I. TỔNG QUAN
1.1. Nhà sử học Eric Foner và Cuốn sách Lịch sử mới của nước Mỹ
* Nhà sử học Eric Foner
Eric Foner (sinh ngày 7 tháng 2 năm 1943) là một nhà sử học người Mỹ. Ông
viết nhiều về lịch sử chính trị Mỹ, lịch sử tự do, lịch sử ban đầu của Đảng Cộng hòa,
tiểu sử, Tái thiết và lịch sử Mỹ, và là thành viên tại Khoa Lịch sử Đại học Columbia
từ năm 1982. Ông là tác giả của một số sách giáo khoa thường được sử dụng trong
các khóa học lịch sử Hoa Kỳ cấp đại học trên khắp Hoa Kỳ.
Một lịch sử bậc thầy của Hoa Kỳ, tập trung vào sự thúc đẩy - tự do - và cuộc đấu tranh
tiếp tục để đạt được tự do. Tự do: một miền đất hứa, một chiến trường, trái phiếu văn hóa
và đường đứt gãy của nước Mỹ. Tuyên ngôn độc lập liệt kê quyền tự do giữa các quyền
bất khả xâm phạm của nhân loại; Hiến pháp được đóng khung để bảo đảm các phước
lành của tự do. Hoa Kỳ đã chiến đấu trong Nội chiến để mang lại một sự ra đời mới của
tự do, Thế chiến II cho Bốn Tự do và Chiến tranh Lạnh để bảo vệ Thế giới Tự do. Trong
lịch sử khuấy động của Eric Foner, câu chuyện của tự do mở ra thông qua khát vọng
và sự hy sinh, ý nghĩa của nó khơng chỉ hình thành trong các cuộc tranh luận quốc
hội và các chuyên luận chính trị, mà còn trên các đồn điền và đường nhặt, trong các
phòng ngủ. Dàn nhân vật của nó trải dài từ Thomas Jefferson đến Margaret Sanger
đến Franklin D. Roosevelt; từ những người nơ lệ trước đây đang tìm cách hít thở ý
nghĩa thực sự vào việc giải phóng đến những người tổ chức cơng đồn, những người
đi tự do và những người ủng hộ quyền của phụ nữ trong thời đại chúng ta.
Lịch sử mang tính bước ngoặt này cho thấy câu chuyện về tự do của Mỹ không phải là
một câu chuyện thần thoại mà là một câu chuyện quan trọng, kết thúc mở về thành tựu và
thất bại, một hồ sơ về một dân tộc mãi mãi tranh cãi về những ý tưởng quan trọng của
văn hóa chính trị của họ. Trong suốt lịch sử của chúng tôi, tự do là một sự thật sống động
đối với một số người Mỹ và là một sự nhạo báng tàn nhẫn đối với những người khác.
Trong lịch sử khuấy động của Eric Foner, câu chuyện về tự do không phải là sự mở
ra đơn giản của một sự thật vượt thời gian, mà là một lịch sử kết thúc mở về thành
tựu và thất bại. Động lực của nó nằm ở khát vọng và sự hy sinh của hàng triệu
người Mỹ, được tơn vinh và ẩn danh, những người đã tìm kiếm phước lành của tự
do.
* Cuốn sách Lịch sử mới của nước Mỹ
Được phát hành lần đầu tiên vào năm 1990, The New American Historyedited
for the American History Association của Eric Foner, đã trở thành một bộ sách
không thể thiếu cho giáo viên và học sinh. Một số nhà sử học người Mỹ nổi tiếng nhất
đã khảo sát các tác phẩm và chủ đề chính trong học bổng của ba thập kỷ qua. Cùng với
các bài tiểu luận được sửa đổi đáng kể từ phiên bản đầu tiên, tập này trình bày ba
bài hồn tồn mới - về lịch sử trí tuệ, lịch sử của phương Tây và lịch sử của gia đình
và tình dục. Ấn bản thứ hai (1997) của The New American Historyreflects, theo cách
nói của Foner, "sức sống và sự sáng tạo liên tục của nghiên cứu về quá khứ, làm thế
nào các lĩnh vực truyền thống đang được mở rộng và định nghĩa lại ngay cả khi
những cái mới được tạo ra." Tác giả lưu ý: Eric Foner là Giáo sư Lịch sử DeWitt
Clinton tại Đại học Columbia. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, bao gồm Tái thiết,
1863-1877 đã được trao Giải thưởng Bancroft.
Tác phẩm mới về cuộc cách mạng được đặt trong bối cảnh lịch sử và bối cảnh hóa liên
quan đến chính trị thế kỷ 20. Lịch sử mới nhấn mạnh chủ nghĩa cấp tiến của Cách mạng
Mỹ, tập trung vào ý thức hệ được xem xét rộng rãi và lịch sử của các nhóm bên lề.
Những câu hỏi tương tự vẫn được hỏi, nhưng câu trả lời phức tạp hơn:
Tại sao những người ít bị đánh thuế nhất trong thế giới phương Tây lại tạo ra một cuộc
cách mạng về việc tăng thuế khiêm tốn?
Cách mạng Mỹ được hiểu rõ nhất là một biến động bảo thủ hay triệt để?
Làm thế nào một tập hợp khác nhau của các quốc gia mới độc lập ổn định cuộc cách
mạng của họ và tạo ra một quốc gia lâu dài?
Xem Bloch về đức hạnh và chủ nghĩa cộng hòa. Chế độ phụ hệ suy yếu bên cạnh hành vi
bảo vệ. Từ chối sự trì hỗn trong nước cộng hịa sớm.
Giải thích truyền thống về ngun nhân của cuộc chiến vẫn cịn, thuế mà khơng có đại
diện là nguyên nhân gây ra, mặc dù bây giờ các nhà sử học chỉ ra mức thuế tương đối
thấp và mức độ hùng biện cao.
Những gì đã thay đổi về mặt kinh tế là một sự thay đổi từ chủ nghĩa Mercantil sang kinh
tế Laisez Faire, với sự lên ngôi dần dần của những ý tưởng về sự giàu có của các quốc gia
của Adam Smith. Sản xuất thủ công đã bị phá hoại ở cả hai bờ Đại Tây Dương trước một
cuộc cách mạng thương mại và một cuộc cách mạng công nghệ non trẻ (1790 Slater's
Mill ở Pawtucket, RI và Báo cáo về sản xuất của Hamilton).
