Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Các cuộc cải cách giáo dục trong lịch sử nước ta GD pháp GD cách mạng 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.32 KB, 65 trang )

CÁC CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC TRONG LỊCH SỬ NƯỚC TA( GD PHÁP, GD
CÁCH MẠNG)
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................... 3
NỘI DUNG............................................................................................................................... 4
Chương I. Cơ sở hình thành các cuộc cải cách giáo dục ở nước ta thời kì GD cách mạng
và GD thời kì Pháp xâm lược..................................................................................................4
1.1. Các khái niệm..................................................................................................................4
1.2 Quá trình xác lập nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ (1862-1886)...........................................6
1.2.1Mục đích của nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ...................................................................7
1.2.2Những thay đổi về chương trình học và tổ chức giáo dục...............................................9
Học trình cấp Tiểu học......................................................................................................14
Học trình cấp Trung học....................................................................................................14
1.2.3Kết quả của nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ (1862-1886)...............................................18
Chương II. Các cuộc cải cách giáo dục trong lịch sử nước ta( GD Pháp, GD Cách mạng)
................................................................................................................................................. 21
2.1Quá trình chuyển đổi nền giáo dục Việt Nam: từ Nho học sang Tây học (1886-1945)....21
2.1.1Khởi sự nền giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ..................................................................22
2.1.2. Song hành tồn tại: giáo dục Nho học và giáo dục Pháp - Việt.....................................25
a. Nguyên nhân tiến hành cải cách giáo dục......................................................................25
b. Cải cách giáo dục Nho học...............................................................................................26
c. Cải cách giáo dục Pháp - Việt...........................................................................................29
d. Kết quả của cuộc cải cách giáo dục...................................................................................32
2.1.3. Xác lập nền giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam.............................................................33
a. Sự cần thiết của nền giáo dục Pháp - bản xứ ở Đông Dương.........................................33
b. Chương trình học của Đệ nhất cấp và Đệ nhị cấp..........................................................34
a)Tại các trường Sơ đẳng Tiểu học (khơng tồn cấp)............................................................37
b) Tại các trường Tiểu học Toàn cấp.....................................................................................37
2.1.4. Một vài điều chỉnh của Merlin và Varenne..................................................................38
2.4. Các cuộc cải cách giáo dục cách mạng Việt Nam từ 1945 đến nay................................44
2.4.1. Cuộc cải cách năm 1950(Cải cách giáo dục lần thứ nhất của nền giáo dục Việt Nam


sau cách mạng Tháng Tám năm 1945)..................................................................................44
1


a) Nguyên nhân.....................................................................................................................44
b) Nội dung của cuộc cải cách..............................................................................................45
c) Tính chất và đặc điểm của cuộc cải cách giáo dục năm 1950...........................................49
d) Kết quả............................................................................................................................. 50
2.4.2. Cuộc cải cách giáo dục năm 1956...............................................................................50
a) Nguyên nhân.....................................................................................................................50
b) Nội dung........................................................................................................................... 51
c)Tính chất và đặc điểm của cuộc cải cách giáo dục năm 1956............................................53
d) Kết quả............................................................................................................................. 55
2.4.3 Cuộc cải cách giáo dục năm 1979 và hướng tương lai.................................................55
a) Nguyên nhân.....................................................................................................................55
b) Nội dung:......................................................................................................................... 57
c) Tính chất và đặc điểm của cải cách giáo dục lần thứ ba:...................................................58
Giáo dục thời kì đổi mới:......................................................................................................58
d)Kết quả.............................................................................................................................. 60
Chương III. Kết luận.............................................................................................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO:....................................................................................................65

2


MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, giáo dục đã
tồn tại, phát triển cùng với sự tồn tại, phát triển của dân tộc, ln đóng vai trị quan trọng như
một trụ cột cơ bản của việc xây dựng và vun đắp cho nền văn hiến lâu đời của đất nước.
Trải qua các thời kỳ: thời tiền sử, thời trước Bắc thuộc, thời Bắc thuộc, thời độc lập

trung đại và cận đại, thời thuộc Pháp và thời độc lập hiện đại, nền giáo dục đã từng phải đương
đầu với âm mưu xâm lược và đồng hóa của các thế lực phong kiến, thực dân, song vẫn giữ
được những truyền thống dân tộc tốt đẹp, tiếp thu có chọn lọc những gì tinh túy nhất của các
trào lưu văn minh nhân loại để hình thành một nền giáo dục đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ và
xây dựng đất nước, vừa có khả năng hội nhập vừa bảo toàn bản sắc dân tộc của riêng mình.
Thơng qua việc nghiên cứu các cuộc cải cách của nước ta, tìm hiểu tính chất, đặc điểm
của các cuộc cải cách giáo dục giai đoạn thực dân Pháp xâm lược và giai đoạn Cách mạng. Từ
đó rút ra những bài học kinh nghiệm về lịch sử cải cách GD của cha ông ta để tiếp tục phát
huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như tránh những sai lầm trong quá khứ.

3


NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở hình thành các cuộc cải cách giáo dục ở nước ta thời kì GD cách mạng
và GD thời kì Pháp xâm lược.
1.1. Các khái niệm
Cải cách: "Cải" là từ Hán-Việt có nghĩa là thay đổi, cách là phương pháp, hình thức
hành động. Cải cách là thay đổi phương pháp, hành động của một công việc, hoặc một hoạt
động cụ thể để đạt mục tiêu tốt hơn. Cải cách khác với cách mạng là khơng địi hỏi phải tiến
hành một cách khẩn trương, toàn diện và triệt để như cách mạng và đặc biệt là loại trừ bạo lực
vũ trang.
Giáo dục: Theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng,vàthói quen
của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào
tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng
có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta
suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường
được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học,
và giáo dục đại học.
Cải cách giáo dục: Cải cách giáo dục là sự thay đổi cơ bản và sâu sắc sự nghiệp giáo

dục của một quốc gia nhằm chuẩn bị cho quốc gia đó bước sang thời kì phát triển mới. CCGD
làm thay đổi mục tiêu, tổ chức, nội dung và phương pháp giáo dục. CCGD bắt đầu bằng việc
xác định mục tiêu đào tạo, vạch ra những nét lớn và chung nhất về hình mẫu con người cần
cho xã hội. CCGD không phải là thay đổi tất cả, mà kế thừa những gì là tích cực trong giáo
dục của thời kì trước. Tất cả những cơng việc kể trên của CCGD phải tính tốn sao cho bảo
đảm tính thực thi và đạt được hiệu quả cao, đồng thời phát huy đến mức cao nhất tiềm năng
trí tuệ và tri thức của quốc gia.
Ở Việt Nam, từ 1945 đến nay, CCGD được tiến hành thích ứng với các giai đoạn: Cách
mạng tháng Tám, Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến chống Mĩ và thống nhất đất nước.
Trong điều kiện đất nước Việt Nam vừa giành được độc lập lại phải đối phó với nạn ngoại
4


xâm, từ 1945 (CCGD lần 1) nhiệm vụ "chống giặc dốt" được đặt ngang hàng với nhiệm vụ
chống giặc đói và giặc ngoại xâm; chính sách giáo dục khi đó là tập trung xoá nạn mù chữ,
dùng tiếng Việt dạy và học ở tất cả các bậc học, xoá mọi tàn tích của chủ nghĩa thực dân trong
nội dung giáo dục, tiếp tục duy trì và phát triển giáo dục. Đến 1950 để phục vụ kháng chiến,
xây dựng vùng tự do, chuẩn bị kiến quốc, giáo dục thực hiện một cuộc cải cách nhằm xây
dựng một nền giáo dục dân chủ nhân dân với ba phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng,
cải tổ hệ thống giáo dục thành hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm gọn, nhẹ phù hợp với điều
kiện của đất nước lúc đó, dựa vào sức dân.
Giáo dục Pháp thuộc: Năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, lần lượt chiếm
đóng Sài Gịn và các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường rồi cưỡng chiếm nốt ba tỉnh miền
Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Để phục vụ cho guồng máy cai trị, người Pháp đặt
mục tiêu hủy diệt nền Nho học, chữ Hán, chữ Nôm phải triệt bỏ và thay thế bằng chữ Pháp,
chữ quốc ngữ cùng một họ mẫu tự La tinh. Hệ thống thi cử thời phong kiến bị hủy bỏ. Năm
1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây). Ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn. Loại bỏ được chế độ giáo dục
Nho học, nhưng để áp dụng nền giáo dục Pháp vào Việt Nam thì khơng đơn giản. Những năm
đầu, sối phủ Nam Kỳ gặp rất nhiều khó khăn khi hệ thống trường Nho học giải tán. Các giáo

chức rời bỏ nhiệm sở ra vùng tự do thuộc triều đình Huế để tiếp tục chức vụ. Nhiều học trị
gác bút nghiên, cầm giáo mác tham gia các lực lượng nghĩa quân.
Nhìn chung, bản chất của giáo dục Pháp là muốn hủy diệt nền giáo dục truyền thống,
xóa bỏ Nho giáo, chữ Nơm, bước đầu thực hiện nơ lệ hóa dân tộc ta.
Giáo dục Cách mạng: Sau khi những “nghĩa thục” bị đóng cửa, dịng giáo dục u nước
mới hình thành tưởng chừng bị chặn lại. Nhà cầm quyền Pháp đã đưa ra những chính sách gắt
gao trong quản lý giáo dục tư thục làm luồng gió giáo dục yêu nước bị đình trệ tuy nhiên vẫn
len lỏi như những con suối nhỏ chờ ngày chảy ra sông lớn và tràn ra biển rộng. Đây là quá
trình mà những nhà yêu nước như Nguyễn Ái Quốc đã tự mình tìm tịi, suy nghĩ, học tập, rèn
luyện để tìm ra con đường cứu nước.
Cuối 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu, Trung Quốc để xúc tiến những
công việc đã dự định. Tại đây Nguyễn Ái Quốc đã bắt liên lạc với Tâm Tâm xã, là một tổ chức
cách mạng người Việt Nam ở Quảng Châu và tổ chức yêu nước cảu cụ Phan Bội Châu;
5


