Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.77 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUÔC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ THUY TRANG

BẢO Hộ QUYỀN TÁC GIÃ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
KIẾN TRÚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
•Z

o







o



Mã số: 8380101.04

LUẬN VẲN THẠC sĩ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Vũ Thị Hải Yến

Hà Nội - 2022



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tỉnh chỉnh xác,
tin cậy và trung thực.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Thị Thùy Trang


DANH MỤC CHỬ VIẾT TẮT

CHXHCN:

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

SHTT

: Sở hữu trí t•

QTG

: Quyền tác giả

VHDG

: Văn học dân gian


BLDS

: Bơ• lt
• Dân sư•

WIPO

: World Intellectual Property Organization

(Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới)

11


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................... ii
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VÈ BẢO Hộ QUYỀN TÁC
?

A

r .

A


X

A.

r

GIA ĐÔI VƠI TAC PHÀM KIẼN TRUC.......................................................... 7
1.1 Khái quát chung về quyền tác giả.................................................................. 7

1.1.1 Sơ lược sự ra đời và phát triển của quyền tác giả.....................................7

1.1.2 Khái niệm quyền tác giả............................................................................. 9
1.1.3 Đặc điểm của quyền tác giả...................................................................... 14

1.1.4 Các loại hình tác phấm văn học, khoa học và nghệ thuật được bảo hộ
quyền tác giả......................................................................................................... 17

1.2 Khái quát chung về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.................... 18
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của tác phẩm kiến trúc........................................... 18

1.2.2. Khái niệm, đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc............. 22
1.3. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc...................................... 27

1.3.1. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.................. 27
1.3.2. Khái quát pháp luật vê bảo hộ quyên tác giả đôi với tác phâm kiên trúc.... 28

1.3.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc..... 43

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................... 45


CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CÙA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ
QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC............................. 46

2.7 Điều kiện và đối tượng bảo hộ quyền tác già đối với tác phấm kiến trúc

46

2.1.1. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.................... 46
2.1.2. Đối tượng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc..................47

111


2.2 Chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc............................... 49

2.2.1 Tác giả........................................................................................................ 49

2.2.2 Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc............................ 51
2.3 Nội dung bào hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc....................... 53

2.3.1 Quyền nhân thân........................................................................................ 54
2.3.2 Quyền tài sản.............................................................................................. 57
2.4 Thời hạn bảo hộ bảo hộ quyềntác giả đối với tác phẩm kiến trúc........... 61

2.5 Giới hạn bảo hộ bảo hộ quyềntác giả đối với tácphẩm kiến trúc........... 62

2.6.1 Chuyển nhượng quyền tác giã đổi với tác phẩm kiến trúc..................... 65
2.6.2 Chuyển quyền sử dụng quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc........ 67
2.7 Bảo vệ quyền tác già đối với tác phẩm kiến trúc........................................ 68


2.7.1 Hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc................. 68
2.7.2 Biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.................. 71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................... 77

CHƯƠNG 3: THựC TIỀN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC

GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

78

3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phấm
kiến trúc............................................................................................................... 78

3.2. Nguyên nhân của thực trạng về bảo hộ quyền tácgiả đối với tác phẩm
kiến trúc................................................................................................................ 81

3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy

định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phấm kiến
trúc ...................................................................................................................... 85

3.3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc........................................................... 85

iv


F


r

\

'

3.3.2 Một sô kiên nghị nhăm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật vê bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.......................................................... 91

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................... 95

KẾT LUẬN......................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 99

V


MỞ ĐẦU

Tính câp thiêt của đê tài và tình hình nghiên cún
l.
Nghệ thuật kiến trúc với tư cách là một loại hình nghệ thuật tạo dựng
khơng gian, mơi trường sống cho con người, có tầm ảnh hường vơ cùng to lớn
đến môi trường sống của mỗi con người và sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ quyền tác giả
nói chung và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phấm kiến trúc nói riêng ln

được coi trọng.

Tác phẩm kiến trúc là một đối tượng đặc biệt vì nó có mối liên quan tới

cơng trình xây dựng, đó là cơ sở để thực hiện cơng trình xây dựng trên thực
tế. Trong tác phẩm kiến trúc có rất nhiều chi tiết đòi hỏi yếu tố sáng tạo (nội

thất, ngoại thất và các chi tiết kỹ thuật), pháp luật sớ hữu trí tuệ Việt Nam cịn
thiếu những quy định cụ thể điều chỉnh quyền tác giả đối với tác phẩm kiến

trúc như tỷ lệ chi tiết mới là bao nhiêu phần trăm trong tống số các chi tiết cấu
thành trong tác phẩm kiến trúc thì được bảo hộ bản quyền, hay như là việc sắp
đặt các chi tiết cấu thành từ các tác phẩm kiến trúc khác (lan can, các hoa văn
trang trí, các đồ nội thất,...) có được coi là tác phẩm phái sinh hay không?
Đồng thời với việc bảo hộ quyền tác giả còn phát sinh thêm quyền nhân thân
của tác giả, do đó, việc tự tiến hành sửa đổi cơng trình có làm ảnh hưởng tác

phẩm kiến trúc hay khơng?
Bên cạnh đó, việc bị sao chép, nhân bản tác phấm kiến trúc có giá trị

khơng phải là chuyện hiếm gặp đối với ngành kiến trúc. Việc sao chép ý

tưởng từ một tác phẩm kiến trúc là vô cùng đơn giản ở thời đại thông tin mở
rộng như hiện.
Liên quan đến quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác

phẩm kiến trúc nói riêng thi đã có đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp


chí đã đê cập một cách trực tiêp hoặc lơng ghép vào những nội dung liên

quan. Một số luận văn thạc sĩ và đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến
quyền tác giả như: Một số vấn đề về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự Việt