Người Mỹ gốc Phi đã có kinh nghiệm chiến đấu ở cả hai phía của cuộc chiến. Kinh
nghiệm này phục vụ trong một biện pháp nhỏ đã đưa họ đến với các bậc thầy khác nhau
và với một ngôn ngữ để biện hộ cho sự giải phóng của chính họ, nhưng cả thực dân lẫn
người Anh đều khơng tìm cách giải phóng nơ lệ da đen như một phần của cuộc xung đột.
Thật vậy, người Anh lo sợ rằng họ sẽ mất đi sự ủng hộ của những người trung thành ở
miền nam vì họ tiến hành quá nhanh với các kế hoạch giải phóng. Sau chiến tranh, ở
nước cộng hịa sơ khai, chế độ nô lệ mở rộng rất nhiều ở miền nam. Với sự phát triển của
bông gin và sự mở cửa của Tây Nam cũ, chế độ nô lệ là giúp củng cố sự chia rẽ tại quốc
gia mới. Thỏa hiệp 3/5 đã giải quyết vấn đề nô lệ (tạm thời) tại hội nghị lập hiến, nhưng
chỉ hoãn cuộc đối đầu cuối cùng với các cuộc xung đột vốn có trong một trật tự quốc gia
mà cuối cùng sẽ trở thành, như là một nửa nô lệ và một nửa tự do " .
Đổi mới ý nghĩa bây giờ được giao cho tôn giáo là tốt. Trong khi sự thiếu tôn sùng tôn
giáo trong một phần của Thế hệ Cách mạng đã trở thành một câu thần chú được lặp đi lặp
lại từ các bài giảng trong nhiều thập kỷ, gần đây các nhà sử học đã phát hiện ra rằng Sự
thức tỉnh vĩ đại đầu tiên của thập niên 1840 đóng một vai trị rất quan trọng trong việc
triệt tiêu tư tưởng thực dân. Như Tin Lành Tin Lành đã đặt câu hỏi cho Giáo hội Anh, do
đó, sự nhiệt thành trí tuệ được tạo ra bởi các cuộc phục hưng sẽ giúp làm suy yếu sự ràng
buộc của lòng trung thành với Thể chế Vương quyền. Sự hồi sinh tôn giáo cung cấp cho
phụ nữ một con đường cho sức mạnh văn hóa và xã hội mà chính trị khơng làm được.
Một lĩnh vực thay đổi khác trong nước cộng hòa sơ khai là về xóa mù chữ và tính tốn.
Cuộc cách mạng thương mại vào cuối thế kỷ 18 đã khiến những kỹ năng này địi hỏi thiết
thực để thành cơng cho nhiều người. Khi nhu cầu về các kỹ năng này tăng lên, việc mở
rộng giáo dục theo sau. Sự tham gia của phụ nữ vào giáo dục của giới trẻ mở rộng sang
thế kỷ 19 khi một thế hệ phụ nữ mới làm việc trong các trường phổ thông vào những năm
1830.
Các nghiên cứu về huy động chính trị ở Anh (E. P. Thompson và Eric Hobsbawm) và
Pháp (George Rude) đã tiết lộ rằng đám đông thực thi một "nền kinh tế đạo đức". Không
chỉ là những đám đông bất hợp pháp của các yếu tố tội phạm, những cuộc tụ tập này có
tác dụng thực thi các tiêu chuẩn đạo đức địa phương đối với các công dân bướng bỉnh. Sự
năng động tương tự đã được chứng minh là đang hoạt động trong bối cảnh thuộc địa của
Mỹ. Giới tinh hoa địa phương ở các thuộc địa thường ủng hộ những hành động mob này,
một minh chứng cho cảm giác mất đoàn kết của họ. Các nhà sử học quân sự đã chỉ ra làm
thế nào các cuộc vận động này đóng vai trị là tiền thân cho việc huy động lực lượng dân
quân trong thời kỳ trước chiến tranh. Cuộc chiến đã phục vụ như một quá trình xã hội hóa
cho những người đàn ơng phục vụ. Điều này có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho nền
cộng hòa, như Shays Rebellion (1786) và Whiskey Rebellion (1794-97) đã chứng minh.
Bất chấp mong muốn tránh các đội quân thường trực, quốc gia này đã di chuyển khá
nhanh để chuyên nghiệp hóa nghĩa vụ quân sự. Thomas Jefferson, người ủng hộ nền cộng
hịa của những người nơng dân có đạo đức, đã thành lập học viện quân sự đầu tiên trong
nhiệm kỳ tổng thống của mình.
Sự phức tạp và đa dạng của các mối quan hệ Ấn Độ và tầm quan trọng của việc hiểu
người Mỹ bản địa thông qua kính của những người Mỹ bản địa chứ khơng phải những
người Mỹ da trắng.
Công ước Hiến pháp phục vụ như một cách thể chế hóa Cách mạng. Các cuộc tranh luận
về dự luật về quyền thể hiện sự khác biệt thực sự về nhu cầu bảo vệ quyền của thiểu số
trước sự lạm quyền của đa số công dân. Bản thân tài liệu đã đảm nhận gánh nặng mã hóa
các lý tưởng của cuộc cách mạng và trở thành, theo lời của Pauline Maier, “một văn bản
thiêng liêng”.
Một điều trớ trêu khác của q trình thể chế hóa Cách mạng là hệ thống hai đảng. Người
Mỹ đã thành công trong việc tránh các chu kỳ cách mạng và phản cách mạng đã làm khổ
các quốc gia khác trong thế giới hiện đại một cách chính xác bởi vì thế hệ cách mạng đã
phát triển một cơ chế làm việc cho phe đối lập trung thành. Được nhúng trong một mạng
lưới các tổ chức tự nguyện, các đảng chính trị nổi lên từ thế hệ cách mạng bất chấp sự ác
cảm này đối với "phe phái".
Tóm tắt: Cuốn sách là tập hợp 16 chuyên luận bàn về những giai đoạn mang tính
bước ngoặc cũng như những chủ đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nước
Mỹ. Các tác giả đã phát triển một cách tiếp cận mới là tiếp cận “từ dưới lên”, chú
trọng những đối tượng mới như người da đen, người phụ nữ,..và những khía cạnh
trước kia thường bị bỏ qua như lịch sử tri thức, lịch sử miền Tây nước Mỹ, lịch sử
gia đình,v..v..Tác giả cũng đưa ra những quan điểm mới, những luận cứ mới để
đánh giá lại nhiều vấn đề dường như đã trở nên “lý tưởng”. Cuốn Lịch sử mới của
nước Mỹ được xem là một cách viết mới về lịch sử, phác họa bức tranh toàn cảnh
sinh động về các giai đoạn phát triển cùng những thời điểm quan trọng trong lịch sử
nước Mỹ.