Nguyễn Ái Quốc chọn những thanh niên trong các tổ chức nói trên và một số thanh niên yêu
nước vừa vượt lưới mật thám Pháp từ nước nhà trốn sang, mở lớp huấn luyện chính trị để đào
tạo họ thành những cán bộ cho phong trào cách mạng trong nước.
Là một người am hiểu khá sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lê-nin, nhưng không phải Nguyễn Ái
Quốc đã dạy ngay những vấn đề thuộc về lý luận cách mạng còn rất xa lạ với thanh niên ta lúc
đó. Đầu năm 1925, Nguyễn Ái Quốc biên soạn tập đề cương bài giảng mà sau này, năm 1927
được Bộ Tuyên truyền của “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông” xuất bản thành
sách dưới tiêu đề Đường cách mệnh.Có thể thấy, Nguyễn Ái Quốc chính là người đã đặt nền
móng cho Giáo dục cách mạng nước ta, trang bị lý luận cách mạng cho cán bộ và thanh niên
yêu nước tiến tới cách mạng tháng Tám.
1.2 Quá trình xác lập nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ (1862-1886)
Khi người Pháp giành được những thắng lợi quân sự trên vùng đất Nam Kỳ, họ đã đặt
sự quan tâm vào giáo dục. Đô đốc Bonard cho rằng “Trường học sẽ là cơ hội tốt để chúng ta
đồng hóa tồn bộ một dân tộc bằng cách đưa ngay dân tộc này vào hàng các quốc gia thuộc

ngôn ngữ Âu châu bởi việc loại bỏ chữ Hán …”1. “Chinh phục tâm hồn” của một dân tộc
ln thiết tha với các giá trị văn hóa truyền thống không phải là việc dễ làm. Trước khi có
được sự ổn định, nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ đã phải trải qua nhiều lần thay đổi, điều chỉnh
về chương trình học, tổ chức hệ thống, thậm chí, chính quyền thực dân cịn dùng đến các biện
pháp hành chính để hỗ trợ.
1.2.1Mục đích của nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ
Nền Nho học của thế kỷ XIX có thể là lực cản của sự phát triển xã hội, lạc hậu về nội
dung và phương pháp giáo dục nhưng vẫn còn đủ khả năng để đào tạo nên những sĩ phu yêu
nước, trung thành với nền độc lập của quốc gia - dân tộc. Do đó, khi quân đội triều đình vừa
thất bại trước ưu thế về vũ khí của quân xâm lược thì ngay lập tức khởi phát một phong trào
kháng chiến quy tụ toàn thể dân chúng Nam Kỳ mà lực lượng lãnh đạo, không ai khác, chính
là quan lại và sỹ phu. Khơng thể thi hành chính sách đồng hóa thái q trong tình cảnh hỗn
loạn, Đơ đốc Bonard quay sang tìm kiếm sự hợp tác từ phía các nhà Nho, bằng những lời lẽ
đi ngược lại quan điểm của các nhà truyền giáo “Còn về tôn giáo của người Pháp, nguyên tắc
của Pháp là không ép buộc ai theo tơn giáo đó cả; vì thế mọi người An Nam, khơng kể thuộc
đạo nào, đều có thể hành đạo theo ý mình mà khơng sợ gì cả …; Người Pháp tôn trọng chữ
1 Cao Huy Thuần,(2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyễn Thuần
dịch,NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 169.

6


nghĩa và những người học thức … Thay vì xua đuổi những người có học, Chính phủ chỉ
mong muốn được dùng họ để phục vụ hạnh phúc dân chúng (…) Chỗ nào mà tổ chức của
nước An Nam có thể lập lại được, thì các quan An Nam đều đã được phục chức. Mong rằng
các bậc hiền giả đã cai trị dân chúng hãy xuất hiện! Những chức vụ chưa có người hay chưa
có người xứng đáng nắm giữ chắc chắn sẽ được giao cho những người tài đức nhất,…” 2. Đối
lại với thái độ đầy thiện chí đó, “các nhà Nho né tránh mọi sự tiếp xúc và trung thành với
những mệnh lệnh của nhà vua đã rút lui, mang theo họ tất cả những tài liệu lưu trữ. Thế là các
cơ quan hành chính của Pháp phải đứng trước một khoảng chân không tuyệt đối” 3 . Trong

nhận thức của người dân, mọi sự tiếp cận với quân viễn chinh và hợp tác với chính quyền
thực dân đều là hành vi phản quốc, một tội lỗi không thể dung thứ. Chủ trương cai trị trực
tiếp của Đô đốc De La Grandière cũng không mang lại hiệu quả. Số nhân viên bản xứ mà
người Pháp thu nhận được nếu khơng phải là các con chiên thì là những tay ranh mãnh “sau
khi bị đuổi khỏi làng vì đói khổ hay phạm tội, lưng họ dẻo, rất hám sống, không nghĩ gì đến
cuộc chiến đấu dân tộc, sẵn sàng phục vụ mọi ông chủ” 4. Buộc phải tuyển chọn những con
người mà lòng trung thành quan trọng hơn khả năng thì những viên chức này chỉ có thể là
khơn ngoan nhưng “rất ít học thức mà nhiều người trong số họ trước đây sẽ không bao giờ
được nhận làm một chân thư lại trơn trong các văn phòng. Chúng ta bắt buộc phải lấy những
con người rất ít được học hành trong một tầng lớp rất kém về đạo đức,…Bởi vì cần phải có
những người theo chúng ta nên chúng ta đã phong những chức quan huyện cho những người
rất tầm thường, mù chữ, và đã gây nên một sự tổn thương rất lớn về đạo lý cho nền cai trị của
chúng ta”5. Trong khi đó, tại các trường làng, những nhà Nho hằng ngày vẫn dưỡng ni lịng
u nước cho học trò bằng lời dạy của Thánh hiền; chữ Hán vẫn là phương tiện lưu giữ
những giá trị văn hóa truyền thống, kháng cự lại mọi chủ trương khai hóa, truyền bá văn
minh phương Tây.
Bị cơ lập giữa một xứ sở xa lạ, điều mà người Pháp cần là sự ổn định về chính trị; có
một lực lượng nhân sự đủ trình độ và lịng trung thành cần thiết cho bộ máy công quyền; sự
giao tiếp trực tiếp với người bản xứ mà không phải thông qua trung gian là những thông
ngôn mà họ không mấy tin tưởng và đặc biệt, trong ánh mắt của chính quyền thực dân, nền
2 Cao Huy Thuần,(2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyễn Thuần
dịch,NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 181.
3,5 Philipe Devillers (2006) người Pháp và người Annam- Bạn hay thù, NXB Tổng hợp TPHCM,tr 265; 269.
4 Cao Huy Thuần,(2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyhlukễn Thuần
dịch,NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 186.
5

7



Nho học và chữ Hán là nguyên nhân của mọi bất ổn, rào cản của mọi nhu cầu tiếp xúc với
dân chúng, chướng ngại của mọi dự định truyền bá tôn giáo và văn minh, nhất thiết phải bị
loại bỏ. Cùng với những cuộc hành quân, tất cả những ước muốn vừa nêu được trao cho sự
nghiệp giáo dục do người Pháp đảm trách.
Thế hệ trưởng thành trong môi trường Khổng giáo đang tích cực thực hiện các hoạt
động kháng chiến rồi sẽ trôi vào quá khứ. Tương lai cho sự ổn định của nền thống trị Pháp ở
Nam Kỳ thuộc về trẻ em - đối tượng hướng đến của nền giáo dục mới. G. Dumoutier, Giám
đốc Học chính, cho rằng: “Một khi người ta muốn thay đổi hình dáng hoặc màu sắc của một
cái cây, người ta không thể bắt đầu với những cây đã phát triển hoàn toàn và đã sinh hoa kết
quả, mà người ta phải tác động đến các hạt, phải chăm sóc điều khiển việc nảy mầm và phát
triển của nó trong những miếng đất được chọn lọc và chuẩn bị đầy đủ. Muốn biến cải một
dân tộc cũng phải làm như vậy. Người ta sẽ thất bại nếu tấn công trực diện vào một nền văn
minh cổ trên hai nghìn năm như nền văn minh này (…). Nếu chúng ta muốn đặt được vĩnh
viễn ảnh hưởng của nước Pháp trên phần đất này của thế giới (…) thì phải làm cho họ tiêm
nhiễm tư tưởng của chúng ta dạy cho họ tiếng nói của chúng ta và do đó phải bắt đầu từ nhà
trường và chú ý trước tiên đến trẻ em” 6. Thật vậy, một khi nền giáo dục mới thành công trong
việc “giải phóng hồn tồn và vĩnh viễn các thần dân mới của nước Pháp ra khỏi ảnh hưởng
của những nhà Nho ở Huế và của nền văn minh Trung Hoa - Khổng giáo” 7 thì điều mà người
Pháp có được không chỉ là “những nhân viên giàu năng lực” 8, như mong muốn của Đô đốc
Bonard, mà to lớn hơn, Nam Kỳ sẽ trở thành “một mảnh đất Pháp trong trái tim, trong tư
tưởng và trong khát vọng”9. Như vậy, giáo dục, cùng với các lĩnh vực khác, sẽ đảm nhận sứ
mệnh: Biến Nam Kỳ thành “một Đế quốc Gia Tơ và Pháp” 10.
1.2.2Những thay đổi về chương trình học và tổ chức giáo dục
Chương trình học và hệ thống tổ chức giáo dục được thiết kế nhằm đáp ứng mục đích
giáo dục, phù hợp với đường lối giáo dục của nhà cầm quyền. Khi nền giáo dục còn đang
trong q trình dị dẫm thì chương trình học và hệ thống tổ chức, do sự chi phối của quan
6 Nguyễn Trọng Hồng (1967) Chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam, tạp chí nghiên cứu lịch sử, tr 14.
7,8 Trần Thị Thanh Thanh (2012) Hỏi và đáp về nề giáo dục Nam bộ thời kì 1867-1945, báo cáo tổng kết đề tài kh-cn cấp
cơ sở ĐHSPTPHCM, tr 35, tr 33.
8


9 Nguyễn Văn Trung (1963) chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại, NXB Sài Gòn, tr131.
10 Cao Huy Thuần,(2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyễn Thuần
dịch,NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 177.