Nam, của tác giả Kiều Thanh, Trường Đại học Luật Hà Nội (1999); Hoàn

thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay, của Hoàng

Minh Thái, Trường Đại học Luật Hà Nội (2001); Pháp luật về quyền tác giả
trong quá trình hội nhập quốc tế ớ Việt Nam, của Bùi Lan Phương, Khoa Luật

- Đại học Quốc gia Hà Nội (2003); Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan

trong môi trường kỹ thuật số - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Quản

Tuấn An, Trường Đại học Luật Hà Nội (2009); Bảo hộ quyền tác giã tại Việt

Nam với việc Việt Nam gia nhập Công ước Beme, của Ngô Ngọc Phương,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006); Công ước Beme và việc thực
hiện trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam, của Phạm Thị Hương Giang, Khoa

Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008); Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên
quan ở Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đề tài nghiên cửu
khoa học cấp Trường, chù nhiệm đề tài Vũ Thị Hải Yến, bảo vệ tại Trường
Đại học Luật Hà Nội (2010)... Bên cạnh đó cịn có các bài đăng trên các tạp

chí chun ngành, hội thảo như: Khái quát về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác

giả ở Việt Nam, tác giả Điêu Ngọc Tuấn, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số
05/2004; Một số quy định về quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả

trong Bộ luật Dân sự và Luật sở hữu trí tuệ, tác giả Hồng Minh Thái, đăng trên

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật số 09/2006; Thực

trạng giải quyết tranh chấp về quyền tác giả tại Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012

và một số đề xuất tiếp tục toàn thiện pháp luật và thực thi về quyền sở hữu trí
tuệ, tác giã Nguyễn Hợp Tồn, Nguyễn Thị Thanh Thủy và Trần Văn Nam của

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Tham luận tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam

học lần thứ IV ngày 26-28/11/2012 tại Hà Nội...

2


Với mục đích làm phong phú hơn nội dung nghiên cứu vê quyên tác
giả đối với tác phẩm kiến trúc, tác giả chọn “Bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm kiến trúc theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn cao học
của mình.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cún

Pháp luật về quyền tác giả là một lĩnh vực tương đối rộng và phức tạp.
Theo đó, quyền tác giả là một quyền rộng bao gồm nhiều đối tượng trong các
lĩnh vực như: văn học, nghệ thuật, khoa học... Trong khuôn khố luận văn thạc
sĩ, phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong các văn bản về quyền tác giả như

Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm
2009) và các văn bản khác có liên quan như Nghị định số 85/2011/NĐ-CP
ngày 20 tháng 09 năm 2011 sửa đổi, bổ sung Nghị định 100/2006/NĐ-CP
ngày 21 tháng 09 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên
quan; Nghị định 109/2011/NĐ-CP ngày 02 tháng 12 năm 2011 sửa đổi, bổ


sung Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 05 năm 2009 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan...
Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả

mong muốn cung cấp cho người đọc một cách tổng thể các quy định về quyền
tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Qua đó nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn của quyền tác già đổi với tác phẩm kiến trúc theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời, dựa vào thực tiễn đó đế nghiên cứu về

nguyên nhân của thực trạng trên. Trên cơ sở đó, xây dựng và kiến nghị một số

giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hộ đối với tác phẩm kiến trúc và nâng
cao vai trò của việc sử dụng hợp pháp và hiệu quả về quyền tác già đối với tác
phẩm kiến trúc ở Việt Nam.

3


3. Nhiệm vụ nghiên cứu đê tài

Đe có thế đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận

văn phải giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm kiến trúc: đưa ra các khái niệm về quyền tác giả đối với tác

phẩm văn học - khoa học - nghệ thuật, khái niệm và đặc điểm của quyền tác

giả đối với tác phẩm kiến trúc, khái niệm và ý nghĩa của bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm kiến trúc.

Thứ hai, phân tích, đánh giá tồn diện về thực trạng hoạt động bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn cũng

tham khảo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm kiến trúc. Đồng thời tìm ra những hạn chế, bất cập cần phải

khắc phục trong các quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc hiện
nay ở Việt Nam.