1.2. Nhà sử học Richard White và bài viết Lịch sử miền Tây
* Richard White: Học giả hàng đầu Tây Mỹ
Richard White (25/08/1947) tốt nghiệp từ U.C. Santa Cruz năm 1969 với bằng B.A.
trong Lịch sử, và hiện được coi là một trong những học giả hàng đầu của quốc gia
trong ba lĩnh vực liên quan: Tây Mỹ, lịch sử Mỹ bản địa và lịch sử mơi trường. Vị
trí hiện tại của ông là Giáo sư Lịch sử Hoa Kỳ Margaret Byrne tại Đại học Stanford.
Richard White, danh dự: Giáo sư lịch sử Hoa Kỳ; Giáo sư Lịch sử Hoa Kỳ Margaret
Byrne Tiến sĩ, Đại học Washington; M.A., Đại học Washington; Cử nhân, Đại học
California tại Santa Cruz
White gia nhập Stanford vào năm 1998 và là tác giả của sáu cuốn sách, bao gồm tác
phẩm kinh điển The Middle Ground: Indians, Empires and Republic in the Great
Lakes Region, 1650-1815, được đặt tên là người vào chung kết Giải thưởng Pulitzer
năm 1992 và nhận được năm giải thưởng lịch sử lớn. The Middle Ground gần đây đã
được phát hành lại trong phiên bản kỷ niệm 20 năm. Đường sắt sắp tới của White: The
Transcontacularals and Making of Modern America (2011) là một lịch sử đầy biến động
của tuyến đường sắt xuyên lục địa và cách họ biến đổi nước Mỹ trong những thập kỷ sau
Nội chiến.
Trong số các danh hiệu khác, White đã nhận được học bổng MacArthur Foundation
vào năm 1997 và Giải thưởng Thành tựu nổi bật của Quỹ Andrew Mellon trong
Nhân văn năm 2006. Ơng là nhà điều tra chính cho dự án Shaping the West, một
phần của Dự án Lịch sử Không gian của Stanford. Định hình miền Tây là một nỗ
lực để tạo ra các dự án hợp tác sử dụng trực quan hóa cũng như các câu chuyện để
hiểu về quá khứ.
White nói rằng giáo dục đại học UCSC của ông đã cung cấp một nền tảng vững chắc cho
công việc sau này của ông. "Các giảng viên tại Santa Cruz đã dạy tôi suy nghĩ, và hội
sinh viên khuyến khích tơi nắm lấy cơ hội. Tồn bộ trường đại học khiến tơi nhận ra rằng
khơng có vị trí, khám phá hay ý kiến nào tốt hơn khả năng giải thích của bạn, biện minh
cho nó, và bảo vệ nó. "
Richard White là một nhà sử học của Hoa Kỳ chuyên về miền Tây nước Mỹ, lịch sử của
chủ nghĩa tư bản, lịch sử môi trường, lịch sử và ký ức và lịch sử người Mỹ bản địa. Công
việc của anh ấy thỉnh thoảng tràn sang Mexico, Canada, Pháp, Úc và Ireland.
Ông là thành viên MacArthur và là người nhận giải thưởng giáo sư xuất sắc Mellon. Tác
phẩm của anh đã giành được nhiều giải thưởng học thuật, và anh đã hai lần vào chung kết
giải Pulitzer.
Stanford, Richard White, một nhà sử học người Mỹ, phân tích lịch sử Hoa Kỳ từ năm
1865 đến năm 1896 và đưa ra một viễn cảnh mới mẻ về khoảng thời gian, được đánh dấu
bởi sự bất bình đẳng và tham nhũng gia tăng. Các vấn đề bất bình đẳng và chia rẽ mà Hoa
Kỳ phải đối mặt ngày nay có nhiều điểm tương đồng với một khoảng thời gian sau Nội
chiến cũng phải đối mặt với sự bất bình đẳng gia tăng, nhập cư nặng nề và bế tắc đảng
phái. Giữa cuối cuộc chiến năm 1865 và bắt đầu ngày 20 Thế kỷ, một thời gian bao gồm
hai thời kỳ các nhà sử học gọi là thời kỳ Tái thiết và Thời đại mạ vàng, nước Mỹ mới
thống nhất, hậu nô lệ đã chứng kiến sự thay đổi cơng nghệ nhanh chóng và mất phương
hướng và làn sóng di cư lớn nhất của đất nước, cũng như các tổng thống yếu kém, tham
nhũng và hối lộ.
Nhà sử học Stanford Richard White phân tích rằng giai đoạn lịch sử trong cuốn sách mới
của ông The Republic for which It Stands: The United States in Reconloyment and the
Gilded Age, 1865-1896, đây là phần mới nhất trong loạt sách nhiều tập của Nhà xuất bản
Đại học Oxford về lịch sử kể chuyện của Hoa Kỳ. White lập luận rằng hạt giống của Hoa
Kỳ hiện đại đã được gieo trồng trong thời gian này và sự hiểu biết tốt hơn về các cuộc
đấu tranh xã hội và chính trị thời đó có thể làm sáng tỏ các vấn đề đang được tranh luận
ngày hôm nay.
Ngày 2 tháng 8 năm 2016: Richard White đã được bầu vào Hiệp hội triết học Hoa
Kỳ. Ông gia nhập bốn giảng viên Lịch sử khác mà trước đây đã được bầu vào Hiệp
hội triết học Hoa Kỳ: Keith Baker, David Kennedy, Jack Rakove và James Sheehan.
Hiệp hội triết học Hoa Kỳ, được thành lập bởi Benjamin Franklin với mục đích thúc đẩy
kiến thức hữu ích, ơng đã đóng một vai trị quan trọng trong đời sống văn hóa và trí tuệ
của Mỹ kể từ khi thành lập năm 1743. Nhà thần kinh học Eric Knudsen, Edward C. và
Amy H. Sewell Giáo sư trong Trường Y, Danh dự, cũng là một trong số 33 học giả trên
toàn thế giới được bầu vào xã hội năm nay. ...
* Bài viết Lịch sử miền Tây
Miền Tây: Một trung tâm của Lịch sử mới của nước Mỹ, cuốn sách này thể
hiện chủ đề rằng, khi các nhóm thành cơng đã chiếm lĩnh miền Tây nước Mỹ và
định hình vùng đất, họ đã làm như vậy mà không quan tâm đến cư dân hiện tại.
Giống như chàng cao bồi chăn dắt những con chó con, họ đã quan tâm rất ít về chi
phí mà các hoạt động của họ gây ra cho người khác; điều quan trọng là lợi ích trước
mắt mà họ có được từ việc chuyển đổi đất đai.