8


điểm cai trị và tình hình thực tế ở Nam Kỳ, chưa thể có ngay được sự ổn định.
Điều mà người Pháp quan tâm nhiều nhất từ khi chuyển quân vào Gia Định (1859)
cho đến khi thâu tóm tồn bộ Nam Kỳ (1867) là các vấn đề liên quan đến cuộc chiến tranh
giành lãnh thổ: kế hoạch đánh chiếm các tỉnh, thái độ của triều đình Huế, phong trào kháng
chiến lan rộng khắp nơi do các sỹ phu lãnh đạo và được dân chúng hết lịng ủng hộ. Do đó,
trong báo cáo đọc tại buổi họp ngày 23/10/1889 của Hội đồng Nghiên cứu Đông Dương,
Emile Roucoules viết “Trong giai đoạn chiến tranh chinh phục, các vị tư lệnh không thể
nghĩ đến việc tổ chức giáo dục, và chỉ cấp một số học bổng, trích từ quỹ quân đội, cho hai
trường để đào tạo những phụ tá cần thiết, những người, hầu hết chỉ nói được một thứ tiếng
La-tinh bập bẹ …”. Giáo dục, theo thứ bậc ưu tiên, còn ở vào vị trí thứ yếu, chưa được tổ
chức quy củ.
Sau khi hạ thành Gia Định (1859), đoàn quân viễn chinh gặp phải trở ngại đầu tiên
trên vùng đất mới: giao tiếp với người bản xứ. “Đối với một nước đi chinh phục, chướng
ngại lớn nhất phải khắc phục trước những dân tộc bị chinh phục chính là sự khác biệt về
ngôn ngữ” 11Bị cô lập, bị người bản xứ lợi dụng sự kém hiểu biết về ngôn ngữ lừa vào
những ổ phục kích, gặp khó khăn khi muốn trưng lên một thơng cáo hay chỉ thị, người Pháp
chỉ cịn biết trông cậy vào sự hỗ trợ của các giáo sỹ Thiên chúa và một số con chiên, những
con người không đáng tin lắm, ở vai trị thơng ngơn. Trong hồn cảnh đó, ngày 21/9/1861,
Đơ đốc Charner ký Nghị định thành lập trường Bá Đa Lộc, do Giáo sỹ Croc và Linh mục
Thu, người Việt, phụ trách, với mục đích được xác định: Đào tạo thông ngôn và những thư
ký làm việc trong các cơ quan hành chính 12. Như vậy, mở trường đào tạo thông ngôn là
bước đầu tiên của việc thiết lập một nền giáo dục Âu hóa tại Nam Kỳ. Trên thực tế, đây là

một cơ sở đào tạo nhân viên phục vụ cho quân đội Pháp chiếm đóng ở Nam Kỳ hơn là một
cơ sở giáo dục đúng nghĩa 13.
Để tuyên bố “Người Pháp tôn trọng chữ nghĩa và những người có học thức” 14khơng
trở thành lời nói sng, Thống đốc Bonard, ngày 31/3/1863, đã ký Nghị định tái lập nền học
11 Trần Thị Thanh Thanh (2012) Hỏi và đáp về nề giáo dục Nam bộ thời kì 1867-1945, báo cáo tổng kết đề tài kh-cn cấp
cơ sở ĐHSPTPHCM, tr 32.
12 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 35.
13 Trần Thị Thanh Thanh (2012) Hỏi và đáp về nề giáo dục Nam bộ thời kì 1867-1945, báo cáo tổng kết đề tài kh-cn cấp
cơ sở ĐHSPTPHCM, tr 38.
14 Cao Huy Thuần,(2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyễn Thuần
dịch,NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 181.

9


chính tại 3 tỉnh miền Đơng (Gia Định, Biên Hịa, Định Tường) mà nội dung chính là
“Đứng đầu mỗi tỉnh về ngành giáo dục là một viên Đốc học. Nhiệm vụ của Đốc học
cũng như xưa, tức tổ chức và tập trung tất cả những gì liên quan tới học chính tại phủ huyện
và xã thơn trong tỉnh, mở các cuộc thi khảo lục cá nguyệt, trông nom việc thực thi quyền lợi
của giới sỹ phu trong xã thôn, khuyến khích việc học hành …
Đốc học làm việc dưới sự chỉ đạo của Tổng đốc tỉnh (người Pháp) và có nhiệm sở
tại tỉnh lỵ. Đốc học lại có những viên chức phụ tá trong nhiệm vụ học chính, giữ chức Giáo
thọ tại phủ và Huấn đạo tại huyện …
Mỗi viên Đốc học phụ trách một nhà trường giáo dục thanh niên gọi là học sanh
được lựa chọn trong số học sinh thơng minh nhất trong tỉnh nhằm mục đích đẩy mạnh việc
học vấn của họ: sẽ có 10 học sanh tại tỉnh Gia Định, 6 học sanh tại tỉnh Định Tường, 6 học
sanh tại tỉnh Biên Hịa; có thể nhận cả tú tài hay cử nhân trong số học sanh đó .
Các cuộc đại khảo thí xưa được tổ chức 3 năm một lần, nay sẽ được tái lập dành cho
3 tỉnh thuộc Pháp, cũng giống như lề thói cũ. Khóa thi 3 năm đầu tiên sẽ được tiến hành vào
tháng 9 năm Giáp Tí (10/1864). Sau mỗi cuộc khảo thí, các cấp bằng tú tài và cử nhân sẽ

được trao cho những học sinh xứng đáng nhất của cả 3 tỉnh …
Để phổ biến chữ quốc ngữ la tinh, mỗi vị Giáo thọ sẽ có một viên thơng ngơn phụ
tá. Tuy nhiên chưa bắt buộc phải học chữ quốc ngữ ngay …
Tại xã thôn, việc học do các Thầy dạy học tiến hành vẫn được duy trì theo tập quán
địa phương” 15.
Ban hành Nghị định này, Bonard hoàn toàn khơng có ý tổ chức một nền giáo dục mới
ở Nam Kỳ. Ý định được thể hiện rất rõ ràng: hệ thống học quan (Đốc học, Giáo thụ, Huấn
đạo) vẫn tồn tại và thực hiện chức trách giống như đã từng làm trước năm 1859; hệ thống
khoa cử sẽ vẫn được tổ chức theo lệ định, giữ nguyên các học vị cử nhân, tú tài được tuyển
chọn từ kỳ thi Hương dự định sẽ tổ chức vào năm sau (1864); tại các trường làng, các thầy đồ
vẫn tiếp tục việc dạy học theo cách của họ, nhà cầm quyền Pháp sẽ không can thiệp. Chỉ một
điểm mới duy nhất trong nội dung học tập là: phổ biến chữ quốc ngữ Latin. Nhưng ngay cả
điều này cũng chỉ là một đề nghị, Bonard nêu rõ: “chưa bắt buộc phải học chữ quốc ngữ ngay
…”. Cần lưu ý rằng, nội dung Nghị định không hề nhắc đến việc học chữ Pháp loại văn tự mà
15 Trần Văn Giàu_Trần Bạch Đằng ( chủ biên)1998 Địa chí văn hóa TPHCM tập 1, NXB TPHCM, tr 694.