Thứ ba, đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện vào hệ thống
pháp luật về bảo hộ quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả đối với

tác phẩm kiến trúc nói riêng. Đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Những năm gần đây, quyền tác giả là vấn đề đang được nhiều ngành,

nhiều cấp, nhiều đối tượng quan tâm. Chọn bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc làm đổi tượng nghiên cứu, chúng ta có điều kiện đi sâu phân
tích những vấn đề lý luận chung và các quy định của pháp luật của Việt Nam

về vấn đề này, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm kiến trúc.
4. Phuong pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận

nghiên cứu khoa học duy vật biện chúng và duy vật lịch sử cùa chủ nghĩa
Mác - Lenin, tư tướng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng cộng


4


sản Việt Nam vê xây dựng và hoàn thiện hệ thơng pháp luật nói chung và

pháp luật sở hữu trí tuệ nói riêng. Bên cạnh đó, q trình nghiên cứu cũng sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền để giải quyết vấn đề thuộc
phạm vi nghiên cửu đề tài như phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê...
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp
này được sử dụng phố biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về
quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm

kiến trúc.
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này

được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định cùa pháp luật
hiện hành có hợp lý hay khơng, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so

sánh với quy định liên quan hoặc pháp luật của các nước khác...

Phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp: Được vận dụng để triển
khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến bảo hộ quyền tác già đối với tác

phẩm kiến trúc, đặc biệt là các kiến nghị hoàn thiện.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tở phương diện lý

luận trong khoa học pháp lý của vấn đề quyền tác giả đối với tác phẩm kiến


trúc. Cụ thể: Xây dựng được khái niệm và đưa ra những tiêu chí cơ bản nhất
để xác định bão hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, phân tích thực

trạng điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này.

Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để
các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài

liệu tham khảo hữu ích khơng chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có
giá trị đối với các cán bộ đang làm cơng tác hoạch định chính sách và xây

dựng pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.

5


6. Ket cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba (03) chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vần đề lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc.

Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả

đối với tác phẩm kiến trúc.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị nhằm hoàn

thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ờ Việt Nam

hiện nay.

6


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẦN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ BẢO Hộ QƯYÈN TÁC

GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC

1.1 Khái quát chung vê quyên tác giả
1.1.1 Sơ lược sự ra đời và phát triển của quyền tác giả
Trong thời kỳ Cổ đại và Trung cổ, con người ta chưa biết thế nào là
quyền cho một tác phẩm trí tuệ. Các quy định của luật pháp thời bấy giờ chỉ

dành cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, chú trọng đặc biệt về sở hữu, như
không được phép trộm cắp quyển sách nhưng được phép chép lại quyển sách

đó. Việc nhiều nghệ sĩ và tác giả cùng làm việc trong một đề tài được coi là
trường hợp bình thường, cũng như việc các nhạc sĩ có thế lấy hoặc thay đổi

các bài hát, các tác phẩm âm nhạc. Khi tác giả muốn bảo vệ bài viết của mình
khơng bị thay đổi thì họ chỉ có thể thực hiện những cách rất cô hủ như cách
gắn một lời nguyền rủa vào quyển sách của mình như Eike von Repgow, tác

giả của Sachsenspiegel, một quyến sách ghi chép lại các luật lệ đương thời, đã
nguyền rủa những người giả mạo tác phẩm của ông sẽ bị bệnh hủi [6].

Vào thế kỹ XV (khoảng năm 1440), với sự ra đời của máy in, các bản
sao chép lại của một tác phẩm bắt đầu có thể được sản xuất ở số lượng lớn


một cách dễ dàng hơn [5], Nhưng lúc này tác giả vẫn chưa nắm được “quyền
tác giả” trong tay. Khi thời kỳ phục hưng bắt đầu, cá nhân con người trở nên

quan trọng hơn và đặc quyền tác giả cũng được ban phát để thưởng cho
những người sáng tạo ra tác phấm. Tại nước Đức, Albrecht Dủrer (năm 1511)

đã được công nhận một đặc quyền như vậy. Nhưng việc bảo vệ này chỉ dành

cho người sáng tạo như là một cá nhân (quyền cá nhân) và chưa mang lại cho
tác giả một thu nhập nào.

Đến thế kỷ XVIII, bắt đầu xuất hiện các lý thuyết về các quyền giống

như sở hữu cho lao động trí óc (và hiện tượng của sớ hữu phi vật chất). Ở

7


Anh năm 1709, Quy chê nữ hoàng Anne (Copyright Act 1709 Anne C.19,
Statue of Anne) lần đầu tiên một độc quyền sao chép của tác giả được cơng
nhận. Theo đó, tác giả có độc quyền xuất bản tác phẩm trong vịng 14 năm kể

từ ngày tác phẩm đó ra đời, độc quyền này có thể được chuyển giao cho các
nhà xuất bàn và được gia hạn thêm 14 năm khi tác giả cịn sống. Giá trị của

