hội một
cách công khai. Thực tế khách quan này thủ đẩy sự vào cuộc của các thiết chế
hình sự với nhiệm vụ cải tạo, giáo dục và trừng trị tương xứng với hành vi vi
phạm.
Thứ hai, do mức độ nghiêm trọng và hậu quả đáng kể gây ra bởi hành
vi vi phạm của pháp nhân thương mại
Các quan điểm khác nhau về việc đưa ra nội hàm của một pháp nhân
cho thấy pháp nhân trước hết phải một tập thế nhân. Điều này có nghĩa là
phần lớn các pháp nhân đều có lợi thế lớn hơn về mặt nhân lực và vốn. Sự
khác biệt về mặt quy mô này không chỉ mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho
pháp nhân thương mại có thể tăng mức độ nguy hiểm với cùng một hành vi vi
phạm, ví dụ như: việc xả nước thải sinh hoạt của một cá nhân và nước thải
công nghiệp pháp nhân thương mại. Cũng cần lưu ý, pháp nhân thương mại là
những pháp nhân được sinh ra với sứ mệnh là tìm kiếm lợi nhuận, đây là nội
dung chính tạo nên sự khác biệt giữa pháp nhân thương mại và pháp nhân phi
thương mại; đồng thời cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự chênh lệnh về
số lượng hành vi vi phạm gây ra bởi pháp nhân thương mại và pháp nhân phi
thương mại. Ớ góc độ khác, pháp nhân phi thương mại thường quan tâm đến
các vấn đề xã hội nhiều hơn; do vậy trong trường hợp xảy ra vi phạm hậu quả
cũng không nghiêm trọng như đối với pháp nhân thương mại.
Thứ ba, tiếp thu sự tiến bộ về mặt lập pháp của thế giới
Trước bối cảnh sự ra tăng lớn về số lượng pháp nhân thương mại cùng
số lượng vi phạm nghiêm trọng cùa thực thế này. Các nhà nghiên cứu PLHS ở
Việt Nam đã đề cập đến vấn đề TNHS đối với pháp nhân từ đầu thế kỷ XX
với các nội dung tiến bộ khả năng dự báo và phòng ngừa của quy định này
15
trong BLHS và BLTTHS. Nội dung này cũng được nhiêu công ước và khuyên
nghị quốc tế cũng đã nêu trong nội dung gửi tới các quốc gia thành viên, trong
đó có Việt Nam và một số nước trong khu vực - đặc biệt như Thái Lan,
Singapore, Campuchia, Indonesia, .v.v... đều đã quy định về TNHS đối với
chủ thể đặc biệt này.
1.1.1.3. Khái niệm, đặc điếm của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
- Khái niệm pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Lịch sử hình thành nhà nước và pháp luật sớm đã ghi nhận về sự tồn tại
của thực thể pháp nhân với các quan niệm về một tổ chức được hình thành
trên cơ sờ liên kết chặt chẽ và mục đích thống nhất; đồng thời nhân danh
chính bán thân tham gia các quan hệ pháp luật v.v...
Pháp nhân trong hệ thống pháp luật tư sản phát triển đến quá độ khi giai
cấp này cần phương tiện để củng cố địa vị pháp lý của các tổ chức kinh tế;
đồng thời thơng qua đó, tránh rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Điều này
địi hỏi sự tách biệt trong quan hệ sở hữu đối với tài sản lưu thông và tài sản
của chủ sở hữu nhằm đáp ứng những yêu cầu về phân tán rùi ro; đây cũng là
lúc một nhân cách pháp lý mới ra đời sinh ra với mục đích tìm kiếm lợi
nhuân.
Khái niệm pháp nhân cho đên thời kỳ cận hiện đại đã có những tư
tưởng lớn về các xác lập tư cách pháp nhân và động cơ của thực thể này; tuy
nhiên, các nền lập pháp lại không đồng nhất được cách định nghĩa khái quát
nhất cho thực thể này. Dầu vậy, các quan niệm về khả năng tồn tại độc lập
của pháp nhân vẫn được nhiều quốc gia công nhận với nội dung:
Thứ nhất, pháp nhân tồn tại không phụ thuộc vào sự thay đổi của
các thành viên;
16
Thứ hai, pháp nhân có quyền tài sản độc lập và chịu trách nhiệm
về tài sản đó;
Thứ ba, nhân danh nhân danh bản thân thực hiện các hành vi
pháp lý, có quyền làm ngun đơn, bị đơn trước tồ án.