10


các Giáo sỹ rất mực đề cao trong sự nghiệp “đồng hóa”. Chính sách “phóng khống” của
Bonard16 - kết quả của dụng ý cai trị dựa trên phong tục, tập qn cũ trong điều kiện tình hình
Nam Kỳ cịn chưa ổn định - lại bị phản đối ngay trong chính nội bộ của đoàn quân viễn
chinh, với những lo ngại về một tương lai “khôi phục lại trên đất Nam Kỳ những trường học
hoàn toàn chống đối lại nền thống trị của chúng ta” và “một điều chắc chắn rằng những kỳ thi
sẽ làm cho chúng ta hết sức lúng túng, vì với một thiểu số người Pháp khơng thể kiểm soát
nổi việc học hành và xuất bản sách, và các thầy đồ sẽ lợi dụng cơ hội để quấy rối dân chúng
và kích động họ chống lại chúng ta” 17. Mong đợi một sự hợp tác giữa những sĩ phu yêu nước
và kẻ xâm lược là điều không tưởng. Các nhà Nho vẫn thản nhiên tiến hành công việc của họ:
dạy học, ủng hộ phong trào kháng chiến. Cuối cùng, Nghị định của Bonard, cùng với chủ
trương cai trị gián tiếp do ông đề xướng, đã không thực hiện được. Sau năm 1861, các kỳ thi

Nho học đã vĩnh viễn khơng cịn được tổ chức trên địa bàn các tỉnh miền Đơng Nam Kỳ.
Nhìn nhận vấn đề giáo dục theo một chiều hướng khác với người tiền nhiệm nhưng
lại phù hợp với xu hướng chung, Đô đốc De La Grandière nêu rõ: “Việc thay thế chữ Hán
bằng chữ viết theo mẫu tự La Tinh, theo tơi, có lẽ là một trong các điều thích hợp nhất nhằm
giáng một địn chí tử trên tinh thần duy lý Trung Hoa cũ kỹ (…) việc phổ biến các mẫu tự
La Tinh sẽ giải thoát chúng ta vĩnh viễn khỏi những kẻ nguy hiểm đó [nhà Nho] và sẽ làm
cho quan hệ của chúng ta, với dân tộc ngoan ngoãn và dễ đồng hóa này, trở nên trực tiếp và
chắc chắn hơn”18.Ngày 16/7/1864, Đô đốc De La Grandière ban hành Nghị định tổ chức một
số trường tiểu học ở các tỉnh để dạy quốc ngữ và dạy toán. Sách giáo khoa được ấn hành,
gồm: 1 cuốn về các mẫu chữ Quốc ngữ, 2 cuốn về số học và hình học sơ giản. Do chưa kịp
biên soạn, học sinh tạm thời dùng tờ Nguyệt san Thuộc địa hoặc tờ Gia Định báo thay cho
các sách tập đọc 19. Trong khi loại chữ Hán ra khỏi nội dung học tập tại các trường do người
Pháp tổ chức, Nghị định vừa nêu cũng chưa xây dựng được một chương trình học và hệ
thống tổ chức trường lớp hoàn chỉnh để thay thế Nho học, đảm đương vai trị giáo dục. Dù
Đơ đốc De La Grandière ln có những biểu hiện quan tâm đến việc dạy học ở các trường
vừa được thành lập nhưng dân chúng Nam Kỳ vẫn giữ thái độ cố hữu: bất hợp tác.
16 Cao Huy Thuần,(2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyễn Thuần
dịch,NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 178-188.
17 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 37.
18 Cao Huy Thuần,(2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyễn Thuần
dịch,NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 199.
19 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 37.

11


Như vậy, sau 5 năm đóng quân, nhà cầm quyền Pháp đã tổ chức được ở Nam Kỳ
một số trường học theo kiểu mới, hoàn toàn khác với các trường Nho học: Loại thứ nhất là
trường dạy tiếng Pháp cho một số người Việt và dạy tiếng Việt cho một số người Pháp
nhằm đào tạo những thông dịch viên đáp ứng nhu cầu giao tiếp của quân Pháp ở Nam Kỳ,

về sau gọi là trường Thông ngôn, được mở tại Sài Gòn; Loại thứ hai là một số trường được
mở ở các tỉnh để dạy chữ Quốc ngữ và dạy toán cho người lớn và trẻ em, về sau được xếp
vào loại trường tiểu học 20. Tuy nhiên, theo Vial, “Tình hình bước đầu của những trường học
quả là vất vả. Dân chúng mới bị chinh phục và chưa thích nghi với sự quan tâm của các
quan cai trị, không hiểu và không thể hiểu nổi tư tưởng rất đỗi quảng đại của chúng ta. Do
đó, những lời kêu gọi đối với những người chủ gia đình cho con em đi học đều được coi như
là một cách bắt lính, chủ làng đi bắt trẻ con như người ta bắt thuế” 21.Sự chống đối của dân
chúng cùng với những hạn chế nội tại trong cách thức tổ chức nền giáo dục đã dẫn đến, theo
đánh giá của Luro, “Sự thực kết quả các trường học của chúng ta gần như khơng có gì” 22.
Nếu muốn tiếp tục sự nghiệp “chinh phục tinh thần”, người Pháp cần phải tổ chức lại nền
giáo dục mà điều trước hết là phải giải quyết vấn đề: mức độ tồn tại của nội dung Nho học
trong chương trình học mới.
Ngày 17/11/1874, Chuẩn Đơ đốc - Thống đốc Krant ký Nghị định tổ chức lại nền
học chính với 4 khoản và 23 điều, trong đó, những nội dung cần lưu ý là23 :
Điều 1. Nền học chính được hồn tồn miễn phí và tự do cho người châu Á trong
các trường thuộc địa.
Điều 3. Không một tư thục nào được mở nếu khơng có phép của chính quyền (…).
Điều 9. Trường dạy chữ quốc ngữ la tinh do chính quyền thuộc địa lập tại xã thơn,
nay bãi bỏ. Học sinh các trường đó, nếu yêu cầu, sẽ được gửi tới học tại các trường tiểu học
mà chương trình học sẽ được ấn định.
Điều 10. Trường Tiểu học sẽ được thiết lập tại mỗi lỵ sở địa hạt (sau là tỉnh), nhưng
nay tạm thời mới đặt ở những nơi: Sài Gòn, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng. Tại
20

Trần Thị Thanh Thanh (2012) Hỏi và đáp về nề giáo dục Nam bộ thời kì 1867-1945, báo cáo tổng kết đề tài kh-cn

cấp cơ sở ĐHSPTPHCM, tr 32-33.

21 ,22 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 38- tr 35.
22

23 Trần Văn Giàu_Trần Bạch Đằng ( chủ biên)1998 Địa chí văn hóa TPHCM tập 1, NXB TPHCM, tr 697-701.

12


các quận khác, trường dạy quốc ngữ la tinh ở xã thôn sẽ tập hợp chung vào một trường ở lỵ
sở và tiếp tục sinh hoạt theo lối cũ cho tới khi có lệnh mới.
Điều 15. Nay bãi bỏ trường Sư phạm tại Sài Gòn, để thiết lập một trường lấy tên là
trung học bản xứ (Collège indigène) dạy ban trung học mà chương trình sẽ ấn định sau.
Thời gian học là 3 năm … trường này do một quan chức người Pháp điều khiển, có
dưới quyền là giáo sư người Âu hoặc Annam.
Nghị định ngày 17/11/1874 quy định Chương trình học chính

13


Học trình cấp Tiểu học
Tập đọc và tập viết chữ quốc ngữ la tinh, chữ nho - Học tiếng Pháp, Mẹo hay pháp
ngữ sơ đẳng - Toán pháp sơ đẳng - Hình học sơ đẳng - Khái niệm đo đạc sơ đẳng - Khái
niệm tổng quát về lịch sử và địa lý.
Học trình cấp Trung học
Học kỹ tiếng Pháp - Sơ yếu về văn học Pháp - Làm luận bằng tiếng Pháp, quốc ngữ
và chữ nho - Khái niệm về lịch sử cổ đại và hiện đại căn cứ chính yếu trên vai trò của nước
Pháp - Địa lý đại cương - Sơ yếu về vũ trụ học - Toán học (theo chương trình định sau) - Đại
số học chính yếu - Hình học - Đo diện tích và khối tích - Đo đạc ruộng đất và vẽ bình đồ Vật lý học và hóa học sơ đẳng - Sơ yếu về vạn vật học - Giữ sổ sách kế tốn - Hội họa.
Sau 13 năm, nếu tính từ khi trường học đầu tiên được thành lập, nền giáo dục Nam
Kỳ mới được tổ chức theo một bản quy chế có những quy định cụ thể về hệ thống cấp học
và chương trình học. Theo đó, tổng thời gian học là 6 năm, qua 2 cấp: Tiểu học (3 năm),
Trung học (3 năm). Chương trình học khơng chỉ có tốn, chữ quốc ngữ như Nghị định ngày
16/7/1864 mà đã bao gồm hệ thống phân môn được quy định rõ ràng. Chữ Hán, từ chỗ bị

giáo sỹ và một bộ phận sỹ quan phản đối dưới thời Bonard, bị loại bỏ dưới thời De La
Grandière, đã có được vị trí nhất định trong chương trình ở cả 2 cấp học. Tuy nhiên, chữ
Hán và chữ Quốc ngữ chỉ được dạy ở cấp Tiểu học, làm luận ở cấp Trung học, ưu thế trong
lĩnh vực ngôn ngữ thuộc về chữ Pháp mà học sinh được học kỹ lưỡng trong suốt thời gian
học, ngồi đọc - viết, làm luận, chương trình trung học cịn có: Sơ yếu về văn học Pháp.
Chương trình học này mang đến cho học sinh dung lượng kiến thức tuy lớn nhưng toàn
diện, thống nhất về nội dung: những hiểu biết về ngữ pháp, tốn pháp, hình học, đo đạc, lịch
sử và địa lý thuộc trình độ sơ đẳng, tổng quát ở cấp tiểu học trở thành nền tảng để tiếp nhận
lượng kiến thức được mở rộng, số môn học được thêm vào ở cấp trung học; và trong một
chừng mực nhất định, những điều đã học có thể ứng dụng vào thực tiễn. Một nội dung quan
trọng liên quan đến vấn đề tổ chức cần được lưu ý là: Trường tư thục trong quy định
“Không một tư thục nào được mở nếu khơng có phép của chính quyền” (Điều 3) không bao
gồm các trường học của thầy đồ vì ngay sau khi liệt kê các cơ sở giáo dục không thuộc
phạm vi áp dụng của điều khoản kể trên, quy chế nêu rõ: “các trường tiểu học tự do đang
hoạt động tại xã thôn thường gọi là trường dạy chữ nho, đều được miễn xin phép. Tham
14