Quy chế nữ hồng Anne không những đã hợp nhất được nhiều khuôn khổ
pháp lý tồn tại trước đó mà cịn thể hiện được vị thế trung tâm của tác giả những người chủ sở hừu quyền đầu tiên [41], Tác phẩm phải được ghi vào

trong danh mục của hiệp hội các nhà xuất bàn và phải có thêm ghi chú
“copyright” để được bảo vệ. Phương pháp này được đưa vào ứng dụng tại Mỹ


vào năm 1795 (yêu cầu phải ghi vào danh mục được bãi bỏ tại Anh vào năm

1956 và tại Hoa Kỳ vào năm 1978). Ý tưởng về sở hữu trí tuệ phần lớn được

giải thích bằng thuyết về quyền tự nhiên (tiếng Anh: natural law). Tại Pháp
một Propriété littéraire et artistique (sở hữu vãn học và nghệ thuật) được đưa
ra trong hai bộ luật vào năm 1791 và 1793. Trong đó quyền của tác giả đối
với tác phẩm được sáng tạo từ lao động của tư duy được coi là quyền sở hữu

riêng tư của tác giả. Tại nước Phổ một bão vệ tương tự cũng được đưa ra vào
năm 1837. Cũng vào khống thời gian đó, Hội đồng liên bang của Liên minh
Đức quyết định thời hạn bào vệ từ khi tác phấm ra đời là 10 năm, thời hạn này

được kéo dài thành 30 năm sau khi tác giả qua đời (post mortem auctoris) vào
năm 1845 [6J.

Một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển Quyền tác giả, năm
1886, công ước quốc tế về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật đã được kỷ

kết tại Berne - Thuỵ Sỹ với 10 nước tham gia là Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Tây Ban

Nha, Hali, Thuỵ Sỹ, Li Bi, Hai-ti và Tunisia theo sáng kiến của các nhà văn
và nhà xuất bản của hai nước Anh và Pháp - những nơi có nền văn hố, nghệ
thuật và khoa học đương thời tương đối phát triển. Công ước đã qua tám lần

8


sửa đôi: được sửa đôi tại Paris năm 1896 và tại Berlin năm 1908, hoàn thiện


tại Beme năm 1914, sửa đối tại Rome năm 1928, tại Brussels năm 1948, tại
Stockholm năm 1967, tại Paris năm 1971 và được bổ sung năm 1979. Nguyên

nhân việc sửa đổi, bổ sung này là do sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, do
nhu cầu nội tại của việc công nhận quyền tinh thần, hủy bỏ thủ tục, hình thức,
bảo hộ sự sáng tạo dân gian, tiếp cận tác phẩm cho việc giáo dục, nghiên cứu

khoa học. Sau nhiều lần sửa đổi, Công ước Berne hiện nay đã đưa ra các quy
định đạt mức hài hòa cao dựa trên nguyên tắc đối xử quốc gia kết hợp với
những quy định về mức độ bảo hộ tối thiếu. Cơng ước Beme hiện có trên 160

thành viên. Văn kiện hiện hành là văn kiện Paris ngày 24/07/1971 được bổ
sung ngày 02/10/1979. Xuất phát từ cơ sở của nguyên tắc xừ sự hợp lý cũng

như từ nhiều lợi ích khác nhau, họ đã đưa ra yêu cầu bảo hộ các tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học trong phạm vi quốc tế.

Bên cạnh Công ước Berne, nhiều công ước, hiệp định, hiệp ước quốc tế

về Quyền tác giả đã được ký kết. Công ước Rome năm 1961 bảo vệ người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình; Cơng

ước Geneva năm 1971 bảo hộ nhà sản xuất bàn ghi âm, chống lại việc sao
chép trái phép bản ghi âm; Hiệp ước tồn cầu về quyền tác giả năm 1971;

Cơng ước Brussels năm 1974 liên quan đến tín hiệu mang chương trình
truyền hình qua vệ tinh; Hiệp định TRIPs năm 1994 các khía cạnh thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ; Hiệp ước về quyền tác giả của WIPO; Hiệp ước của


WIPO về biểu diễn và bản ghi âm, năm 1996.
1.1.2 Khái niệm quyền tác giả

Từ rất lâu, trong pháp luật quốc tế, quyền tác giả đã được các nhà luật

gia quan tâm và nghiên cứu. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khác nhau như: điều
kiện lịch sử, truyền thống văn hóa, kinh tế - xã hội mà cách hiểu quyền tác giả
giữa các quốc gia khác nhau có những khác biệt nhất định. Ở các nước theo

9


truyên thông pháp luật Châu Au lục địa (Civil law) khi đê cập đên quyên tác

giả (author’s rights) thuờng nhấn mạnh đến khía cạnh nhân thân của quyền

tác giả, cịn ở các nước thuộc hệ thống luật Anh - Mỳ (Common law) thì lại
nhấn mạnh quyền thương mại (bản quyền) trong quyền tác giả (copyright).

Với cách gọi luật bản quyền (Common law), trước hết người ta đứng về phía

các nhà khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm, không phải đứng về phía người

sáng tạo tác phẩm. Cịn với cách gọi “quyền tác giã - author’s right” (Civil
law) người ta lại dồn trọng tâm bảo vệ vào quyền của người sáng tạo tác
phẩm với việc khẳng định người có các quyền đối với tác phẩm, đặc biệt là

quyền tinh thần, được chú trọng và bảo hộ trước hết phải là tác giả. Cách tiếp

cận của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa với điểm xuất phát gắn chặt mối


quan hệ giữa cá nhân tác giả với tác phẩm, vì thế quyền nhân thân của tác giả
rất được coi trọng. Trong khi đó, cách tiếp cận của hệ thống pháp luật Anh Mỹ lại hầu như không để ỷ hoặc chỉ để ý rất ít tới quyền nhân thân, chỉ tập

trung vào quyền kinh tế trong quá trình khai thác tác phấm. Những cách tiếp
cận khác nhau này về cơ bản thể hiện quan điểm lập pháp ưu tiên quyền lợi

của tác giả hơn hay của nhà khai thác tác phẩm hơn.
Theo pháp luật quốc tế, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (World

Intellectual Property Organization) định nghĩa quyền tác giả như sau: “Quyền

tác giả là một thuật ngữ pháp lý chỉ quyền của người sáng tác đối với các tác
phẩm văn học và nghệ thuật của họ” [43].