Dựa trên sự nở rộ của học bổng về môi trường phương tây, quan hệ giới tính phương tây,
lịch sử thiểu số, và lịch sử đô thị và lao động, cũng như các nguồn VH phương Tây
truyền thống hơn
Richard White kể về những phần khác nhau của West, môi trường khác biệt của nó,
khu vực đơ thị và vùng nội địa rộng lớn, các nhóm và chủng tộc và chủng tộc khác
nhau được tổ chức bởi một loạt các mối quan hệ lịch sử được phát triển theo thời
gian. Sự khơ cằn lan rộng và một vị trí địa lý chung giữa sơng Missisipi và Thái
Bình Dương sẽ cung cấp nhưng mối quan hệ khu vực yếu nếu các mối quan hệ
mạnh mẽ khác không được tạo ra.
Một sự phụ thuộc chung vào chính phủ trì hỗn và nguồn gốc chung trong nền kinh
tế chủ yếu dựa trên dịch vụ và khai thác là những ảnh hưởng chính thức đến các
quốc gia và vùng lãnh thổ phía tây. Một hệ thống lao động kép dựa trên chủng tộc
và sự tồn tại của các nhóm thiểu số có địa vị pháp lý đặc biệt đã giúp xác định rõ
hơn khu vực. Các mơ hình tham gia chính trị và tổ chức chính trị đã được chứng minh
lâu dài. Cùng nhau, những mối quan hệ giữa con người và giữa con người với địa
điểm đã biến miềnTây thành một sáng tạo lịch sử và một khu vực đặc biệt.
Từ sự tiếp xúc của người châu Âu và cuộc chinh phạt Anh-Mỹ sau đó, thơng qua
phong trào dân quyền, khủng hoảng năng lượng và tái thiết hiện tại của các nền
kinh tế quốc gia và thế giới, miền Tây vẫn là một phần đặc biệt trong một quốc gia
lớn hơn nhiều. Trong trí tưởng tượng của người Mỹ, miền Tây vẫn thể hiện những
khả năng vốn có trong sự rộng lớn và vẻ đẹp của chính nơi này, nghĩ rằng bản thân
cao bồi cuối cùng hóa ra lại là những kẻ giáo điều. Bài viết là sự lý giải cho những sự
tưởng tượng đấy.
1.3. Khái niệm khu vực- khu vực miền Tây nước Mỹ
* Khái niệm khu vực
Muốn hiểu đúng khái niệm Khu vực học (tiếng Anh: Area Studies, tiếng Đức:
Arealstudien/ Regionalwissenschaft, tiếng Trung Quốc: Dì ý x hay Dì qū x) thì
trướctiên cần hiểu đúng khái niệm ‘khu vực’. Khái niệm “khu vực” (từ tương ứng trong
tiếng Anh là Area/ Region) có nội dung ngữ nghĩa khá mơ . Nó có thể chỉ một không
gian địa lý vô cùng rộng lớn, chẳng hạn khái niệm “Khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương” bao gồm hàng chục quốc gia ở quanh bờ Thái Bình Dương mênh mơng chiếm
hơn một nửa diện tích địa cầu. Tuy nhiên, bản thân khái niệm khu vực châu Á - Thái
Bình Dương đến lượt nó cũng hết sức mơ hồ. Bằng chứng là hiện thời diễn đàn Hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (gọi tắt là APEC) chỉ bao gồm 21 nền kinh tế thành
viên1, nghĩa là còn nhiều quốc gia/ nền kinh tế khác cùng nằm trong khu vực này vẫn
chưa được kết nạp vào diễn đàn quan trọng nhất này của khu vực.
Nhưng ‘khu vực’ có khi chỉ là một khoảng diện tích vài ba mét vuông được xác
định bởi một dấu hiệu chức năng nhất định (ví dụ khu vực làm thủ tục bay ở sân bay,
khu vực làm thủ tục giao dịch ở ngân hàng, khu vực cách ly trong bệnh viện v.v.). Trong
khoa học nghiên cứu địa lý, nghiên cứu khu vực và toàn cầu, một số học giả xem
khái niệm khu vực là một biểu tượng của tư duy trừu tượng (abtract thinking
figure) và mang tính đa nghĩa.
Trong việc xác định khu vực, người ta phải căn cứ vào một hay một số tiêu
chuẩn hay đặc trưng nào đấy. Điều cốt yếu là phải cố gắng dựa trên một sự đồng
nhất (homogenization) cho khơng gian khu vực đó. Chẳng hạn, việc xác định khu vực
Địa Trung Hải lấy biển Địa Trung Hải làm tâm không chỉ dựa trên sự qui tụ về vùng biển
chung là Địa Trung Hải, mà còn phải dựa trên hàng loạt yếu tố đồng nhất khác nữa về
cảnh quan địa lí, cảnh quan văn hố, về truyền thống tinh thần, về cộng đồng kinh tế lâu
dài trong lịch sử các dân tộc xung quanh Địa Trung Hải. 1Như thế, khái niệm khu vực
mang tính đa nghĩa và ẩn dụ cao. Vì vậy cần phải coi tiêu chí đồng nhất về chức
năng (xã hội) của khơng gian là quan trọng nhất để xác định khu vực. Khái niệm
khu vực theo tiêu chí khơng gian – chức năng biểu thị 5 mức độ từ thấp đến cao và
cần phải xác định và phân biệt chính xác: (1) Một khoảng đất (diện tích) nhỏ được
phân biệt với những khoảng diện tích khác bởi chức năng hay những dấu hiệu nào
đó (ví dụ khu vực cấm quay phim chụp ảnh). Có thể là đất trống hay có mái che. (2)
Một địa phương hay vùng đất bên tronglãnh thổ quốc gia, được phân biệt với các
vùng đất khác bởi các dấu hiệu địa lý (ví dụ khu vực đồng bằng, khu vực miền núi,
khu vực ven biển, khu vực nội thành v.v.) hay phân biệt bởiđịa giới hành chính/ an
ninh (ví dụ khu vực nơng thơn, khu vực thành thị, khu vực cấm bay, khu phi quân
sự). Trong những trường hợp này, danh từ Hán-Việt khu vực đồng nghĩa với từ thuần Việt
1 Shiba Nobuhiro: Thế nào là nghiên cứu khu vực, trong: Kỷ yếu hội thảo quốc tế Khu vực học: Cơ sở lí
luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu. Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển (IVDES) - ĐHQG
Hà Nội và ĐH Tokyo, Hà Nội 11 - 2006, tr. 60.
“vùng”, tương ứng với danh từ region hay tính từ regional trong tiếng Anh, Đức, Pháp.