biện sẽ kiểm sốt các trường đó” (Điều 4). Nhà cầm quyền Pháp đã thừa nhận sự tồn tại của
nho học bằng văn bản pháp quy với thái độ ưu ái: “Thầy dạy chữ nho nếu dạy thêm quốc
ngữ la tinh sẽ được thưởng thêm 200 francs mỗi năm” (Điều 4). Như vậy, cho đến thời điểm
hiện đang xem xét, ở Nam Kỳ, tồn tại song hành hai hệ thống giáo dục theo hai chương
trình học khác nhau do nhà cầm quyền tổ chức tại lỵ sở địa hạt (sau là tỉnh) và các thầy đồ
lập ra theo mơ hình truyền thống ở các xã thôn.
Được áp dụng ở Nam Kỳ trong những năm 1874-1879, chương trình học mới tuy có
nhiều ưu điểm nhưng lại mơ phỏng hầu như hồn tồn theo chương trình và sách giáo khoa
của Pháp nên không phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh đồng thời cũng chưa giải
quyết thỏa đáng điều sai lầm nhất mà Luro đã chỉ ra: “đòi thay thế triệt để, toàn bộ nền giáo
dục của xứ này bằng việc học chữ La-tinh” 24 . Do vậy, tình trạng học sinh theo học tại các
trường cho người Pháp tổ chức, như nhận xét của Piquet, vẫn là: “Tôi đoan chắc rằng trong

hầu hết trường của chúng ta, nhiều học sinh hiện là những đứa trẻ nghèo khổ mà xã thôn
phải thuê mướn cho đi học”25 . Nền giáo dục Nam Kỳ lại đặt ra yêu cầu cải cách.
Ngày 17/3/1879, Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký Nghị định cải tổ giáo dục. Được
dùng để thay thế cho bản Nghị định do Chuẩn Đơ đốc Krant ban hành trước đó 5 năm, Quy
chế 1879 xác định lại hệ thống tổ chức nền giáo dục và xây dựng chương trình học mới, thể
hiện qua một số điều khoản sau26:
Điều 4. Theo nguyên tắc, các trường tiểu học, trung học đã được thành lập theo nghị
định ngày 17/11/1874, đều được bãi bỏ và thay thế bởi các trường cấp 1, cấp 2 và cấp 3.
(…)
Điều 5. Mỗi trung tâm dưới đây sẽ thành lập một trường cấp 1:
Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bến Tre, Biên

Hịa, Long

Xun, Gị Cơng, Trảng Bàng, Cần Thơ, Trà Vinh, Sa Đéc, Tân An, Châu Đốc, Bà Rịa, Thủ
Dầu Một, Rạch Giá, Hà Tiên và Cái Bè. Mỗi trung tâm dưới đây sẽ lập một trường cấp 2: Sài
Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sóc Trăng và Bến Tre. Các trường này sẽ
được mở dần và theo thứ tự như trên tùy theo ngân sách cho phép.
Điều 6. Trường Chasseloup-Laubat trở thành trường cấp 3. Trong giai đoạn chuyển tiếp,
cho đến khi có lệnh mới, trường dạy theo chương trình cấp 2 …
24 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 141.
25 , 26Trần Văn Giàu_Trần Bạch Đằng ( chủ biên)1998 Địa chí văn hóa TPHCM tập 1, NXB TPHCM, tr 701; tr 702-707.
26

15


Điều 20. Chương trình giáo dục tại Nam Kỳ và thời gian học được quy định như sau:
Trường cấp 1 - Thời gian: 3 năm Lớp Pháp ngữ
1. Các yếu tố về Pháp ngữ

2. Số học: bốn phép tính và hệ thống đo đạc so sánh; tương quan giữa đong đo Pháp và Việt
Nam (không chứng minh)
Lớp chữ Nho và Quốc ngữ
- Sách Tứ thư, chú giải, tập viết chữ nho
- Tập kể chuyện bằng quốc ngữ
- Tập đọc chữ quốc ngữ
Trong năm thứ ba, giáo viên sẽ nhấn mạnh đến Pháp ngữ nói và nếu có thể, bắt đầu đưa dần
Pháp ngữ nói vào các buổi học tiếng Pháp. Các lớp dạy đủ môn học chia ra như sau: ba lớp
dành cho các môn dạy bằng Pháp văn, một lớp quốc ngữ và một lớp Hán văn.
Trường cấp 2 - Thời gian: 3 năm Lớp Pháp ngữ
1. Pháp ngữ: Văn phạm Pháp, tập đọc, tập viết (nhấn mạnh việc học ngơn ngữ nói); kể
chuyện và luận văn; tập dịch từ tiếng Việt sang Pháp ngữ và từ Pháp ngữ sang tiếng Việt
(nhấn mạnh việc dịch Việt sang Pháp ngữ).
2. Số học: Bốn phép tính; hệ thống đo lường; phân số; tam suất; chiết khấu; lãi suất và hội
bn.
3. Hình học cơ bản và thực hành; đo diện tích và khối lượng (không chứng minh) 4.Địa lý: Ý
niệm tổng quát về năm châu thế giới (nhấn mạnh về nước Pháp và các thuộc địa Pháp)
5.Tập vẽ: đường thẳng và vẽ nghệ thuật (các yếu tố) Lớp chữ nho và quốc ngữ Tứ thư:
Quảng diễn, chú giải, bình luận, kể chuyện, hoặc bằng chữ nho hoặc bằng quốc ngữ; lịch sử
và địa lý nước Nam Mỗi tuần sẽ có 2 giờ chữ nho và chữ quốc ngữ, các giờ khác dành hết
cho lớp tiếng Pháp.
Trường cấp 3 - Thời gian: 4 năm Lớp Pháp ngữ
1. Pháp ngữ: Văn phạm đầy đủ; luận văn theo đề tài
2. Số học: Học trọn, trừ căn lập phương, tính gần đúng các số thập phân và các phép tính liên
hệ (sai số tỷ đối)
3. Hình học phẳng, trừ những gì địi hỏi kiến thức về phương trình bậc 2; diện tích và thể tích
4.Đại số học: Tới phương trình bậc 2
5.Lượng giác: Cách giải các tam giác phẳng
6. Trắc lượng: Đo mặt phẳng với dụng cụ thơng thường, đo thăng bằng; ý niệm về hình học
16



họa hình
7. Vẽ: Áp dụng vào cách vẽ mặt phẳng; vẽ thủy mặc
8.Giữ sổ sách (kế toán đơn và kế tốn kép)
9.Địa lý: Năm châu thế giới; sơng và dãy núi đáng kể; phân chia chính trị; khí hậu; sản phẩm
chính (chi tiết hơn về nước Pháp và các thuộc địa Pháp)
10. Vũ trụ học: Ý niệm đại cương
11. Hóa học: Các nguyên tố; ý niệm tổng quát về những chất thể thường dùng và được biết
nhiều nhất
12. Vật lý: Ý niệm đại cương, ứng dụng vào các ngành kỹ nghệ (viễn thông)
13.Vạn vật học: Động vật; thực vật; địa chất (ý niệm đại cương) Lớp chữ nho và quốc ngữ
- Tứ thư: Bình giảng; bình chú bằng chữ nho và chữ quốc ngữ
- Học các loại văn tự thông thường của Việt (khế ước …)
- Lịch sử và địa lý Việt Nam Mỗi tuần sẽ có một giờ học chữ nho và quốc ngữ. Các giờ khác
dành cho các lớp Pháp ngữ. Đặt trong sự so sánh với Quy chế 1874, có thể nhận thấy sự khác
biệt trong quy định về hệ thống giáo dục và nội dung chương trình học. Theo quy chế mới,
tổng thời gian học là 10 năm (tăng 4 năm), gồm 3 cấp học: cấp 1 (3 năm), cấp 2 (3 năm), cấp
3 (4 năm). Nếu lưu ý rằng, mãi đến khi De La Grandière thay Bonard làm tổng chỉ huy thì ở
Nam Kỳ, ngồi các trường Thông ngôn, nhà cầm quyền chỉ lập ra một số trường tiểu học và
Quy chế 1874 cũng chỉ thiết lập được 2 cấp học với thời lượng khiêm tốn là 6 năm thì đến
thời điểm này, có thể xem nền giáo dục công ở Nam Kỳ do người Pháp đảm trách đã có được
sự hồn chỉnh về khâu tổ chức và hợp lý trong cách phân định cấp học, thời gian học cho
từng cấp. Chương trình học được thiết lập lại theo hướng giản lược số môn học nhưng vẫn
đảm bảo được tính tồn diện và thống nhất về nội dung qua các cấp học. Ở cấp 1, học sinh
chỉ học những kiến thức cơ bản về Pháp ngữ, Số học, chữ Nho và chữ quốc ngữ. Những môn
học này sẽ tiếp tục được dạy ở cấp 2 nhưng được mở rộng và nâng cao, có bổ sung thêm vài
mơn học mới như: Hình học, Địa lý, Tập vẽ. Tương xứng với thời lượng 4 năm, có đến 13
môn mà học sinh phải học ở cấp 3. Gần giống với học trình cấp trung học của Quy chế 1874,
những môn học này sẽ cung cấp lượng kiến thức bao quát trên nhiều lĩnh vực đủ để sau khi

tốt nghiệp, người học được nhận vào trong các cơ quan hành chính thuộc địa để làm các cơng
việc như thư lại (lettrés), thơng ngơn, thư ký thực thụ, thậm chí nếu bằng Brevet supérieu
(bằng Cao đẳng) đạt hạng ưu, học sinh có thể được chính quyền hỗ trợ kinh phí để du học ở
Pháp (Điều 15). Chương trình học đã thể hiện sự chú ý đến “tâm lý của một dân tộc vốn có
17