Quyền tác giả được dùng để bảo vệ những sáng tạo tinh thần có tính
chất văn hóa (hay cịn được gọi là tác phấm) ví dụ như các sáng tác âm nhạc,

văn học, các bài viết về khoa học, phim, tranh vẽ, ghi âm, hình chụp và các
chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích

kinh tế của tác già trong mối liên hệ với tác phẩm. Quyền tác giả không cần
phải đãng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là

10


một lân trên một phương tiện lưu trữ. Thông thường, qun tác giả chỉ được

cơng nhận khi đó là sáng tạo mới, có một phần lao động của tác giả và có thể

chỉ ra được là có tính chất duy nhất [38].
Ờ Việt Nam, quyền tác giả cũng đã được định nghĩa ở nhiều cơng trình
nghiên cứu khoa học pháp lý khác nhau đã được công bố và cả trong các văn

bản pháp luật do Nhà nước ban hành, về cơ bản, các định nghĩa này đều có sự
tương đồng nhưng cũng có những sự khác biệt nhất định.
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, do

Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2005 thì quyền tác giả là:

1. Tống hợp các quy phàm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh từ việc cá nhân sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, kỹ

thuật (theo nghĩa khách quan).
2. Quyền của tác giả đã trực tiếp sáng tạo ra một phần tác phẩm hoăc

toàn bộ tác phẩm (theo nghĩa chủ quan bao gồm quyền nhân thân và quyền

tài sản gắn liền với các quyền nhân thân đó).

3. Quan hệ dân sự bao gồm chủ thể, khách thể, nội dung liên quan đến
việc sáng tạo, sử dụng tác phẩm[21].

Tại đây, Từ điển đã đưa ra ba cách hiểu về quyền tác giả. Khái niệm
quyền tác già trong đây nhìn nhận là một quan hệ dân sự chịu sự điều chinh
của pháp luật dân sự với đầy đủ các cấu thành: chù thể, khách thể, nội dung

liên quan đến việc sáng tạo, sử dụng tác phẩm. Bên cạnh đó, giải thích thứ hai
của khái niệm “Quyền của tác giả đã trực tiếp sáng tạo ra một phầm tác phẩm
hoặc toàn bộ tác phẩm (theo nghĩa chủ quan), bao gồm quyền nhân thân và

quyền tài sản gắn liền với các quyền nhân thân đó ” cũng cịn hạn chế đáng kể

khi chưa tính đến các chủ thể khác ngồi tác giả - người trực tiếp sáng tạo ra

tác phẩm.
Theo giáo trình Luật sở hữu trí tuệ của Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh thì quyền tác giả hiếu theo cách đơn giản là “quyền cho phép

11


tác giả và chủ sở hữu quyên tác giả được độc quyên khai thác tác phâm,
chống lại việc sao chép bất hợp pháp” [8]. Theo tác giả thì khái niệm này cịn

khá đon giản, vơ hình trung đã thu hẹp phạm vi bảo hộ của quyền tác giả khi
chỉ nêu được quyền sao chép là một trong số những quyền mà tác giả, chủ sớ

hữu tác phấm được bảo hộ.
Theo Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ của Trường Đại học Luật Hà Nội
do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2008, thì quyền tác giả được

hiểu theo hai phương diện sau đây:

về phương diện khách quan: Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm

pháp luật về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền của tác giả, của
chủ sở hữu quyền tác giả, xác định các nghĩa vụ của các chủ thế trong việc

sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Quy định
trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm.

về phương diện chủ quan: Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể (quyền

tài sản và quyền nhân thân) của chủ thể với tư cách là tác giả hoặc chủ sở hữu
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, cơng trình khoa học và
quyền khởi kiện hay khơng khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm [11],