Do đó thuật ngữ regional economy được dịch thành kinh tế vùng, regional policy được
dịch thành chính sách vùng. (3) Lãnh thổ một quốc gia, ví dụ nói khu vực Trung Quốc
(= thuộc chủ quyền của Trung Quốc), khu vực Việt Nam (= thuộc lãnh thổ Việt
Nam). Cách nói này khơng phổ biến, nhưng “quốc gia” chính là một cấp độ thuộc ngoại
diên của khái niệm khu vực, hơn nữa phải là cấp đơn vị cơ bản xét trên quan điểm nghiên
cứu khu vực quốc tế. (4) Một vùng không gian rộng lớn trên bản đồ thế giới, bao gồm
toàn bộ lãnh thổ liền kề nhau của nhiều quốc gia hoặc nhiều phần lãnh thổ của các
quốc gia trên cơ sở nét đồng nhất nào đó về các đặc điểm địa lí tự nhiên (ví dụ một
đại dương chung, một dịng sơng lớn chung, một sa mạc chung, một đới khí hậu), hay
các đặc điểm quản trị hay hành chính/ lãnh thổ/ văn hố (ví dụ khu vực đồng Euro,
khu vực đồng Dollar, khu vực ảnh hưởng của Mỹ, khu vực văn hóa Trung Hoa, khu
vực Hồi giáo, khu vực Phật giáo, khu vực Thiên Chúa giáo v.v.). (5) Một không gian
xuyên quốc gia (không nhất thiết phải liền kề nhau) bao gồm lãnh thổ của hai hay
nhiều quốc gia tham gia vào một hiệp ước song phương hay đa phương nào đó, như
khái niệm nổi tiếng của thời đại tự do hoá thương mại toàn cầu “khu vực mậu dịch
tự do” (Free Trade Area, viết tắt FTA). Trên nguyên tắc có thể có khu vực FTA của hai
nước bất kỳ, cho dù chúng nằm cách xa nhau hàng chục nghìn km, và giữa chúng là lãnh
thổ của nhiều quốc gia khác, ví dụ khu vực mậu dịch tự do châu Âu, khu vực mậu dịch tự
do Mỹ - Singapore, khu vực mậu dịch tự do Nhật Bản – Việt Nam, khu vực mậu dịch tự
do Trung Quốc – ASEAN v.v. Trong số các cấp độ khơng gian xã hội nói trên, chỉ có hai
cấp độ quốc gia và khu vực liên quốc gia là thuộc phạm vi nghiên cứu của khu vực học.
Điều này đúng với cả khi người ta tiến hành nghiên cứu một địa phương bên trong một
quốc gia nào đó. Bởi vì việc lựa chọn nghiên cứu một vùng hay địa phương nào đó (thậm
chí là một làng, xã) cũng là nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm của quốc gia được quan
tâm. Trong hai cấp độ đó thì quốc gia là cấp độ căn bản.
* Khu vực miền Tây nước Mỹ
Tây Hoa Kỳ (tiếng Anh: Western United States, thường được gọi là American
West hay đơn giản là "the West"), theo truyền thống là vùng bao gồm các tiểu bang
cận tây nhất của Hoa Kỳ. Vì Hoa Kỳ bành trướng về phía tây sau khi thành lập nên
ý nghĩa về Miền Tây hay Miền Viễn Tây cứ thay đổi theo thời gian. Trước năm 1800,
sống lưng của Dãy núi Appalachian được xem là biên cương phía tây của Hoa Kỳ.
Kể từ đó, biên cương di chuyển xa hơn về hướng tây và rồi sau đó Sơng Mississippi
được dùng làm mốc biên cương cận đông nhất của miền Tây.
Trong thế kỷ 21, các tiểu bang nằm trong Rặng Thạch Sơn và vùng cao nguyên thuộc Đại
Bình nguyên cho đến Tây Duyên hải thường được xem là tạo nên American West.
Denver, Colorado đôi khi được xem là phần đất trải rộng thuộc phía đông của miền Tây
như trong phim Dumb and Dumber bắt đầu với miền Trung Tây ngay phía đơng của
Aurora, Colorado nơi mà Đại Bình nguyên Hoa Kỳ bắt đầu.
Ngồi việc được định hình theo vị trí địa lý, "miền Tây" cũng có ý nghĩa theo nhân
chủng học. Trong lúc miền này có sự đa dạng riêng bên trong của chính nó nhưng
tổng quan vùng này có cùng một lịch sử, văn hoá (âm nhạc, ẩm thực), quan điểm về
thế giới, lối suy nghĩ và giọng Anh gần như tương đồng. Tuy nhiên, một vài tiểu
vùng và tiểu bang như Utah và miền nam California có một số điều khác biệt với
phần còn lại của miền Tây.
"Miền Tây" đã và đang đóng một vai trị quan trọng trọng trong lịch sử Hoa Kỳ;
Cựu miền Tây hay Old West được lồng vào trong các chuyện đời xưa của người Mỹ.
Trong ý nghĩa rộng lớn nhất, miền Tây Hoa Kỳ là vùng rộng lớn nhất bao phủ hơn
phân nửa diện tích đất của Hoa Kỳ. Nó cũng là nơi đa dạng về địa lý nhất, kết hợp
các vùng địa lý như Duyên hải Thái Bình Dương, những khu rừng mưa nhiệt đới ơn
hồ của Tây Bắc, Rặng Thạch Sơn, Đại Bình nguyên, phần lớn vùng đồng cỏ cao
trải dài về phía đông đến tận Tây Wisconsin, Illinois, tây cao nguyên Ozark, các
phần phía tây của những khu rừng phía nam, Duyên hải Vịnh Mexico và tất cả các
vùng hoang mạc nằm trong Hoa Kỳ (các hoang mạc Mojave, Sonoran, Đại Bồn địa
và Chihuahua).
Vùng này bao phủ một phần Vùng đất mua Louisiana, phần lớn vùng đất của Vương
quốc Anh nhượng lại vào năm 1818, một số phần đất lấy được khi Cộng hoà Texas gia
nhập vào Hoa Kỳ, tất cả các vùng đất Vương quốc Anh nhượng lại vào năm 1846, tất cả
những vùng đất México nhương lại vào năm 1848 và tất cả phần đất của Vùng đất mua
Gadsden.