nền văn minh lâu đời”27 khi chữ Hán vẫn được dạy xuyên suốt trong 10 năm học và học sinh
đã được, dù thời lượng khơng nhiều, tìm hiểu về lịch sử và địa lý Việt Nam ngay từ cấp 2,
tiếp tục ở cấp 3. Tuy nhiên, cũng như Quy chế 1874, chữ Pháp vẫn giữ ưu thế tuyệt đối so với
chữ Nho và chữ Quốc ngữ và một điều nghịch lý là: trong khi việc học Tứ thư, một nội dung
rất quan trọng của Nho học, theo trình độ ngày càng nâng cao (được nhắc đến ở cấp 1, “chú
giải, bình luận, kể chuyện” ở cấp 2, “bình giải, bình chú” ở cấp 3) thì thời lượng học chữ Nho
và chữ Quốc ngữ, vốn đã rất ít, lại bị giảm từ 2 giờ/ tuần ở cấp 2 còn 1 giờ/tuần ở cấp 3. Do
vậy, việc học tập chắc chắn sẽ không đạt hiệu quả. Một điều đáng lưu ý nữa là, Quy chế 1879
tái xác định quyền tự do thành lập các trường học của thầy đồ trong điều 3: “(…) Cũng được
miễn xin phép, các trường tiểu học đã hoặc sẽ được thành lập trong các làng và thường gọi là
trường dạy chữ nho. Các tham biện sẽ khuyến khích và tạo dễ dàng trong việc thành lập các
trường đó tại mỗi làng. Các tham biện, thanh tra bản xứ sự vụ và giám đốc học chính có
nhiệm vụ thanh sát các trường này” đồng thời khuyến khích dạy chữ Quốc ngữ và tiếng
Pháp: “Các giáo viên dạy chữ nho và tập cho học sinh các trường đó làm quen với chữ quốc
ngữ la tinh và một chút tiếng Pháp, có thể được thưởng, tiền thưởng tùy theo số lượng và lực
học của học trò do họ đào tạo”28.
Trong hoàn cảnh Nam Kỳ đã là thuộc địa của Pháp thì một chương trình học theo Quy
chế 1879, chắc chắn chưa làm vừa ý người dân bản xứ, nhưng vẫn có thể chấp nhận. Nếu có
khó khăn trong q trình áp dụng thì đó lại thuộc về sự thiếu chặt chẽ trong cách tổ chức. Tuy
nhiên, khi ban hành Quy chế, Lafont chưa lường hết tình trạng thiếu giáo viên, giáo viên chất
lượng kém, thiếu sách giáo khoa, giáo cụ phục vụ cho việc học tập và chưa xác định rõ loại
văn tự mà học sinh sẽ được học tại các trường tổng và trường xã 29 . Quy chế 1879 được thực
hiện ở Nam Kỳ cho đến năm 1917, dù Lemyre de Viler, người kế nhiệm Lafont, đã dự định

áp dụng một nền giáo dục với nội dung như ở Pháp nhưng dạy bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán
gần như hồn tồn bị xóa bỏ30.
1.2.3Kết quả của nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ (1862-1886)
27 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 49.
28 Trần Văn Giàu_Trần Bạch Đằng ( chủ biên)1998 Địa chí văn hóa TPHCM tập 1, NXB TPHCM, tr 702.

29,30 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 49-50.
30

18


Cần nhắc lại ở đây rằng, khi thiết lập nền giáo dục mới ở Nam Kỳ, người Pháp muốn
có được những nhân viên hành chính, truyền bá văn minh phương Tây, loại bỏ sự tồn tại của
chữ Hán và ảnh hưởng tầng lớp Nho sỹ trong dân chúng. Đối chiếu với mục đích vừa nêu,
nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ đã đáp ứng được gần như tất cả, tuy ở mức độ có khác nhau
đối với từng vấn đề. Các trường dạy theo chương trình của Quy chế 1874, và sau đó là Quy
chế 1879, đã đào tạo được những người đủ khả năng làm việc trong bộ máy công quyền.
Thông qua nội dung học tập, học sinh đã bắt đầu tiếp cận được các tri thức khoa học của nền
văn minh phương Tây. Được chính thức thừa nhận trong văn bản pháp quy, các trường học
của thầy đồ vẫn có đơng đảo học sinh theo học. Tuy nhiên, chữ Hán dần mất đi những cơ sở
để tồn tại. Chế độ khoa cử Nho học bị bãi bỏ ở miền Đông Nam Kỳ sau khoa thi Tân Dậu
(1861) và ở miền Tây Nam Kỳ sau khoa thi Giáp Tý (1864). Có ý nghĩa quyết định hơn cả
là Nghị định 6/4/1878 mà nội dung của nó là lời thơng báo, sau 4 năm nữa, chút uy thế còn
lại của chữ Hán trong lĩnh vực hành chính sẽ bị phế bỏ: “Điều 1. Kể từ ngày 1-1-1882 tất cả
những văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị … sẽ được
viết, ký và công bố bằng chữ An Nam mẫu tự Latinh. Điều 2. Kể từ ngày trên, không một
tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào được cho phép trong ngạch phủ,
huyện, tổng đối với bất cứ ai không viết được chữ quốc ngữ” 31. Tuy nhiên, nếu tiêu chí đánh
giá là số lượng học sinh theo học tại cơ sở giáo dục thì ở thời điểm 1886, tỷ lệ học sinh theo

học tại các trường của Pháp chưa đến 1% (dân số Nam Kỳ lúc đó khoảng 2 triệu người)
trong khi các trường Nho học vẫn tồn tại với gần 8496 học sinh và 426 thầy đồ. Kết quả
việc mở trường trên toàn Nam Kỳ đến năm 1886 được Paullus và Boinais thống kê như sau:
“Có 17 trường do người Âu giảng dạy và quản lý gồm 10 trường cho nam sinh, 7 trường
cho nữ sinh. Trong 10 trường nam sinh có 48 giáo viên người Pháp, 78 giáo viên người Việt
dạy cho 1829 học sinh. Trong 7 trường nữ sinh có 25 giáo viên Pháp và 13 giáo viên Việt
dạy cho 992 học sinh. Có 16 trường hàng quận với 24 giáo viên Pháp và 51 giáo viên Việt
dạy cho 1553 học sinh. Có 219 trường hàng tổng với 270 giáo viên Việt dạy cho 10.441 học
sinh. Có 91 trường hàng xã với 91 giáo viên dạy cho 3416 học sinh. Tổng cộng 27.473 học
sinh”32 . Xét về quy mô trường học theo cấp hành chính, nếu chỉ tính các trường từ quận đến
31 Trần Thị Thanh Thanh (2012) Hỏi và đáp về nề giáo dục Nam bộ thời kì 1867-1945, báo cáo tổng kết đề tài kh-cn cấp
cơ sở ĐHSPTPHCM, tr 39-40.

32 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 53.
19


xã trên toàn Nam Kỳ năm 1886, số liệu được Paullus và Boinais đưa ra là:
- Số trường các cấp: 343 trường
- Số trường hàng tổng và hàng xã: 300 trường
- Số giáo viên người Việt: 503 giáo viên
- Số học sinh các cấp: 18.231 học sinh Tính trung bình: Mỗi trường hàng quận có gần 100
học sinh, có khoảng 3-4 giáo viên. Mỗi trường hàng tổng có gần 50 học sinh, có khoảng 1-2
giáo viên. Mỗi trường hàng xã có gần 40 học sinh, do 1 giáo viên giảng dạy 33. Sự thành bại
của một nền giáo dục được quyết định bởi chương trình học, đồng thời giáo viên và các điều
kiện dạy học cũng là những yếu tố quan trọng. Cho đến khi Quy chế 1879 được ban hành
với một chương trình học có thể chấp nhận được trong hồn cảnh thuộc địa thì những khó
khăn về giáo viên và phương tiện học tập vẫn chưa được giải quyết. Giáo viên người Việt,
hoặc là những người kiêm nhiệm công việc thư ký của sở Nội vụ hoặc là những người
khơng đủ trình độ, do khơng được đào tạo về sư phạm nên mọi chế độ của trường, bao gồm

cả chương trình, thời khóa biểu, đều được họ định ra một cách tùy tiện.Chương trình học
theo Quy chế 1874 và Quy chế 1879 đều đặt ra yêu cầu phải cung cấp cho học sinh một
lượng lớn sách giáo khoa để làm tài liệu học tập. Tuy nhiên, thiếu sách giáo khoa vẫn là một
vấn đề nan giải. Tình trạng này đã dẫn đến sự hạn chế trong chất lượng đào tạo mà, theo
nhận xét của Cultru, bước ra từ cổng trường của Pháp chỉ là “vài trăm người An Nam nói
tiếng Pháp, vài ngàn người nói sai tiếng Pháp đó là những bồi bếp, kéo xe,…”, cịn “những
người An Nam thì vẫn nói tiếng của họ, nhưng lại khơng biết đọc biết viết” 34.Vùng đất Nam
Kỳ, do hoàn cảnh lịch sử, là nơi đầu tiên của nước Đại Nam đón nhận nền học vấn mới,
được thiết lập bởi kẻ xâm lược, với nhiều mới lạ. Cách tổ chức của nền Nho học khơng thể
có sự phân chia cấp bậc với những quy định rõ ràng về chương trình học, thời gian theo học,
bằng cấp có được sau mỗi kỳ thi. Tứ thư Ngũ kinh cũng khơng thể có những nội dung như:
Số học, Sơ yếu về vũ trụ học, Đo diện tích và khối tích, Đo đạc ruộng đất và vẽ bình đồ, Giữ
sổ sách kế tốn … Tất cả đều được người Pháp mang đến từ nền giáo dục phương Tây.
Trong hoàn cảnh nền Nho học đã tồn tại lâu dài với đầy đủ các thiết chế của nó và người
dân Nam Kỳ, cũng như người Việt Nam nói chung, ln dành sự kính trọng đối với tầng lớp
33 Trần Thị Thanh Thanh (2012) Hỏi và đáp về nề giáo dục Nam bộ thời kì 1867-1945, báo cáo tổng kết đề tài kh-cn cấp
cơ sở ĐHSPTPHCM, tr 63.