Ngồi ra, theo Giáo trình này thì quyền tác giả còn được hiểu là quan
hệ pháp luật dân sự. Là quan hệ xã hội giữa tác giả, giữa chủ sở hữu quyền tác
giả và các chủ thể khác trong xã hội thông qua tác phẩm, dưới sự tác động của
quy phạm pháp luật, quan hệ giữa các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với

các chủ thể khác được xác định [11],

Có thế thấy rằng, định nghĩa quyền tác giả của Giáo trinh này về cơ bản
đã làm rõ được các tiêu chí xác định chủ thể có quyền tác giả cũng như các

nhóm quyền cụ thể mà tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được bảo hộ. đã bao

quát khá đầy đủ các phương diện của quyền tác giả. Định nghĩa quyền tác giả

nêu trên vừa bao quát khá đầy đủ các phương diện của quyền tác giả, vừa đưa

12


ra được cái nhìn tơng thê vê mơi quan hệ giữa các chủ thê có liên quan đên

quyền tác giả. Tuy nhiên, việc đưa ra nhiều định nghĩa về quyền tác giả như

trên là chưa thực sự rõ ràng và hợp lý. Việc này gây khó khăn cho người đọc

trong việc theo dõi các định nghĩa này. Việc bổ sung thêm nội dung “quyền

khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm” vào khái
niệm quyền tác giả cũng khơng thực sự cần thiết vì: Một là, quyền này là một
quyền cơ bản được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả nên chủ thể của
quyền tác giă mặc nhiên có quyền này; Hai là, khi quyền tác giả bị xâm phạm

thì ngồi việc lựa chọn khởi kiện hay không khởi kiện, để bảo vệ quyền của
mình thì chủ thể quyền tác giã có thể lựa chọn biện pháp dân sự hoặc biện

pháp hành chính.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm quyền tác giả trước đây đã được

ghi nhận tại Điều 2 Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả năm 1994 như
sau: “Quyền tác giả là các quyền về tinh thần và vật chất của tác giả” [26].

Khái niệm này đã bao quát được hai nhóm quyền mà tác giả được bảo hộ là
các quyền về tinh thần và các quyền về vật chất. Tuy nhiên, khái niệm này

chưa làm rõ được chủ thể có những tiêu chí, điều kiện nào thì được ghi nhận
và bảo hộ với tư cách là tác giả của tác phẩm.
Quyền tác giả theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm

2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019) là “quyền của tổ chức, cá nhân đối

với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoăc sở hữu” [17], [18]. về cơ bản, khái
niệm này đã đưa ra được tiêu chí rõ ràng để xác định chủ thể có quyền tác giả.

Theo đó, chủ thế đó phải trực tiếp sáng tạo ra tác phấm hoặc chủ thế phải có
quyền sở hữu đối với tác phẩm. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn hạn chế


trong việc làm rõ tác giả có những quyền gì đối với tác phẩm của mình.

Qua nghiên cứu cho thấy, chù thể của quyền tác giả là các tổ chức, cá
nhân trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, các tổ chức, cá nhân đầu tư của cải, vật

13


chât vào quá trình sáng tạo ra tác phâm hoặc các tô chức, cá nhân được

chuyển giao quyền tác giả thông qua hợp đồng chuyển giao quyền tác giả hay
qua thừa kế; nội dung của quyền tác giả bao gồm các quyền nhân thân của tác

giả đối với tác phẩm và các quyền tài sản gắn liền với các quyền nhân thân
đó. Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm quyền tác giả đối với

tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật như sau: “Quyền tác giả là tổng
họp các quy phạm pháp luật quy định và bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài

sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ

thuật và khoa học.”.
1.1.3 Đặc điếm của quyền tác giả

Thứ nhất, quyền tác giả là quyền gắn liền với nhân thân, danh tiếng của
chù thể sáng tạo, là sự thể hiện cơ bản của quyền con người, đó là quyền tự do

sáng tạo.
Trong q trình phát triển cùa loài người, lao động, sáng tạo là một


trong những đặc tính và cũng chính là động lực phát triển của lồi người. Vì
vậy, quyền lao động, trong đó có lao động trí óc được coi là một quyền cơ bản
của con người. Lao động trí óc ngày càng có vai trị quan trọng, quyền lao

động sáng tạo khơng những được bảo vệ mà cịn được khuyến khích vì sự tiến
bộ của lồi người [3]. Mọi cá nhân đều có quyền này để sáng tạo ra sản phẩm

trí tuệ. Khi đó, cá nhân này sẽ có quyền tác giả đối với tác phẩm mà không
phụ thuộc vào giá trị nội dung hay nghệ thuật.
Điều này đã được Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hợp quốc

năm 1948 khẳng định tại Điều 27 như sau:
1. Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng

đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích
của những tiến bộ ấy.
2. Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát

sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình [42],

14


Sự khăng định này cho thây quyên tác giả có ý nghĩa rât quan trọng. Vậy

nên, quyền tác giả cần phải được bảo hộ không chỉ trong các quy định pháp luật

quốc gia mà còn cả những cam kết quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.


Thứ hai, Quyền tác giả tập trung bảo hộ hình thức thể hiện của tác
phẩm.
Sự sáng tạo, ý tưởng của con người là trừu tượng và khơng giới hạn.