Arizona và New Mexico luôn được xem là thuộc Tây Nam trong khi những phần đất của
California, Colorado, Nevada, Oklahoma, Texas, và Utah đôi khi được xem là phần đất
của Tây Nam trong khi đó tất cả hoặc một phần của Idaho, Montana, Oregon,
Washington, và Wyoming có thể được xem là thuộc Tây Bắc. Gần như vậy gồm một phần
hay tất cả các tiểu bang vừa nói (Tây Bắc), trừ Wyoming và phần phía đơng của hai tiểu
bang Montana và Idaho, và cộng thêm tỉnh bang của Canada là British Columbia hợp
thành Tây Bắc Thái Bình Dương.
Miền Tây có thể được chia thành thứ nhất các tiểu bang Thái Bình Dương: Alaska,
California, Hawaii, Oregon, và Washington với thuật ngữ Tây Duyên hải thường hạn
chế chỉ kể đến California, Oregon, và Washington và thứ hai là Các tiểu bang miền Núi
luôn là Arizona, Colorado, Idaho, Montana, Nevada, New Mexico, Utah, và
Wyoming. Alaska và Hawaii bị tách ra khỏi những tiểu bang miền Tây khác vì có ít
tương đồng với các tiểu bang đó nhưng luôn luôn được xếp vào danh sách miền Tây
Hoa Kỳ. Tây Texas nằm trong Hoang mạc Chihuahuan trong lịch sử cũng thường
được xem là thuộc miền Tây Hoa Kỳ.
Một số tiểu bang miền Tây được xếp vào các vùng của các tiểu bang miền đông.
Kansas, Nebraska, Bắc và Nam Dakota thường được tính vào miền Trung Tây mà
cũng bao gồm các tiểu bang như Iowa, Illinois và Wisconsin.
Hiếm khi có một tiểu bang nằm ở phía đơng Sơng Mississippi được xem là thuộc miền
Tây hiện đại. Tuy nhiên trong lịch sử, Lãnh thổ Tây Bắc là một lãnh thổ xưa quan
trọng của Hoa Kỳ, bao gồm các tiểu bang hiện đại là Ohio, Indiana, Illinois, Michigan
và Wisconsin cũng như phần phía đơng bắc của Minnesota.
Sơ lược về lịch sử miền Tây- Tây tiến
Miền biên giới đã làm được nhiều điều để tạo dựng nên cuộc sống của nước Mỹ.
Những điều kiện ở dọc toàn bộ vùng bờ biển Đại Tây Dương đã kích thích di dân tới
những khu vực mới mẻ hơn. Từ New England nơi đất đai đã không thể đem lại những
năng suất ngũ cốc cao, đã xuất phát cả một dòng người đều đặn gồm những người đàn
ông và đàn bà rời các trang trại và làng mạc vùng ven bờ biển của họ tới vùng đất nội địa
màu mỡ của lục địa. Ở các khu định cư miền xa xôi của các bang Nam và Bắc Carolina
và Virginia, dân chúng bị bất lợi vì thiếu những con đường và những con kênh cho phép
tiếp cận những thị trường ven biển, và họ cũng chịu khốn khổ vì sự thống trị về chính trị
của các chủ đồn điền vùng thủy triều vốn cũng phải di chuyển về miền Tây. Cho đến năm
1800, các thung lũng sông Mississippi và Ohio đang trở thành vùng biên giới rộng lớn.
“Chào nhé, chúng tơi ra đi, trơi xi dịng trên xứ Ohio”, lời hát này đã trở thành bài ca
của hàng ngàn dân di cư.
Dòng dân cư tiến về miền Tây vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn tới sự phân chia những vùng
lãnh thổ cũ, và xác lập những đường biên giới mới. Vì có các bang mới được kết nạp nên
tấm bản đồ chính trị đã ổn định hóa vùng phía đơng của Mississippi. Từ năm 1816 đến
năm 1821, 6 bang đã được thành lập: Indiana, Illinois và Maine (đây là 3 bang tự do) và
Mississippi, Alabama và Missouri (các bang nô lệ). Miền biên giới đầu tiên đã gắn bó
chặt chẽ với châu Âu, miền biên giới thứ hai có quan hệ chặt chẽ với các vùng định cư
ven bờ biển, nhưng thung lũng sông Mississippi là độc lập và dân cư vùng này chăm chú
nhìn sang miền Tây hơn là sang miền Đông.
Cư dân miền biên giới là một nhóm cư dân khác. Một du khách Anh đã mô tả họ như là
một sắc dân táo bạo, liều lĩnh và chịu được gian khổ đang sống trong những căn lều tồi
tàn… Họ là những người thô lỗ nhưng hiếu khách, dễ thương đối với người ngoại quốc,
họ trung thực và cả tin. Họ gieo trồng ít ngô của người da đỏ, bí ngô, nuôi heo và nhiều
khi họ có một hay hai con bị… Khẩu súng trường là phương tiện chống đỡ chính yếu của
họ. Vốn rất khéo léo, lành nghề với cây rìu, cái bẫy và chiếc cần câu, những người này
đốt dọn những con đường đi, dựng những căn lều đầu tiên bằng gỗ súc và đối chọi với
những bộ lạc da đỏ bản địa có đất đai bị họ chiếm.
Khi ngày càng có nhiều cư dân nhập cư lọt sâu vào vùng đất hoang dã thì nhiều người đã
trở thành các chủ trại cũng như thợ săn. Một căn nhà tiện nghi bằng gỗ súc với các cửa sổ
lắp kính, một ống khói và các phịng riêng biệt đã thay thế cho chiếc lều gỗ, giếng nước
đã thay thế cho dòng suối. Những người định cư siêng năng cần cù sẽ nhanh chóng dọn
quang những vùng đất mọc đầy cây to bằng việc đốt gỗ lấy tro làm phân bón và để lại các
gốc cây đã đốn mục nát. Họ trồng ngũ cốc, rau và quả; sắp xếp các cánh rừng để nuôi
hươu, gà tây rừng và lấy mật; họ đánh cá ở những con suối gần nhà; chăm sóc đàn gia súc
và heo. Những người đầu cơ đất đai mua những khoảnh đất rộng, rẻ, và nếu giá đất tăng
họ bán những ruộng đất của họ đi và họ tiếp tục đi xa hơn nữa về miền Tây, mở đường
cho những người khác.