34 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 54.

20


xuất thân từ cửa Khổng sân Trình thì những trường học do kẻ thù lập nên chỉ có thể nhận
được thái độ bất hợp tác từ dân chúng. Đây là nguyên nhân, cùng với tình hình chiến sự và
mức độ vững vàng của nền cai trị, dẫn đến những thay đổi, điều chỉnh về giáo dục của nhà
cầm quyền Pháp. Sự phản ứng của người dân đã có tác dụng: Quy chế 1874 và Quy chế
1879, những văn bản pháp quy đầu tiên về giáo dục ở Nam Kỳ, đã dành cho chữ Hán một vị
trí nhất định trong chương trình học và dành cho các trường Nho học quyền tự do thành lập
mà không cần phải xin phép, thậm chí theo chương trình học của Quy chế 1879, học sinh

còn được học Tứ thư (từ cấp 1 đến cấp 3), Lịch sử và Địa lý Việt Nam (ở cấp 2 và cấp 3).
Tuy vẫn song hành tồn tại cùng với các trường học do người Pháp thành lập nhưng nền Nho
học Nam Kỳ, nửa sau thế kỷ XIX, đã khơng cịn đủ sức để chống lại sự suy tàn: chế độ khoa
cử bị bãi bỏ, phong trào kháng chiến do các sỹ phu lần lượt thất bại, nhà cầm quyền liên tục
ban hành các Nghị định buộc dùng chữ Quốc ngữ trong các giấy tờ hành chính, và khuyến
khích bằng tiền, miễn thuế cho việc sử dụng và dạy loại văn tự này 35. Năm 1886, ưu thế về
số lượng học sinh vẫn nghiêng về các trường Nho học nhưng nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ
đã được định hình và đang tiến dần đến sự ổn định,hồn chỉnh.
Chương II. Các cuộc cải cách giáo dục trong lịch sử nước ta( GD Pháp, GD Cách
mạng)
2.1Quá trình chuyển đổi nền giáo dục Việt Nam: từ Nho học sang Tây học (1886-1945)
Đóng qn giữa một xứ sở mà Nho học cịn đang ngự trị, dân chúng vẫn tiếp tục
chiến đấu theo lời hiệu triệu Cần Vương, chủ trương cải cách giáo dục của nhà cầm quyền
Pháp (cũng như các lĩnh vực khác), tất nhiên, khơng vì những điều khoản của Hiệp ước
Paternôtre (1884) mà dễ dàng được thực hiện. Kinh nghiệm tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ đã
chỉ ra rằng: khơng thể vội vàng xóa bỏ chữ Hán và Nho học để thay bằng nền giáo dục mới
đầy xa lạ, đến từ phương Tây. Quá trình xác lập nền Tây học ở Bắc Kỳ, và tồn Việt Nam,
35 Có thể kể ra ở đây một số Nghị định như:
- Nghị định ngày 22/2/1869 buộc dùng chữ quốc ngữ trong các giấy tờ chính thức.
- Nghị định 17/11/1874 khuyến khích các thầy đồ: nếu dạy thêm chữ quốc ngữ sẽ được thưởng 200 francs/năm.
- Nghị định 6/4/1878 quy định việc viết, ký và cơng bố mọi giấy tờ hành chính, văn kiện chính thức, nghị định, quyết định,
sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị … phải bằng chữ quốc ngữ. Trong ngạch phủ, huyện, tổng, không cho phép tuyển dụng, thăng
trật người không biết chữ quốc ngữ. Các chức dịch trong làng sẽ được miễn một nửa hoặc toàn bộ thuế thân nếu biết chữ
quốc ngữ …
- Nghị định 17/3/1879 về tổ chức nền học chính mới ở Nam Kỳ: Chữ quốc ngữ được dạy chính thức trong mơn tập đọc và
viết tường thuật.
- Thông tư ngày 28/10/1879 quy định thưởng tiền cho những làng nào viết được công văn bằng chữ quốc ngữ.
- Nghị định 14/6/1880 cho phép “mỗi làng, thị trấn của tổng khơng có trường Pháp sẽ thiết lập một trường dạy chữ quốc
ngữ” và “những làng nhỏ có một trường dạy chữ quốc ngữ sẽ được miễn mọi thuế đóng góp cho trường hàng tổng”.


21


được khởi sự thời Tổng Khâm sứ Paul Bert, trải qua thời kỳ song hành tồn tại: Nho học Tân học và được hoàn thiện khi Martial Merlin và Alexandre Varenne tiến hành một số điều
chỉnh về hệ thống tổ chức ở cấp Tiểu học và cấp Trung học.
2.1.1Khởi sự nền giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ
Hiệp ước Patenôtre (1884) đã thừa nhận sự bảo hộ của người Pháp đối với Bắc Kỳ.
Nhưng dường như các điều khoản này chỉ có ý nghĩa pháp lý, trên thực tế, dân chúng vẫn
kiên quyết kháng chiến, còn quan lại, theo Giám mục Puginier, thì “vì quyền lợi cá nhân
cũng như vì căm thù nước Pháp, những hành động chống đối của họ vẫn tiếp tục: đó là cả
một âm mưu mà người ta trù tính hằng ngày trong từng chi tiết nhỏ, với một sự kiên trì
khơng ai khơng biết, nhưng bề ngồi thì làm như khơng có gì” 36. Trong hồn cảnh này, nếu
như lực lượng mang vũ khí cho rằng cần phải giữ nguyên trạng chế độ quân sự để duy trì sự
ổn định thì tại diễn đàn Hạ Nghị viện, Paul Bert đã đưa ra những lý lẽ thuyết phục về nền
cai trị dân sự. Paul Bert đến Việt Nam (1886), cùng với sự thay đổi về chế độ cai trị, nền
Nho học ở Bắc Kỳ, sau hơn 800 năm tồn tại, bắt đầu chứng kiến nhiều điều mới lạ. Lần tiếp
xúc vội vàng năm 1873 chưa mang lại nhiều kinh nghiệm cho người Pháp trong ứng xử với
dân chúng và do đó, khi đã danh chính ngơn thuận thực hiện việc chiếm đóng thì kẻ chinh
phục vẫn vướng phải trở ngại mà họ đã gặp ở Nam Kỳ 25 năm trước: giao tiếp với dân bản
xứ, sự tồn tại của thế lực Nho sỹ và chữ Hán - kẻ tử thù của những nhà truyền giáo và quân
xâm lược. Cách thức giải quyết vấn đề của giới chức dân sự thường trầm tĩnh, sâu sắc hơn
những người chỉ quen chinh chiến. Thông ngôn vẫn là nỗi bận tâm của người Pháp, trong
trường hợp Bắc Kỳ, điều đáng lo lắng khơng phải ở lịng trung thành của họ mà là trình độ
dịch thuật. Sự kém cỏi trong khả năng chuyển ngữ đã dẫn đến hệ quả rất nghiêm trọng là:
tạo ra những hiểu lầm khơng đáng có giữa dân chúng và nhà cầm quyền, gây phương hại
đến nền cai trị cịn đang trong q trình hồn thiện. Do vậy, nhanh chóng thiết lập mối quan
hệ trực tiếp giữa người Pháp và người An Nam trở thành mục đích của các trường học đã và
sẽ được nhà cầm quyền tổ chức ở Bắc Kỳ. Phương sách thực hiện, theo Paul Bert, là: bằng
cách truyền bá sự thông dụng tiếng Pháp cũng như sự hiểu biết những phong tục và khoa
học của phương Tây; giáo viên phải cố gắng dạy học sinh những từ càng phổ biến càng tốt

36 Cao Huy Thuần (2003) Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyên Thuần
dịch NXB Tôn giáo Hà Nội, 434.

22


sao cho gần giống với cú pháp tiếng An Nam 37. Kèm theo đó, chữ Quốc ngữ cũng là một
phương tiện hữu dụng, bởi “Việc dạy cho người bản xứ đọc và viết chữ quốc ngữ đối với
chúng ta là một lợi ích lớn, cơng chức, thương gia của chúng ta có thể học nó rất dễ và
những mối liên hệ giữa chúng ta với người bản xứ cũng sẽ trở nên rất thuận tiện”