Khơng ai trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay sờ vào những ý tưởng sáng tạo về
văn học, nghệ thuật và khoa học. Người ta chỉ có thể tiếp cận, cảm nhận về
tác phấm thơng qua các từ ngữ, âm thanh, nốt nhạc, màu sắc, đường nét, hình

dáng,... và cách thức tác giả lựa chọn, sắp xếp chúng. Do đó, xã hội thường

tiếp cận với các đối tượng này thông qua các dạng cụ thề của chúng, tức là khi
chúng được vật chất hóa hoặc được thể hiện trên vật cụ thể. Vì lẽ đó, quyền

tác giả chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng tác phẩm khi nó được tạo ra và thể
hiện dưới hình thức nhất định.
Thêm vào đó, quyền tác giả đối với tác phẩm chi được giới hạn trong

phạm vi thể hiện cụ thể cùa tác phẩm mà không bao gồm ý tường của tác giả
bộc lộ trong tác phẩm. Bới lẽ, khơng một ai có thể biết được những vấn đề

đang nằm trong suy nghĩ của người khác. Mặc dù, các ý tưởng, cách sắp xếp

và cách trình bày đã hình thành trong suy nghĩ của tác giả nhưng những ý
tưởng này chưa được thế hiện ra bên ngồi bằng hình thức nhất định thì

khơng có căn cứ để cơng nhận và bảo hộ.
về hình thức thể hiện tác phẩm, pháp luật ở một số quốc gia quy định
cụ thể về hình thức thể hiện của tác phẩm, điển hình như: pháp luật Hoa Kỳ
yêu cầu tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức hữu hình “any


tangible medium of expression” (Điều 102 Luật Bản quyền Hoa Kỳ),
“material form” (Điều 3 Phần 1 Luật Bản quyền Canada) [38]. Trong khi đó,

pháp luật ở một vài quốc gia khác thì cho phép quyền tác giả được bảo hộ khi

15


tác phâm đó được thê hiện dưới hình thức bât kỳ (Điêu luật 112-1 Luật Sở

hữu trí tuệ Pháp).
Bên cạnh đó, pháp luật về quyền tác giả khơng quy định điều kiện về
nội dung đối với tác phẩm được bão hộ, trong khi đó, quyền sở hữu cơng
nghiệp lại bảo hộ nội dung của đối tượng. Đối tượng sở hữu công nghiệp phải

đáp ứng được các điều kiện nhất định. Điều này lý giải tại sao nhiều tác phẩm

văn học, nghệ thuật và khoa học có cùng nội dung nhưng có sự sáng tạo trong
hình thức thể hiện đều được pháp luật bảo vệ.

Thứ ba, quyền tác giả có thể trở thành đối tượng của giao dịch mua bán
(chuyển quyền)
Đối tượng của quyền tác giả là các sáng tác văn học, âm nhạc, nghệ
thuật và khoa học - những thành quả lao động trí óc được thể hiện dưới hình
thức nhất định. Đối tượng sở hữu này là tài sản tinh thần, không thể cần nắm

một cách cụ thể, mang đặc tính vơ hình. Điều này đã tạo ra sự khác biệt trong
nội dung quyền sở hữu tài sản với sờ hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả
nói riêng.
Do mang đặc tính vơ hình, nên thơng thường các tranh chấp liên quan


đến quyền tác giả sẽ phức tạp hơn so với các tranh chấp tài sản hữu hình. Là
đối tượng của quyền sở hữu, nên các tác phấm văn học, nghệ thuật và khoa

học có thề trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán. Tuy nhiên, sự mua

bán này có những đặc thù nhất định. Các tài sản thông thường khác sau khi

chuyển quyền sở hữu thơng qua các giao dịch mua bán, thì người mua sẽ có
tồn quyền đối với tài sản đó. Cịn đối với chuyển nhượng quyền tác giả tuy
đã được thực hiện nhưng chủ sở hữu tác phẩm vẫn có quyền địi hỏi bảo đảm

tính tồn vẹn tác phẩm của mình. Quyền nhân thân được xem là độc lập với
quyền tài sản và nói chung vẫn được dành cho tác giả, kể cả sau khi tác giả đã

chuyền giao quyền của mình cho tổ chức, cá nhân khác [4],

16


Thứ tư, quyên tác giả xác lập theo cơ chê bảo hộ tự động.
Ngay từ khi tác phẩm được sáng tạo ra bằng hoạt động lao động trí óc,

quyền tác giả được xác lập một cách mặc nhiên ngay khi tác phẩm được thể

hiện dưới hình thức khách quan mà người khác có thể nhận biết được mà

khơng phụ thuộc vào bất kỳ hình thức, thủ tục đăng ký nào. Quy định pháp

luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới đều xác định cơ chế bảo hộ tự động

đối với quyền tác giả. Việc đăng ký quyền tác giả không phải là căn cứ phát

sinh quyền tác giả, mà chỉ được xem là có giá trị chứng cứ chửng minh của
chủ sở hữu quyền tác giả khi có tranh chấp, khiếu nại hay tố cáo.