Các thầy thuốc, luật sư, chủ cửa hàng, biên tập viên, nhà truyền giáo, thợ cơ khí và các
nhà chính trị chẳng bao lâu sau đã đi theo các chủ trại. Tuy nhiên, các chủ trại là một cơ
sở vững chắc. Ở những nơi họ định cư, họ có ý định ở lại và hy vọng con cái họ sẽ ở đó
sau khi họ qua đời. Họ xây dựng những kho lúa lớn và những ngôi nhà gạch hay nhà
khung. Họ mua gia súc giống đã cải tạo, cày cấy đất đai và gieo những loại hạt có năng
suất cao. Một số người dựng những xưởng xay bột, xưởng cưa và lò cất rượu. Họ tạo nên
những con đường chính rất bền tốt, họ xây những ngơi nhà thờ và trường học. Những
biến đổi khó có thể tin được đã hoàn tất chỉ sau vài năm. Vào năm 1830 chẳng hạn,
Chicago ở bang Illinois chỉ là một khu làng buôn bán với một pháo đài không có triển
vọng gì; nhưng ngay một thời gian dài trước khi một số người định cư đầu tiên qua đời
thì khu làng đó đã trở thành một trong số những thành phố rộng lớn nhất và giàu có nhất
nước Mỹ.
Thật dễ dàng có thể sở hữu những trang trại. Sau năm 1820, đất của nhà nước có thể mua
được với giá 1,25 đô-la cho một nửa héc -ta và sau Đạo luật Trang trại ban hành năm
1862 thì đất đó có thể có được chỉ cần bằng chiếm cứ và cải tạo thôi. Hơn nữa, những
công cụ để canh tác đất đai cũng dễ kiếm. Đó là cái thời khi mà, theo câu nói của John
Soule viết ra và được nhà báo Horace Greeley phổ biến, những người trẻ tuổi có thể tiến
về miền Tây và lớn lên cùng đất nước.
Ngoại trừ việc di cư tới vùng Texas do Mexico sở hữu thì biên giới vùng nơng nghiệp
phát triển sang phía tây chỉ mãi tới năm 1840 mới qua miền Missouri. Vào năm 1819, để
trả công cho việc đoạt được những quyền khai khẩn của công dân Mỹ với trị giá 5 triệu
đô la, nước Mỹ đã đoạt từ tay Tây ban Nha cả vùng Florida lẫn quyền của Tây Ban Nha
sở hữu khu vực Oregon ở miền Viễn Tây. Đồng thời, miền Viễn Tây đã trở thành khu vực
hoạt động rộng lớn của việc buôn bán lông thú mà vốn dĩ có giá trị hơn nhiều so với da
thú. Cũng như những ngày đầu tiên của cuộc thám hiểm của người Pháp ở thung lũng
Mississippi, lái buôn là người mở đường cho dân định cư vượt qua sông Mississippi.
Những thợ bẫy thú lấy da là người Pháp và người Xcotlen – Ai-len khi khảo sát những
con sông lớn và các nhánh sông đã phát hiện ra những đoạn đèo trên các dãy núi Rocky
và Sierra, từ đó dẫn tới việc di dân bằng đường bộ vào thập niên 1840 và sau này, mở ra
khả năng khai khẩn vùng nội địa nước Mỹ.
Xét một cách tồn diện thì sự tăng trưởng của đất nước thật to lớn: dân số tăng từ 7, 25
triệu lên hơn 23 triệu từ năm 1812 đến năm 1852, đất đai sẵn có cho việc định cư tăng
gần bằng diện tích châu Âu – từ 4, 4 triệu lên tới 7, 8 triệu km2. Tuy nhiên, vấn đề vẫn
chưa được giải quyết đó là những cuộc xung đột căn bản giữa các địa phương mà cho đến
những năm 1860 bùng nổ thành nội chiến. Một điều cũng không thể tránh khỏi là cuộc
mở rộng sang miền Tây đã khiến dân nhập cư xung đột với dân bản địa của miền đất này
là người da đỏ.
Vào đầu thế kỷ XIX, nhân vật kiệt xuất nhất gắn bó với những xung đột đó là Andrew
Jackson, người miền Tây đầu tiên chiếm lĩnh Nhà Trắng. Vào giữa cuộc chiến tranh năm
1812, Jackson khi đó phụ trách lực lượng dân quân Tennesse đã được phái tới phía nam
Alabama, tại đây ơng đã đàn áp khơng thương xót cuộc khởi nghĩa của dân da đỏ Creek.
Sau đó, người Creek đã nhượng hai phần ba đất đai của họ cho Hoa Kỳ. Sau này Jackson
đã đánh tan những băng nhóm người da đỏ Seminole, khiến họ phải chạy khỏi những
vùng trú ẩn của họ ở Florida do người Tây Ban Nha sở hữu.
Vào những năm 1820, Bộ trưởng Chiến tranh của Tổng thống Monroe, ông John C.
Calhoun, đã theo đuổi chính sách lùa những bộ lạc cịn lại ra khỏi miền Tây Nam cổ kính
và tái định cư họ ở bên kia sông Mississippi. Jackson đã tiếp tục chính sách này với tư
cách là tổng thống. Vào năm 1830, Quốc hội đã thông qua Đạo luật di chuyển người da
đỏ, cung cấp tài chính để đưa các bộ lạc miền Đông qua sông Mississippi. Vào năm 1834,
một vùng lãnh thổ đặc biệt của người da đỏ đã được thiết lập ở khu vực mà bây giờ là
bang Oklahoma. Tính tổng cộng thì các bộ lạc đã ký 94 hợp đồng trong thời gian hai
nhiệm kỳ của Jackson để nhượng quyền sở hữu hàng triệu hécta đất cho Chính phủ Liên
bang và di dời hàng chục bộ lạc ra khỏi vùng đất chôn nhau cắt rốn của tổ tiên họ.
Có lẽ chương bi hùng nhất trong cuốn sử bất hạnh này liên can tới người da đỏ Cherokees
mà đất đai của họ ở vùng phía tây bang Nam Carolina và bang Georgia đã được bảo đảm
bằng hiệp ước từ năm 1791. Vốn là một trong những bộ lạc tiến bộ nhất trong các bộ lạc
miền Đông, số phận người Cherokees đã được quyết định khi vàng được phát hiện trên
đất đai của họ vào năm 1829. Người Cherokees đã bị bắt buộc phải tiến hành cuộc di
chuyển lâu dài và hiểm nghèo tới Oklahoma vào năm 1835. Nhiều người đã chết vì bệnh
tật và tình trạng vất vả, thiếu thốn trên con đường nổi tiếng mang tên Đoạn trường nước
mắt.
Miền biên ải, miền Tây và trải nghiệm của nước Mỹ
Biên giới – ranh giới giữa lãnh thổ đã có người định cư với vùng đất chưa có
người ở – bắt đầu từ Jamestown và Plymouth Rock. Biên giới dịch chuyển về phía Tây
suốt chiều dài gần 300 năm, băng qua những vùng đất hoang sơ, rợp bóng rừng và những
đồng bằng trống trải cho đến khi cuộc điều tra dân số cứ mười năm một lần tiến hành
năm 1890 cho thấy chí ít, Hợp chủng quốc khơng cịn nhận thấy ranh giới phân chia định
cư một cách rõ ràng nữa.