38

. Nếu

tiếng Pháp trở thành một ngơn ngữ thơng dụng trong dân chúng thì thành quả đạt được sẽ là
“Thoát ra khỏi sự độc quyền nguy hiểm của những viên thông ngôn” và sẽ thành hiện thực
điều mà Paul Bert mong muốn “làm sao để một người Pháp du lịch đến đây hay đến để bàn
bạc về kinh doanh có hy vọng tìm thấy trước mặt mình hay gần mình một người có thể hiểu
được họ. Những người thơng ngơn của chính quyền, bị kẹt giữa những thủ trưởng người Âu
có học tiếng Annam, và những đồng bào của họ đã được người ta dạy cho tiếng Pháp, sẽ bị
ngăn chặn trên con dốc không thể cưỡng được đưa họ đến chỗ làm hủy hoại sự thật” 39.
Dường như đã trở thành định kiến cố hữu, các giáo sỹ thừa sai, trong sự nghiệp truyền giáo
ở Việt Nam, khơng thể n lịng rao giảng Phúc Âm nếu Nho sỹ và chữ Hán vẫn còn tồn tại,
và một quan điểm nhất quán của các vị chủ chăn là tiêu diệt một cách có hệ thống nền đạo
lý Nho giáo vốn đã tạo thành nền tảng của xã hội Việt Nam, và thay vào đó bằng một sức
mạnh tinh thần mới “mà người ta có sẵn” trong xứ này: Gia Tô giáo 40. Do vậy, để “lập nên ở
Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ của Viễn Đông”, Giám mục Puginier cho rằng việc cần làm kế
tiếp sau khi đã “Gia Tơ giáo hóa cả xứ” là: phế bỏ chữ Nho và thay thế, lúc đầu bằng tiếng
Việt Nam viết theo kiểu người Âu, gọi là Quốc ngữ, rồi sau đó bằng tiếng Pháp 41. Ý đồ phế

bỏ chữ Hán đã chuốc lấy thất bại ở Nam Kỳ, nếu không biết rút ra bài học và mù quáng làm
theo những chỉ dẫn của Đức Giám mục thì chắc chắn nhà cầm quyền cũng sẽ nhận được từ
dân chúng thái độ bất hợp tác. Paul bert có cách làm riêng, tinh tế và hiệu quả hơn. Vẫn cho
rằng nhất thiết phải loại bỏ những nhà Nho - linh hồn của cuộc kháng chiến đang diễn ra ở
Bắc Kỳ - quan Tổng Khâm sứ đã làm hai việc: đặt chức Kinh Lược Bắc Kỳ, qua đó, nắm
trọn hệ thống quan lại, tiêu diệt lòng trung thành, cắt đứt quan hệ của những sỹ phu này với
triều đình Huế, thành lập tổ chức “Hội đồng Nhân sỹ Bắc Kỳ” mà thành phần chủ yếu là
giới bình dân để chuyển đạt đến Paul Bert nguyện vọng, nhu cầu của dân chúng, qua đó,
37 Trần Thị Phương Hoa (2012) Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kì (1884-1945), NXB Khoa học Xã hội Hà Nội, tr 36.
38 Nguyễn Đăng Tiến (Chủ biên) Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, NXB Giáo dục, tr 196.
39 Nguyễn Quang Thắng (2005) Khoa cử và nền giáo dục Việt Nam, NXB Tổng hợp TPHCM, 439.
40 Cao Huy Thuần (2003) Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyên Thuần dịch
NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 436.
41 Cao Huy Thuần (2003) Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) Nguyên Thuần dịch
NXB Tôn giáo Hà Nội, tr 442-443.

23


tước bỏ uy tín và vai trị trung gian của hệ thống quan lại. Nguyên Bộ trưởng Giáo dục đã
nhận thức được chức năng văn hóa của chữ Hán và chủ trương duy trì loại văn tự này: “Việc
dạy chữ Pháp sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc học chữ quốc ngữ, cũng cần có một giáo
trình chữ Nho, nếu trẻ con An Nam rời bỏ nhà trường của chúng ta mà không biết đọc và
viết chữ Nho thông dụng … họ sẽ trở thành những người ngoại quốc trong xứ sở của họ và
sau hết các trường của chúng ta sẽ không chiêu tập được ai vào học …”42
Trong thời gian cầm quyền quá ngắn, Paul Bert chỉ kịp nêu lên danh xưng trường học
Pháp - Việt và vài định hướng trong nội dung dạy học mà chưa thể phác thảo đầy đủ các vấn
đề trọng yếu của một nền giáo dục là: chương trình học và hệ thống tổ chức. Dù vậy, giữa
một xứ sở mà Nho học ngự trị đã xuất hiện những cơ sở giáo dục đầu tiên, khởi đầu là các
trường Thông ngôn sau đó là các trường Tiểu học, dạy ngơn ngữ và kiến thức khoa học

phương Tây. Chữ Pháp và Quốc ngữ được Paul Bert chọn làm phương tiện để xóa nhịa
khoảng cách giữa nhà cầm quyền và dân chúng nhưng chữ Hán vẫn được lưu giữ lại trong
khuôn viên các trường học do người Pháp thành lập, bất chấp những lời khuyến dụ đầy
dụng ý phục vụ tôn giáo của các giáo sỹ. Cịn ở bên ngồi, các thầy đồ vẫn mặc nhiên dạy
Tứ Thư, Ngũ Kinh để học trò tham dự các kỳ thi Nho học do triều đình tổ chức đều đặn theo
thông lệ 3 năm một lần và sau này, để đáp ứng những điều chỉnh trong thể thức thi cử, một
số trường tư có dạy thêm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Tất cả dựa trên tinh thần tự nguyện,
“Paul Bert không mảy may nghĩ tới việc gây xung đột với nền văn minh và phong tục tập
quán đã có bề dày hai mươi thế kỷ, nhưng vì chính sách muốn gây tác động đến văn hóa và
phong tục ở đây, ông quyết định tiến hành một chính sách mưa dầm thấm lâu, dưới hình
thức kiên trì tư vấn, khuyến nghị và gợi ý. Trong suy nghĩ của ơng, đó khơng phải là chính
sách đồng hóa hay cái gọi là Pháp hóa dân An Nam. Ơng chỉ muốn một sự tiến hóa hợp lý
về tâm thức, cải thiện chất lượng nền văn hóa và các kỹ năng bản địa thông qua một nền
giáo dục hợp lý” 43. Đây là những khác biệt đáng lưu ý nếu so sánh cách thức thiết lập nền
giáo dục Pháp ở Nam Kỳ và ở Bắc Kỳ trong thời gian đầu. Nền giáo dục thực dân sẽ không
bao giờ cam nhận vị thế khiêm tốn của năm 1886, đó chỉ là bước khởi sự, khi có điều kiện
thuận lợi, nó sẽ chuyển mình.
42 Nguyễn Đăng Tiến (Chủ biên) Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, NXB Giáo dục, tr 196.
43 Trần Thị Phương Hoa (2012) Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kì (1884-1945), NXB Khoa học Xã hội Hà Nội, tr 34.

24


2.1.2. Song hành tồn tại: giáo dục Nho học và giáo dục Pháp - Việt
“Sau khi người lính đã hồn thành sự nghiệp của mình thì đến lượt người giáo viên
thực hiện sự nghiệp của họ” 44. Đến đầu thế kỷ XX, khi phong trào Cần Vương khơng cịn
nữa, khi Paul Doumer đã thiết lập ở Đông Dương một tổ chức hành chính và một chương
trình kinh tế hoạt động hiệu quả thì người Pháp có thể n lịng tính đến sự nghiệp “chinh
phục tinh thần” còn dang dở. Diễn ra trong sự chi phối của khuynh hướng liên hiệp từ Paris,
cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam do Paul Beau khởi xướng vào năm 1906 và được hoàn

thiện bởi hai vị Toàn quyền kế nhiệm là Klobukowsky và Albert Sarraut.
a. Nguyên nhân tiến hành cải cách giáo dục
Sớm đặt sự quan tâm vào giáo dục nhưng những trường Pháp - Việt mà người Pháp đã
bỏ công xây dựng từ thời Paul Bert (1886) lại chẳng thu được bao nhiêu kết quả trong khi
nền Nho học vẫn tồn tại vững vàng. Hơn thế nữa, những kẻ thức thời được đào tạo từ trường
Pháp - Việt, tham gia vào bộ máy cơng quyền nhưng lại ở vị trí thấp hơn rất nhiều so với trí
thức Nho học trong hệ thống thang bậc xã hội, do vậy, ở lớp người Tân học đã xuất hiện nỗi
mặc cảm “Chúng tôi vẫn là những người thấp kém về mặt xã hội đối với những nho sỹ hạn
thấp nhất” 45. Ở xứ thuộc địa Nam Kỳ, nền giáo dục Pháp đã được tổ chức hoàn chỉnh với hệ
thống 3 cấp học và một chương trình học dành ưu thế tuyệt đối cho chữ Pháp nhưng vẫn lưu
giữ một vài nội dung Nho học. Còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tình hình giáo dục vẫn khơng có
nhiều thay đổi, Nho học và chữ Hán cùng với những định chế của nó được duy trì gần như
nguyên vẹn. Hiện trạng không thống nhất về tổ chức và chương trình học vừa nêu gây khó
khăn cho việc quản lý giáo dục của nhà cầm quyền và người Pháp cảm thấy rất khó chịu
trước sự tồn tại của những trường học do thầy đồ giảng dạy theo chương trình Nho học mà
họ khơng thể kiểm sốt. Do vậy, vấn đề đặt ra là tổ chức lại hệ thống giáo dục để tạo thuận
lợi cho công tác quản lý và áp dụng một chương trình học thống nhất.
Kinh nghiệm tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ cho thấy rằng: không thể tiến hành một sự
thay đổi vội vàng, phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của chữ Nho trong chương trình học là điều
cấm kỵ, vì những lẽ này, nền giáo dục mới cần phải lưu ý đến đối tượng tiếp nhận: những
người sống trong mơi trường văn hóa phương Đông đang đối mặt với sự du nhập của văn
44 Trần Thị Thanh Thanh (2012) Hỏi và đáp về nề giáo dục Nam bộ thời kì 1867-1945, báo cáo tổng kết đề tài kh-cn cấp
cơ sở ĐHSPTPHCM, tr 35.
45 Phan Trọng Báu (2006) Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Giáo Dục, tr 63.

25


×