Thứ năm, quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối

Mặc dù, quyền tác giả được pháp luật bảo hộ theo cơ chế tự động. Tuy
nhiên, đó khơng phải là sự bảo hộ một cách hoàn toàn tuyệt đối. Đối với các
tác phẩm đã được công bố, phồ biến và tác phẩm khơng bị cấm sao chụp thì

cá nhân, tổ chức được phép sử dụng tác phẩm của người khác nếu việc sử

dụng đó khơng nhằm mục đích kinh doanh, khơng làm ảnh hưởng đến việc sử
dụng, khai thác bình thường của tác phẩm, khơng xâm hại đến các quyền, lợi

ích hợp pháp khác của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Ví dụ: việc sử

dụng tác phẩm nhằm mục đích tuyên truyền, cổ động; phục vụ cho chính sách
kinh tế, văn hóa, chính trị cho người dân ở vùng sâu, vùng xa; cá nhân đọc
truyện, nghe nhạc, xem phim để thưởng thức nghệ thuật, âm nhạc, hiểu biết

khoa học, cuộc sống ... thì khơng bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả và
chủ sở hữu quyền tác giả. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới cũng có quy
định về các trường hợp này và được gọi là nguyên tắc “fair use” - sử dụng

hợp lý.
1.1.4 Các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật được bảo hộ
quyền tác giả


Các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật được bảo hộ
quyền tác giả phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình

17


mà không sao chép từ tác phâm của người khác, bao gôm: Tác phâm văn học,

khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phấm khác được thế hiện dưới
dạng chữ viết hoặc ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác

phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện ảnh và

tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật
ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bàn họa đồ, sơ đồ, bản đồ,
bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, cơng trình khoa học; tác phẩm văn

học, nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính,sưu tập dữ liệu. Tác phẩm
phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối

với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
Việc xác định rõ các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ

thuật được bảo hộ quyền tác giả cũng như các quyền cụ thể của chù thể quyền

sở hữu là cơ sở để xây dựng pháp luật bảo hộ quyền tác giả ở mỗi quốc gia

cũng như ở phạm vi quốc tế. Mặc dù, các quốc gia cịn có sự khác biệt trong
pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với các loại hình tác phấm văn học, khoa


học và nghệ thuật. Nhưng, trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày

nay, càng có nhiều quốc gia tham gia các cơng ước quốc tế về quyền tác giả
thì sự khác biệt này cũng ngày một thu hẹp.

1.2 Khái quát chung về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của tác phẩm kiến trúc

Khái niệm tác phẩm kiến trúc

"Kiến trúc” theo Từ điển thefreedictionary được hiểu là (1) nghệ thuật

và khoa học về tổ chức sắp xếp khơng gian tịa nhà và các cấu trúc tương tự;

(2) kiểu dáng tòa nhà hay cấu trúc tương tự [47]. Theo Từ điển tiếng Việt của
Viện ngôn ngừ học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa xuất bản năm 2011
thì “kiến trúc” là (1) nghệ thuật thiết kế, trang trí nhà cửa, (2) tồn bộ nói

chung những quan hệ bên trong giữa các thành phần tạo nên một chỉnh thề

18


[40], cịn “tác phâm” được hiêu là cơng trình do nhà văn hóa, nghệ thuật hoặc

khoa học sáng tạo ra [40],
Theo sách Kiến trúc cơng trình của Kiến trúc sư Nguyễn Tài My
(NXB. Xây dựng, 2011) thì “kiến trúc” là:(i) hoạt động sáng tạo chủ yếu,
nhằm phục vụ những vấn đề dân sinh tất yếu như: ăn, ở, làm việc, đi lại; (ii)


nghệ thuật xây dựng nhà ở, dinh thự, cung điện, tàu thủy, ô tô, xe lửa, máy

bay, trang thiết bị của gia đình, mậu dịch, kỳ nghệ, nghệ thuật ấn lốt sách
báo, tạp chí; (iii) thế giới vật chất bao quanh con người, giải quyết những vấn
đề toàn cầu và sáng tạo thế giới lý tưởng cho con người;(iv) một thực thể

nghệ thuật, được hình thành thơng qua một trình tự lao động của con người:

quy hoạch, thiết kế, thi công; (v) tên gọi chung của nhà ở, nhà cơng cộng, nhà
cơng nghiệp [29].
Việc giải thích khái niệm “kiến trúc” như trên đã cho người đọc hình dung

được phần nào về kiến trúc, nghệ thuật kiến trúc. Để có bức tranh tồn diện hơn
về lĩnh vực cịn xa lạ vói những người ngồi ngành kiến trúc, GS.TS.KTS.

Nguyễn Đức Thiềm đã cụ thể hóa hơn nữa khái niệm này như sau:
Kiến trúc là khoa học cũng là nghệ thuật xây dựng và trang hồng nhà

cửa cơng trình, tức tồ chức không gian sống. Kiến trúc được xem là một lĩnh

vực hoạt động sáng tạo chủ yếu của con người từ khi có xã hội lồi người...,
nhằm cải tạo thiên nhiên hoặc kiến tạo đổi mới môi trường sống, phục vụ tốt

các quá trình hoạt động của con người và xã hội. Mục đích của kiến trúc
chính là kiến tạo một “thiên nhiên thứ hai” có tổ chức bên cạnh “thiên nhiên

thứ nhất” hoang dã và tự nhiên, nhưng chỉ được cơng nhận là kiến trúc các
“khơng gian - hình khối” có tác động của bàn tay con người, nhàm thỏa mãn

các mục đích vừa vật chất vừa tinh thần, nghĩa là phải có mục đích thực dụng,

trên ngun tắc hợp lý khoa học và tinh thần của cái đẹp, phù hợp quy luật

sáng tạo thẩm mỳ [24],

19


×