Ở Việt Nam khái niệm pháp nhân không được nhắc tới trong các văn
kiện cồ mà được du nhập từ các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Trong
thời kỳ Pháp thuộc, mơ hình kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các nhà tư
tưởng pháp đặc biệt là sự kiện quốc hữu hoá vào cuối thế kỷ XVIII, thành
phần kinh tế khơng được đa dạng. Sau đó đến thời kỳ mơ hình kinh tế thời
chiến được nước ta học tập của Liên Xô mặc dù tạo điều kiện cho cách mạng
•
•
•
• X
•
•
•
nhưng tạo nên những rào cản khách quan đến sự hình thành thực thể pháp
nhân, đặc biệt là pháp nhân thương mại.
Cho đến thời kỳ kinh tế thị trường sau đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, nền kinh tế đa thành phần đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho
đời sống kinh tế đất nước. Lúc này, thực thể pháp lý pháp nhân bắt đầu được
ghi nhận và tiếp tục hoàn thiện trong BLDS năm 1995, 2005 và 2015. Theo
đó:
"Một tơ chức được cơng nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây: a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; Có tài sản độc
lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình"
Với quan niệm về thực thể độc lập trong quyền và nghĩa vụ, pháp nhân
được thừa nhận khả năng tham gia tố tụng thơng qua người đại diện của mình.
Pháp luật Việt Nam sớm đã công nhận khá năng tham gia quan hệ tố tụng cúa
17
pháp nhân trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, v.v...; tuy nhiên, do những
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong lĩnh vực hình sự khả năng này
chỉ mới được công nhận khi BLHS và BLTTHS năm 2015 được ban hành và
có hiệu lực. Đây cũng là lúc các thuật ngữ hình sự và TTHS về pháp nhân
được đề cập, đặc biệt là pháp nhân bị truy cứu TNHS.
Trong TTHS, công tố là một quyền đặc biệt nhằm xác định tội phạm và
truy cứu TNHS đối với chủ thể của hành vi phạm tội. Theo đó, cơng tố được
hiểu rộng hơn việc truy cứu hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và
được thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân do luật hình sự
quy định; quyền năng này bắt đầu sớm hơn truy cứu TNHS, ngay sau khi các
nghi ngờ hợp lý về một tội phạm được thực hiện được xác lập bởi cơ quan
THTT và kết thúc sau khi đã có bản án kết tội.
Như vậy, pháp nhân bị truy cứu TNHS được hiểu là đối tượng của
quyền cơng tố, theo đó pháp nhân bị áp đặt đã thực hiện một hành vi nguy
hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm, phải chịu TNHS về hành
vi phạm tội của bản thân, phải đối mặt với tiến trình thủ tục TTHS với sự áp
đặt ý chí thơng qua nghĩa vụ và được đảm bảo các lợi ích thiết thân thơng qua
các quyền.
- Đặc điểm pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Thứ nhất, pháp nhân bị cáo buộc đã thực hiện các hành vi nguy hiểm
đáng kế cho xã hội - tội phạm. Cùng với sự bố trợ về mặt pháp lý hình sự và
các cơng cụ TTHS khác, pháp nhân (cụ thể là pháp nhân thương mại trong
PLHS Việt Nam) được ghi nhận về khả năng ’’thực hiện” hành vi xâm hại các
khách thể mà LHS bảo vệ, có địa vị pháp lý để tham gia tố tụng với vai trò bị
can, bị cáo. Mặt khác, mặc dù hành vi phạm tội của pháp nhân chủ yếu được
thực hiện thông qua thế nhân là thành viên cấu thành pháp nhân đó, theo cơ
18