Vào thời đó, đối với nhiều người, một chương lịch sử dài đã khép lại – một chương sử mà
ở đó đất nước đã vươn lên từ vài thương điếm nhỏ mang dấu ấn văn minh của người Anh
tới vị thế của một quốc gia độc lập có bản sắc riêng. Người ta dễ dàng có thể tin rằng q
trình khai hoang và hậu khai hoang, cứ thế liên tục diễn ra khi người ta đi chinh phục một
lục địa mới, chính là nhân tố quyết định tới sự phát triển của quốc gia non trẻ này.
Năm 1893, nhà sử học Frederick Jackson Turner, khi thể hiện một cảm xúc thường thấy ở
nhiều người như ơng hồi đó, đã tun bố chính miền biên giới đã khiến cho nước Mỹ
khơng phải là một khúc thừa của châu Âu. Miền biên cương đã giúp tạo nên một dân tộc
có văn hóa có lẽ thơ ráp hơn của châu Âu nhưng giàu thực tế, nhiệt huyết, cá tính và dân
chủ hơn. Sự tồn tại của những khu vực đất tự do rộng lớn đã giúp tạo nên một dân tộc có
nhiều chủ sở hữu và là van an toàn cho những tâm tư uẩn khúc ở các thành phố và những
nơi định cư q đơng. Những phân tích của ơng hàm ý một nước Mỹ khơng có miền biên
ải hẳn sẽ rất giống như một châu Âu rệu rã, với những chế độ xã hội bị phân tầng, xung
đột giai cấp và hiếm có cơ hội tốt.
Sau hơn một trăm năm, các học giả vẫn còn tranh luận về tầm quan trọng của miền biên
ải trong lịch sử Hoa Kỳ. Rất ít người cho rằng miền biên ải giờ đây vẫn còn mang ý nghĩa
quan trọng quyết định như Turner đã nêu. Một số người thậm chí cịn đi xa hơn bằng cách
bác bỏ lập luận của Turner. Họ cho rằng ông đã lãng mạn hóa cả một q trình lịch sử
đẫm máu và nước mắt – với những dấu ấn như cuộc chiến chinh phục Mexico, cách thức
đối xử gần như diệt chủng với các bộ lạc da đỏ và tàn phá mơi trường. Họ cho rằng
những hình ảnh thường thấy ở miền biên giới là chỉ là khổ ải và thất bại.
Dẫu vậy, thật khó có thể tin rằng ba thế kỷ dài trong phong trào Tây tiến lại không có tác
động nào tới bản sắc dân tộc. Chúng ta hãy nhớ lại, những nhà quan sát đầy tinh tế người
nước ngoài như học giả người Pháp Alexis de Tocqueville lại mê mẩn trước miền Tây
Hoa Kỳ. Thực vậy, khu vực định cư cuối cùng ở biên giới – một vùng đất rộng thênh
thang, trải dài từ Texas lên phía Bắc cho tới tận biên giới Canada mà ngày nay người Mỹ
gọi chung là miền Tây – dường như vẫn mang những lý tưởng đặc trưng nhất về chủ
nghĩa cá nhân, dân chủ và cơ hội hiện hữu rõ ràng hơn nhiều so với phần cịn lại của nước
Mỹ. Có lẽ chúng ta cũng có thể phát hiện thấy rằng nhiều người ở nhiều vùng đất khác,
khi nghe thấy hai tiếng người Mỹ cũng đều liên tưởng ngay tới biểu tượng của vùng biên
giới cuối cùng đó – “cao bồi”.
Khái quát lịch sử Mỹ (Ch.5): Mở rộng sang phía Tây và sự khác biệt giữa các vùng
Nguồn: Alonzo L. Hamby, Outline of U.S. History (New York: Nova Publishers, 2007),
Ch. 5.
“Hãy tiến về phía tây, hỡi chàng trai, và hãy lớn lên cùng tổ quốc”
– Biên tập viên Horace Greeley, 1851
II. NỘI DUNG BÀI VIẾT
2.1. Phần dẩn nhập : Là sự giới thiệu một cách sơ lược về miền Tây là hoạt động nghiên
cứu lịch sử miền Tây nước Mỹ
Nhận định Miền Tây trong trí tưởng tượng của nhiều người chính là đại diện cho nước
Mỹ trong phần mở đầu như nhấn mạnh tầm quan trọng của khu vực miền Tây nước Mỹ.
Để làm rõ cho nhận định trên, tác giả cố gắng khắc họa những hình ảnh được xem là biểu
tượng của miền Tây như: người đi khai hoang, cao bồi, túp lều gỗ, đồn xe gng. Tác
giả nêu ra những tư tưởng, giá trị chủ đạo của lịch sử miền Tây như: dân chủ, bình đẳng,
chủ nghĩa cá nhân, niềm tin vào tiến bộ- những giá trị mà luôn luôn được thể hiện theo
một cách thuần tùy nhất. Tác giả nêu ra luận điểm của Tuner: “ Sự tồn tại của một vùng
đất đai tự do, sự suy giảm liên tục của nó và việc người định cư Mỹ tiến về phía Tây là
nhân tố giải thích cho sự phát triển của Mỹ”. Trong luận điểm này, phía Tây đóng vai trị
như một lực lượng Mỹ hóa mang tính tinh túy tái tạo các giá trị Mỹ và những người nhập
cư Mỹ.
Những luận điểm mang ý nói chung như vậy kết hợp với các hình ảnh được khắc họa
thông qua phương tiện nghệ thuật như là sự thể hiện mối quan tâm về lịch sử. Đồng
nghiên cứu về miền tây có một số các học giả như Brian Pippie, Paul Hutton, Anne Hyde,
L.G. Moses, Divad Wrobel,…đã khắc họa được những khía cạnh khác nahu về lịch sử
miền Tây. Tầm quan trọng của miền Tây ở Mỹ đã giúp khơi phục lại lịch sử miền Tây,
đưa nó đến vị trí nổi bật. Sự mở rộng lịch sử, xã hội và văn hóa sang các chủ đề miền Tây
là mối quan tâm ngày càng tăng của các sử gia đối với những nghiên cứu về chủng tộc,
tầng lớp và giới được xem như chủ lưu. Một số nội dung nghiên cứu chủ yếu để đáp ứng
nhu cầu của đương đại bao gồm: lịch sử môi trường, lịch sử về định cư và hính thành
cộng đồng, lịch sử về các hoạt động của liên bang ở miền Tây và lịch sử người Anhđiêng.